Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.2 KB, 29 trang )

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI
VỚI KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH
I. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY
1. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại trong lĩnh vực kinh doanh
tiền tệ
1.1Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một trong những ngành công nghiệp lâu đời nhất. Ngân
hàng thương mại đầu tiên được thành lập vào năm 1782 tại Mỹ.
Khi sản xuất hàng hoá phát triển thúc đẩy trao đổi hàng hoá và lưu thông hàng hoá
được mở rộng trên nhiều vùng. Tuy nhiên, do có sự khác biệt giữa các đồng tiền ở những
vùng khác nhau nên người ta phải đổi tiền để mua hàng hoá. Do đó xuất hiện những nhà
buôn tiền gọi là “các thương gia tiền tệ”, công việc của họ là “đổi tiền”. Nhờ có đổi tiền
nên các hoạt động giao lưu hàng hoá phát triển hơn. Việc sản xuất kinh doanh phát triển đã
xuất hiện nhiều thương gia giàu có, họ không biết dùng tiền để làm gì và muốn cất giữ nó ở
nơi an toàn, khi đó hoạt động nhận gửi xuất hiện, ngưòi gửi phải trả lệ phí. Cùng với hoạt
động gửi tiền, hoạt động chi trả hộ cũng hình thành. Tiền luôn nằm trong tay nhà buôn tiền
vì các thương gia thanh toán cho nhau nhưng không ai lấy tiền của mình ra. Vì vậy nhà
buôn tiền có trong tay một khối lượng tiền khá lớn, trong khi đó nhiều người có nhu cầu
vốn để sản xuất kinh doanh và hoạt động cho vay xuất hiện, nhà buôn tiền sẽ nhận được lãi
cho vay. Lúc này những hoạt động của nhà buôn tiền đã thành một nghề gọi là Ngân hàng.
Như vậy, những hoạt động cơ bản đầu tiên của Ngân hàng là đổi tiền, nhận gửi, chi
trả hộ và cho vay. Cùng với sự phát triển nền kinh tế, các hoạt động khác của Ngân hàng
ngày càng phát triển phong phú và đa dạng trên phạm vi rộng khắp.
Có nhiều khái niệm về Ngân hàng thương mại.
Theo Luật, pháp lệnh Ngân hàng và các tổ chức tín dụng định nghĩa: “Ngân hàng
thương mại là một doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ và hoạt động tín
dụng”
Theo luật các tổ chức tín dụng định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là tổ chức tín
dụng mà được thực hiện tất cả những hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm nhiệm vụ Ngân
hàng và các hoạt động khác có liên quan”.
1.2Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại


Ngân hàng thương mại có hai chức năng cơ bản là kinh doanh tiền tệ và chức năng
tạo tiền. Trong chức năng kinh doanh tiền tệ nhằm mục tiêu lợi nhuận, Ngân hàng thương
mại có những họat động chủ yếu sau:
a. Huy động vốn
Huy động vốn là việc Ngân hàng tập trung các nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong
nền kinh tế dưới các hình thức khác nhau. Các hình thức huy động vốn hiện có của Ngân
hàng thương mại bao gồm:
- Tiền gửi
Người ta gửi tiền vào Ngân hàng với nhiều mục đích, đó là để bảo quản, để thu nhập,
để sử dụng dịch vụ chi trả hộ và để vay. Dựa trên mục đích của ngưòi gửi tiền, tiền gửi
được phân chia thành hai dạng cơ bản : tiền gửi giao dịch và tiền gửi phi giao dịch.
Tiền gửi giao dịch nhằm mục đích để thanh toán, nó gắn liền với hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, tiêu dùng của dân cư. Tiền gửi giao dịch gồm tiền gửi có thể
phát séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi,thẻ chuyển bằng thư, mạng.
Tiền gửi phi giao dịch là tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, tổ chức tín dụng, tiết kiệm dân cư. Đây là những khoản tiền không thanh toán,
tạm thời nhàn rỗi, hiệu suất sử dụng cao vì nó tương đối ổn định nhưng lãi suất cao hơn
tiền gửi giao dịch.
- Ngân hàng huy động vốn thông qua việc phát hành kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi.
- Nguồn vay mượn Ngân hàng Trung ương hoặc các Ngân hàng khác nhằm bù đắp dự trữ
thiếu hụt, đảm bảo thanh toán khi cần thiết.
- Ngoài ra Ngân hàng còn huy động trên các nguồn khác như nguồn tiếp nhận uỷ thác đầu
tư, đầu tư tài chính ... những nguồn này không thường xuyên.
b. Hoạt động cho vay
Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của Ngân hàng thương mại để tạo ra lợi
nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí tiền dự trữ,
chi phí kinh doanh và quản lý,thuế các loại và các rủi ro đầu tư.
Kinh tế càng phát triển, lượng cho vay của các Ngân hàng thương mại càng tăng nhanh
và loại hình cho vay cũng trở nên đa dạng. Dựa vào kỳ hạn người ta phân chia cho vay
thành hai loại : cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn.

