Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.62 KB, 36 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN
I. DỰ ÁN VÀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN:
1. Đầu tư:
Có nhiều cách hiểu khác nhau về đầu tư, tuỳ theo việc xem xét hoạt động
đầu tư đó mang lại kết quả đầu tư ra sao, cho đối tượng nào.
Đầu tư, theo nghĩa rộng, đó là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến
hành các hoạt động nào đố nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định
trong tương lai lớn hơn các nguồn lực bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nguồn lực đó
có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ.
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài
sản vật chất (nhà máy, đường xá, các của cải vật chất khác,…), tài sản trí tuệ (trình
độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật,…) và các nguồn lực có đủ điều kiện
để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực
ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế – xã hội những kết quả trong tương lai lớn
hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó.
Còn đứng trên góc độ một doanh nghiệp thì đầu tư là hoạt động quan trọng
quyết định sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp. Trong hoạt động đầu tư,
doanh nghiệp bỏ vốn dài hạn nhằm hình thành và bổ xung những tài sản cần thiết
để thực hiện những mục tiêu kinh doanh. Hoạt động này thể hiện qua việc thực
hiện các dự án đầu tư.
Như vậy có thể hiểu chung nhất: hoạt động đầu tư là quá trình sử dụng vốn
đầu tư nhằm nâng cao năng lực sản xuất – cả chiều rộng lẫn chiều sâu– cũng như
tạo ra các năng lực sản xuất mới.
2. Dự án đầu tư:
Trên thực tế, hoạt động đầu tư được thể hiện tập trung thông qua việc thực
hiện các dự án đầu tư, vì vậy việc đánh giá, xem xét hoạt động đầu tư là thông qua
dự án đầu tư do chủ dự án lập.
Dự án đầu tư (ở nước ta còn gọi là luận chứng kinh tế kỹ thuật) có thể được xem xét dưới nhiều góc độ.
Về mặt hình thức, dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động
và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện những mục tiêu nhất định trong tương lai.


Trên góc độ quản lý, dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn,
vật tư, lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế – xã hội trong một thời gian
dài.
Trên góc độ kế hoạch hoá, dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi
tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế – xã hội, làm
tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một hoạt động kinh tế
riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế nói chung.
Xét về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên
quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt các mục tiêu đã định bằng việc tạo
ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các
nguồn lực nhất định. Như vậy một dự án đầu tư bao gồm 4 thành phần chính
sau:
• Mục tiêu của dự án: là những lợi ích cần đạt được thông qua việc thực
hiện dự án đầu tư, mục tiêu mang tính xác định. Thường thể hiện ở 2 mức
độ:
 Mục tiêu trước mắt: là mục tiêu cụ thể mà dự án phải đạt được trong
khuôn khổ nhất định và trong khoảng thời gian nhất định.
 Mục tiêu lâu dài: là mục tiêu dự án góp phần thực hiện, mục tiêu này
được xác định trong kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế xã hội
của đất nước, của vùng. Đạt được mục tiêu trực tiếp là tiền đề góp
phần đạt được mục tiêu phát triển.
• Hoạt động của dự án: là những nhiệm vụ hoặc hành động được thực hiện
trong dự án để tạo ra những kết quả nhất định. Những nhiệm vụ hoặc
hành động này cùng với một lịch biểu và trách nhiệm cụ thể của các bộ
phận thực hiện sẽ tạo thành kế hoạch làm việc của dự án.
• Nguồn lực của dự án: đầu vào cần thiết để tiến hành dự án: vật chất, tài
chính và con người. Giá trị hoặc chi phí của các nguồn lực này chính là
vốn đầu tư cần cho dự án.
• Kết quả của dự án: đầu ra của dự án. Đó là những kết quả cụ thể, có thể
định lượng, được tạo ra từ các hoạt động khác nhau của dự án. Đây là

điều kiện cần thiết để thực hiện được các mục tiêu của dự án.
2.1: Chu kỳ của dự án đầu tư:
Chu kỳ của dự án đầu tư là các bước hoặc các giai đoạn mà một dự án phải
trải qua bắt đầu từ khi dự án mới chỉ là ý đồ đến khi dự án hoàn thành chấm dứt
hoạt động. Thông thường người ta chia chu kỳ dự án ra làm 3 gia đoạn sau:
• Chuẩn bị đầu tư: nghiên cứu phát hiện các cơ hội đầu tư, nghiên cứu tiền
khả thi, nghiên cứu khả thi (lập dự án, luận chứng kinh tế kỹ thuật), thẩm
định dự án.
• Thực hiện đầu tư: tổ chức đấu thầu, ký kết hợp đồng mua máy móc thiết
bị, thi công xây lắp, sản xuất thử.
• Vận hành khai thác: giai đoạn đưa công trình vào hoạt động, sản phẩm
được đưa vào tiêu thụ trên thị trường, cuối cùng là thanh lý và đánh giá,
kết thúc một dự án.
Có thể minh họa chu kỳ của dự án đầu tư theo hình sau:
Trong 3 giai đoạn trên thì giai đoạn một có ý nghĩa và vai trò quan trọng.
Nó là cơ sở cho việc triển khai thực hiện dự án ở các giai đoạn sau, quyết định
hiệu quả cuối cùng của dự án.
2.2: Vai trò của dự án đầu tư:
Đối với Nhà nước và các định chế tài chính thì dự án đầu tư là cơ sở để
thẩm định và ra quyết định đầu tư, quyết định tài trợ cho dự án đó.
Đối với chủ đầu tư thì dự án đầu tư là cơ sở để:
• Xin phép được đầu tư (hoặc được ghi vào kế hoạch đầu tư) và giấy phép
hoạt động.
• Xin phép nhập khẩu vật tư máy móc thiết bị.
• Xin hưởng các khoản ưu đãi (nếu dự án thuộc diện ưu tiên) về đầu tư.
• Xin vay vốn các định chế tài chính trong và ngoài nước.
• Kêu gọi góp vốn hoặc phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
2.3: Nội dung của dự án đầu tư:
ý đồ về
dự án