Cho vay ngắn hạn là loại cho vay truyền thống, thường chiếm tỷ trọng lớn trong danh
mục cho vay của các Ngân hàng, bao gồm những khoản cho vay có thời hạn dưói 1 năm.
Cho vay trung và dài hạn được áp dụng cho những dự án sản xuất kinh doanh, chương
trình phát triển kinh tế – xã hội, đầu tư xây dựng cơ bản. Cho vay trung, dài hạn là những
khoản vay có thời hạn trên 1 năm. Xu hướng hiện nay nhu cầu về vốn tín dụng Ngân hàng
trung, dài hạn ngày càng tăng, vì vậy các Ngân hàng thương mại đang cố gắng dùng mọi
biện pháp nhằm mở rộng loại hình tín dụng này.
c. Các hoạt động trung gian khác
- Nghiệp vụ trung gian thanh toán: bao gồm thanh toán hộ, chuyển tiền hộ thông qua séc,
uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng được thực hiện theo sự uỷ nhiệm của khách
hàng trên cơ sở khách hàng đó có khoản tiền gửi thanh toán. Qua hoạt động này Ngân
hàng nhận được một khoản thu nhập gọi là phí và cũng giúp Ngân hàng tạo nguồn để
cho vay.
- Hoạt động bảo lãnh: là nghiệp vụ Ngân hàng cam kết trả tiền thay cho khách hàng được
bảo lãnh nếu họ không thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ với bên yêu cầu bảo lãnh. Hoạt
động này cũng tạo thêm thu nhập cho Ngân hàng thông qua phí bảo lãnh.
- Hoạt động đầu tư: là việc Ngân hàng nắm giữ các chứng khoán và các giấy tờ có giá
khác nhằm nhiều mục đích như tăng thu nhập, đa dạng hoá tài sản Ngân hàng, để thanh
toán.
- Các hoạt động khác như dịch vụ cho thuê két sắt, tư vấn...
2. Những vấn đề cơ bản về cho vay
2.1 Khái niệm cho vay
Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động mang tính truyền thống của Ngân
hàng, cho đến nay nó không những tồn tại mà còn phát triển ngày càng đa dạng, phong
phú. Cùng với sự phát triển kinh tế thị trường, nhu cầu vốn càng gia tăng và tất nhiên hoạt
động cho vay của Ngân hàng là không thể thiếu được.
Người ta thường hiểu cho vay đồng nghĩa với tín dụng. Cho đến nay, chưa có một khái
niệm thống nhất về tín dụng cũng như cho vay. Nhưng trong bài viết này ta thống nhất
quan điểm cho rằng cho vay là một hình thức cấp tín dụng. Danh từ tín dụng dùng để chỉ
một số hành vi kinh tế như: bán chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, ký thác, phát

hành giấy bạc.
Trong mỗi hành vi tín dụng, hai bên cam kết với nhau như sau:
- Một bên trao ngay một số tài hoá hay tiền bạc.
- Bên kia cam kết sẽ hoàn lại đối khoản của số tài hoá đó trong một thời gian nhất định
và theo một số điều kiện nhất định.
Nhà kinh tế Pháp, ông Louis Baundin, đã định nghĩa tín dụng như là “một sự trao đổi
tài hoá hiện tại lấy một tài hoá tương lai”. Ở đây, yếu tố thời gian đã xen vào và cũng vì thế
dẫn đến có thể có sự bất trắc, rủi ro xảy ra và cần có sự tín nhiệm giữa hai bên đương sự
với nhau. Những hành vi tín dụng có thể được thực hiện bởi bất cứ ai, tuy nhiên với thời
gian, chúng ta thấy một sự chuyên nghiệp đã xảy ra, và ngày nay khi nói đến tín dụng,
người ta nghĩ ngay tới Ngân hàng vì Ngân hàng là cơ quan chuyên thực hiện các việc như
cho vay, bảo lãnh, chiết khấu, ký thác và phát hành giấy bạc. Xu hướng hiện nay, ngưòi ta
ít vay mượn lẫn nhau mà thường tới Ngân hàng. Đó là lý do để người ta đồng nhất tín dụng
với cho vay của Ngân hàng.
Theo Quyết định số 28/2001/QĐ - NHNN1 ngày 15/8/2001 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước định nghĩa cho vay như sau:
Cho vay là một hình thức của cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách
hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả
thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Như trên đã phân tích thì cho vay chỉ là một hình thức của tín dụng, nhưng trong bài
viết này xin được thống nhất về mặt từ ngữ rằng nói đến tín dụng nghĩa là cho vay.
2.2 Phân loại cho vay
Cho vay của Ngân hàng là hoạt động rất phức tạp, vì vậy ứng với mỗi tiêu chí khác
nhau sẽ có cách phân loại khác nhau.
- Căn cứ vào kỳ hạn, người ta phân chia thành:
Theo Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướcViệt nam
+ Cho vay ngắn hạn: là những khoản vay có kỳ hạn tối đa đến 12 tháng, được xác
định phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
+ Cho vay trung, dài hạn: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời hạn thu
hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn cho vay

của tổ chức tín dụng.
Thời hạn cho vay trung hạn là từ trên 12 tháng đến 60 tháng.
Thời hạn cho vay dài hạn : Từ trên 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt
động còn lại theo Quyết định thành lập hoặc Giấy phép thành lập đối với pháp nhân
và không quá 15 năm đối với cho vay các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay, cho vay gồm:
+ Cho vay tiêu dùng
+ Cho vay kinh doanh
- Căn cứ vào tính chất bảo đảm vốn vay:
+ Cho vay có bảo đảm: là việc cho vay có cầm giữ các vật thế chấp cụ thể nào
đó,vật thế chấp là các loại tài sản như bất động sản, biên nhận ký gửi hàng hoá, các
khoản phải thu, nhà máy và trang thiết bị,vận đơn có thể chuyển hoá được, cổ phiếu
công ty và các trái khoán, và những tài sản khác với điều kiện là nó có thể bán được.
Cho vay có bảo đảm nhằm mục đích hạn chế rủi ro mất mát của Ngân hàng trong
trường hợp người vay không muốn hoặc không thể trả được nợ, tạo tâm lý yên tâm cho
Ngân hàng và người vay sẽ có ý thức hoàn trả nợ.
+ Cho vay không có bảo đảm: khác với cho vay có bảo đảm,việc cho vay không có
bảo đảm dựa trên uy tín của ngưòi vay, tình hình tài chính của người vay, lợi tức thu
được trong tương lai, quan hệ trước đây giữa Ngân hàng và khách hàng ....Ở Việt nam
hiện nay việc cho vay không có bảo đảm chủ yếu vẫn là đối với Chính phủ và một số
doanh nghiệp Nhà nước.
- Căn cứ theo ngành nghề gồm cho vay nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp...
- Căn cứ theo đối tượng vay, gồm: cho vay cá nhân, tổ chức, Chính phủ...
- Căn cứ vào phương thức cho vay:
Trên cơ sở nhu cầu sử dụng của từng khoản vốn vay của khách hàng và khả năng kiểm
tra, giám sát việc khách hàng sử dụng vốn vay của Ngân hàng và sự thoả thuận giữa Ngân
hàng với khách hàng về việc lựa chọn phương án cho vay theo một trong các phương thức
cho vay sau đây:
+ Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và Ngân hàng làm thủ tục vay vốn cần
thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.

+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: Ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận một
hạn mức tín dụng duy trì trong thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất, kinh doanh.
+ Cho vay theo dự án đầu tư: Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện dự án
đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
+Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay
vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó, có một tổ chức tín dụng làm đầu
mối giàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Ngoài ra cho vay hợp vốn còn phải
thực hiện theo quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước ban hành.
+ Cho vay trả góp: Khi vay vốn, Ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi
tiền vay phải trả cộng vơí số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời
hạn cho vay.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Ngân hàng cam kết bảo đảm sẵn sàng cho
khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Ngân hàng và khách hàng
thoả thuận thừi hạn hiệu lực của hạn mứctín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín
dụng dự phòng.
+ Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Ngân hàng chấp
thuận cho khách hàng sử dụng vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền
mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý
của Ngân hàng.
+ Các phương thức cho vay khác phù hợp với những Quy định và Quy chế của Ngân
hàng Nhà nước.
2.3 Quy định trong cho vay
a. Điều kiện cho vay
Ngân hàng xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng đủ những điều kiện sau:
- Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự
theo quy định của pháp luật.
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
- Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi, có hiệu quả hoặc có

dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi kèm theo phườn án trả nợ khả thi.
- Thực hiện các Quy định về bảo đảm tiền vay.
b. Nguyên tắc cho vay
Khách hàng vốn vay của Ngân hàng phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Việc bảo đảm tiền vay phải thực hiện quy định của Chính phủ và của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước.
c. Đối tượng vốn vay
- Giá trị vật tư, hàng hoá, máy móc, thiết bị bao gồm cả thuế giá trị giá tăng nằm trong
tổng giá trị lô hàng và các khoản chi phí để thực hiện các dự án đầu tư, phương án sản xuất
kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống;
- Các nhu cầu tài chính của khách hàng :
+ Số tiền thuế xuất nhập khẩu khách hàng phải nộp để làm thủ tục xuất, nhập khẩu mà
giá trị lô hàng đó Ngân hàng có tam gia cho vay;
+ Số tiền vay trả cho Ngân hàng cho vay trong thời hạn thi công, chưa bàn giao và đưa
tài sản cố định vào sử dụng đối với cho vay trung, dài hạn để đầu tư tài sản cố định mà
khoản lãi được tính trong giá trị tài sản cố định đó;
+ Số tiền khách hàng vay để trả cho các khoản tài chính cho nước ngoài mà các khoản
đó đã được Ngân hàng trong nước baỏ lãnh;
+ Các nhu cầu tài chính phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống
theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
d. Quy trình cho vay
Để đảm bảo tính an toàn trong cho vay và thực hiện đúng Quy định của Nhà nước, khi
cho vay, dù món vay thuộc loại nào thì các Ngân hàng cũng phải thực hiện theo các bước
sau:
Bước 1: Phân tích các yếu tố tín dụng
- Thu thập thông tin:
Ngân hàng tiếp nhận hồ sơ vay vốn và các giấy tờ khác từ khách hàng. Khi khách hàng
có nhu cầu, họ phải đến Ngân hàng xin vay và nộp các giấy tờ cần thiết theo yêu cầu của

Ngân hàng như hồ sơ vay vốn, hồ sơ kinh tế khách hàng, hồ sơ tài sản thế chấp, bảo lãnh,
cầm cố.
Ngoài ra, Ngân hàng còn thu thập thông tin trên nhiều nguồn khác nhau như thông qua
việc phỏng vấn người xin vay, điều tra nơi hoạt động, sản xuất, kinh doanh của người vay
diễn ra hoặc từ các cơ quan cung ứng thông tin ...
- Xử lý thông tin:
Khi có được các giấy tờ và các thông tin cần thiết Ngân hàng tiến hành phân tích chúng
dựa trên 5 yếu tố: uy tín của người vay, khả năng tạo ralợi nhuận của phương án sử dụng
vốn vay, năng lực vay nợ của người vay, quyền sở hữu tài sản, các diều kiện kinh tế khác.
Việc xử lý thông tin nhằm mục đích đánh giá tính khả thi của dự án vay vốn, xem xét
các tính hợp pháp, hợp lệ của các giấy tờ..., từ đó dự đoán khả năng thu nợ và thu nhập của
Ngân hàng.
Toàn bộ quá trình thu thập và xử lý ở trên gọi là thẩm định dự án vay vốn, đây là khâu
đầu tiên nhưng rất quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả kinh doanh của Ngân
hàng. Khâu thẩm định đòi hỏi rất cao về trình độ cán bộ, việc thẩm định không những phải
được tiến hành chặt chẽ, chi tiết mà còn rất cần đến tính linh hoạt, sự nhạy cảm trong công
việc của cán bộ tín dụng. Như ta đã biết, trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cũng
như hoạt động cho vay nói riêng, Ngân hàng luôn đứng trước sự lựa chọn giữa “an toàn”
và “sinh lời”, hai vấn đề này vừa bổ sung cho nhau, vừa ngược nhau, vì vậy để kinh doanh
hiệu quả Ngân hàng phải kết hợp cả hai yếu tố. Việc thẩm định các dự án vay theo đúng
nguyên tắc chặt chẽ sẽ giúp Ngân hàng tăng thêm tính an toàn trong hoạt động cho vay, tuy
nhiên, không phải lúc nào ta cũng áp dụng tính nguyên tắc trong công việc vì khi đó Ngân
hàng có thể bỏ lỡ nhiều cơ hội cho vay các dự án sinh lời cao.
Kết thúc bước này, người có quyền quyết định cuối cùng đồng ý hoặc từ chối cho vay.
Trong các trường hợp cần thiết, giám đốc hoặc người được uỷ quyền quyết định cho vay
có thể chỉ định một số cán bộ có kinh nghiệm thực hiện tái thẩm định dự án hoặc thông qua
Hội đồng tín dụng trước khi ra quyết định cho vay. Sau khi đưa ra quyết định cho vay,
Ngân hàng tiến hành các bước tiếp theo.
Bước 2: Ký kết hợp đồng bảo đảm
Để đảm bảo tính an toàn trong cho vay thì việc yêu cầu khách hàng ký kết hợp đồng bảo

đảm vốn vay với Ngân hàng là rất cần thiết. Có nhiều hình thức bảo đảm khác nhau như
bảo đảm bằng thế chấp, cầm cố tài sản, bảo lãnh, tín chấp...Tuỳ theo cho vay đối tượng nào
mà yêu cầu bảo đảm khác nhau, ví như, khi cho vay doanh nghiệp Nhà nước có uy tín, có
quan hệ lâu dài với Ngân hàng thì không cần tài sản thế chấp mà bảo đảm bằng tín chấp,
nhưng hiện nay việc cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh bắt buộc phải bảo đảm bằng
thế chấp.
Bước 3: Ký kết hợp đồng tín dụng
Sau khi quyết định cho vay, Ngân hàng và khách hàng ký kết hợp đồng tín dụng theo
mẫu thống nhất trong toàn hệ thống Ngân hàng. Căn cứ tình hình thực tế, đặc điểm từng
món vay, Ngân hàng cho vay có thể sửa đổi bổ sung một số chi tiết trong hợp đồng mẫu,
nhưng hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điêù kiện vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn
vay, cách thức giải ngân và sử dụng vốn vay, mục đích sử dụng tiền vay, phương thức và
kỳ hạn trả nợ, hình thức đảm bảo tiền vay, giá trị tài sản đảm bảo, biện pháp xử lý tài sản
làm đảm bảo, chuyển nhượng hoặc không chuyển nhượng hợp đồng tín dụng và những
cam kết khác được hai bên thoả thuận.
Bước 4: Giải ngân và kiểm soát trong khi cho vay
Thực hiện kế hoạch giải ngân phải gắn liền với các điều kiện giải ngân, điêù kiện giải
ngân là một nội dung của hợp đồng tín dụng. Tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và do hoạt
động kinh doanh của họ mà Ngân hàng tiến hành giải ngân một lần hay nhiều lần.
Khi cho vay, Ngân hàng phải thực hiện kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay nhằm
đảm bảo tính an toàn tín dụng. Tuỳ theo điều kiện cụ thể và mức độ tín nhiệm đối với
khách hàng mà Ngân hàng xây dựng quy chế kiểm tra thường xuyên hay đột xuất việc sử
dụng vốn vay của khách hàng.
Kiểm soát trước khi cho vay là việc kiểm tra các điều kiện vay vốn, hồ sơ vay vốn và
các nội dung khác.
Kiểm soát trong khi cho vay tức là kiểm tra trong giai đoạn giải ngân bao gồm các công
việc kiểm tra chứng từ, tài liệu gửi kèm giấy nhận nợ khi khách hàng rút vốn vay để đảm
bảo phù hợp với mục đích xin vay quy định trong hợp đồng. Trường hợp cần thiết phải
kiểm tra thực tế tình hình sử dụng vốn tại đơn vị khách hàng như Ngân hàng đi kèm với
khách hàng trong việc chi trả tiền hàng( tiền đó do Ngân hàng cho vay ).

Kiểm soát sau khi cho vay gồm: kiểm tra thực tế tình hình sử dụng vốn vay, tìm hiểu
tình hình sản xuất kinh doanh, khó khăn thuận lợi trong việc thu nợ, phát hiện kịp thời các
vi phạm quy chế cho vay, vi phạm hợp đồng tín dụng để có biện pháp xử lý kịp thời.
Bước 5: Thu nợ và giải quyết nợ quá hạn
Việc thu nợ không chỉ thực hiện khi đến hạn mà còn có thể tiến hành thu nợ trước trong
những trường họp đặc biệt như: sử dụng vốn vay không đúng mục đích, có dấu hiệu lừa
đảo, phá sản.
Thu nợ đến hạn là trường hợp tốt nhất mà Ngân hàng mong muốn.
Khi xảy ra nợ qúa hạn, Ngân hàng phải có biện pháp xử lý thích hợp đối với từng
trường hợp, việc xử lý khoản cho vay có vấn đề là cả một nghệ thuật. Đối với những khách
hàng thành thật và có mong muốn trả nhưng do những nguyên nhân khách quan khiến họ
không thể trả nợ cho Ngân hàng đúng thời hạn thì Ngân hàng có thể gia hạn nợ, cấp thêm
vốn để họ tiếp tục hoạt động, tư vấn cho khách hàng ... Nếu khách hàng tỏ ra dối trá, lừa
đảo, vỡ nợ, phá sản thì Ngân hàng cần áp dụng các biện pháp chế tài và những biện pháp
cứng rắn khác để bằng mọi giá thu được nợ.

2.4 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay
Mối quan hệ giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra được gọi là hiệu quả. Như vậy, hiệu
quả có phạm vi rất rộng và được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau.
Hiệu quả cho vay có thể hiểu là sự đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng phù hợp
với sự phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Trong
phạm vi bài viết này, hiệu quả cho vay bao gồm cả về mặt chất lượng và số lượng cho vay.
Vì vậy, ta có thể đưa ra một số chỉ tiêu làm thước đo đánh giá hiệu quả cho vay như sau:
- Dưới giác độ của một nhà Ngân hàng thì một món vay được gọi là có hiệu quả trước
hết phải là món vay mà vốn vay đó mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư và lợi nhuận đó có
thể trả được cả gốc và lãi đúng hạn. Vì mục đích của việc Ngân hàng cho vay là để thu lợi
nhuận, do đó việc nhận được thu nhập theo đúng thời gian đã định là điều mà Ngân hàng
luôn mong muốn. Ngược lại, về phía khách hàng vay vốn thì việc sử dụng vốn vay mang
lại lợi nhuận cũng là mục đích của họ khi vay vốn Ngân hàng.
- Một chỉ tiêu nữa nằm trong hiệu quả hoạt động cho vay là khách hàng sử dụng vốn

vay đúng mục đích, vì khi đó, vốn cho vay của Ngân hàng đã được sử dụng có ích cho nền
kinh tế, cho xã hội và cũng hạn chế được rủi ro tín dụng của Ngân hàng.
- Ngân hàng cho vay được gọi là có hiệu quả còn thể hiện sự tăng trưởng tín dụng, biểu
hiện qua doanh số cho vay, tổng số lãi thu được, doanh số thu nợ gốc, dư nợ.
- Vì Ngân hàng thương mại hoạt động trên cơ sở đi vay để cho vay nên khi nói đến hiệu
quả cho vay không thể không nói đến chi phí và doanh số huy động vào của Ngân hàng.
Cho vay có hiệu quả phải có doanh số cho vay tương đối cân bằng với lượng vốn huy động
được, nếu huy động được nhiều nhưng cho vay được ít hơn sẽ dẫn tới tình trạng ứ đọng
vốn, khi đó chi phí trả lãi cho đầu vào sẽ tăng dần mà thu nhập từ việc cho vay thì có thể
không bù đắp nổi. Về doanh số thu lãi khi cho vay phải lớn hơn chi phí huy động vốn để
vừa bù đắp được chi phí đầu vào vừa tạo thêm cho Ngân hàng một khoản vốn tự có lớn
hơn. Như vậy, cho vay có hiệu quả là phải tính đến tính cân đối giữa huy động vốn và cho
vay ra, đảm bảo quá trình luân chuyển vốn của Ngân hàng nhịp nhàng.
- Ngân hàng cho vay có hiệu quả còn thể hiện sự phát triển mối quan hệ lâu dài với
khách hàng, cả đối với khách hàng truyền thống và khách hàng tiềm năng nhằm mở rộng
thị phần cũng như uy tín của Ngân hàng trên thị trường tài chính trong nước cũng như quốc
tế.
- Đi liền với hiệu quả là yếu tố rủi ro, rủi ro là tiềm ẩn trong mọi hoạt động tín dụng. Để
nâng cao hiệu quả cho vay, Ngân hàng phải dự tính được mức độ rủi ro có thể xảy ra đối
với từng món vay và có những biện pháp xử lý kịp thời. Thông qua các chỉ tiêu định lượng
sau người ta có thể đánh giá được mức độ rủi ro Ngân hàng gặp phải khi cho vay :
+ Nợ quá hạn
+ Nợ quá hạn/ Dư nợ
+ Nợ khó đòi/ Nợ quá hạn
+ Nợ khoanh
+ Tổn thất do mất vốn
Ngoài ra, hiệu quả cho vay của Ngân hàng trong một thời kỳ còn được đánh giá
bằng các tỷ lệ như:
+ Doanh số cho vay / Số lượt cho vay
Tỷ lệ này càng lớn có nghĩa là doanh số cho vay trung bình mỗi lượt vay lớn thì món

vay đó có hiệu quả vì chi phí bỏ ra trong khi thực hiện món vay ít hơn nhiều so với tổng lãi
thu về.
+ Doanh số thu nợ/ Dư nợ bình quân
Tỷ lệ này biểu hiện vòng quay vốn tín dụng, tỷ lệ này càng lớn có nghĩa là dòng vốn
của Ngân hàng được luân chuyển nhanh chóng, đó cũng là hiệu quả cho vay.
II. KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI HOẠT
ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
1. Sự hình thành và phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh
1.1 Khái niệm kinh tế ngoài quốc doanh
Với đường lối đổi mới đề ra từ Đại hội Đảng lần thứ 6 (1986), Nhà nước ta đã có nhiều
văn bản luật và dưới luật nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của các thành phần
kinh tế. Nước ta hiện nay có năm thành phần kinh tế cơ bản là: thành phần kinh tế quốc
doanh, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể.
Tuy nhiên nếu xét theo hình thức sở hữu thì nền kinh tế Việt nam gồm có hai khu vực kinh
tế chính là kinh tế quốc doanh và kinh tế ngoài quốc doanh.

×