mới
ý đồ về
dự án
đầu tư
Sản
xuất
kinh
doanh
Thực
hiện
đầu tư
Chu nẩ
b uị đầ

Nội dung chủ yếu của dự án đầu tư bao gồm các khía cạnh kinh tế vi mô và
vĩ mô, quản lý và kỹ thuật. Những khía cạnh này ở các dự án thuộc các ngành khác
nhau đều có những nét đặc thù riêng. Tuy nhiên việc xem xét các khía cạnh này đối
với các dự án công nghiệp là phức tạp hơn cả. Do đó việc chọn lĩnh vực công
nghiệp để mô tả nội dung sẽ tạo ra một mô hình tương đối hoàn chỉnh. Nội dung
chủ yếu cụ thể của một dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghiệp bao gồm các vấn
đề sau:
• Xem xét các khía cạnh kinh tế – xã hội tổng quát có liên quan đến việc
thực hiện và phát huy tác dụng của dự án đầu tư.
• Nghiên cứu các vấn đề về thị trường tiêu thụ sản phẩm hoặc tiến hành
các hoạt động dịch vụ của dự án.
• Nghiên cứu khía cạnh kỹ thuật của dự án.
• Phân tích khía cạnh tổ chức quản lý và nhân lực của dự án
• Phân tích khía cạnh tài chính của dự án.
• Phân tích khía cạnh kinh tế – xã hội của dự án.
2.4: Dự án đầu tư và hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại:

Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại là việc Ngân hàng giao cho
khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích nào đó trong thời hạn
nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi đúng hạn. Ngày nay
theo tiến trình của sự phát triển thì các loại hình cho vay của Ngân hàng thương
mại ngày càng phong phú đa dạng. Tuỳ theo tiêu thức phân chia mà có thể phân
chia ra thành nhiều loại hình cho vay khác nhau:
• Theo thời hạn: cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
• Theo lãi suất: cho vay theo lãi suất thả nổi, cho vay theo lãi suất cố định.
• Theo mục đích cho vay: cho vay kinh doanh và cho vay tiêu dùng.
• Theo đối tượng khách hàng: cho vay cá nhân, cho vay tổ chức kinh tế.
• Theo tài sản đảm bảo : cho vay có tài sản đảm bảo và cho vay không có
tài sản đảm bảo.

Hoạt động cho vay theo dự án đầu tư của Ngân hàng thương mại là một
hình thức cho vay trung dài hạn. Ngân hàng cho vay với số lượng vốn lớn, thời
gian dài, chịu nhiều rủi ro. Để đảm bảo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn
của mình Ngân hàng thương mại xây dựng một quy trình cho vay hợp lý và chặt
chẽ. Thông thường quy trình cho vay gồm rất nhiều bước nhưng có thể nói gọn
thành 3 bước chính sau:
• Kiểm tra, thẩm định trước khi cho vay.
• Thực hiện cho vay và kiểm tra việc sử dụng vốn vay trong thời hạn cho
vay.
• Xử lý, thu hồi nợ sau khi cho vay.
Ba giai đoạn trên là quá trình gắn bó chặt chẽ, mỗi giai đoạn đều có tầm
quan trọng nhất định ảnh hưởng tới chất lượng khoản vay. Một khoản vay có
chất lượng là khoản vay mà khách hàng trả nợ gốc và lãi đúng hạn, đây cũng là
mong muốn của Ngân hàng. Việc này đòi hỏi Ngân hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng
khi cho vay: cho vay với khối lượng bao nhiêu, thời hạn vay bao lâu,…Vì vậy
đòi hỏi Ngân hàng phải thực hiện tốt giai đoạn xem xét trước khi cho vay. Nói
cách khác, Ngân hàng tập trung quan tâm vào khâu thẩm định dự án đầu tư trước

khi quyết định cho vay, đảm bảo chất lượng cho các khoản cho vay của mình.
Với Ngân hàng do không đủ thời gian và cũng để giảm bớt chi phí nên việc
thẩm định dự án đầu tư chỉ tập trung vào việc thẩm định tài chính dự án đầu tư.
3.Thẩm định dự án đầu tư:
Một dự án đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn đầu tư , dự án càng kéo
dàI trong nhiều năm thì chịu nhiều rủi ro, biến động không thể lường hết.Những
nhận dịnh đưa ra trong dự án chỉ là những ý kiến chủ quan của người lập dự án-
chủ đầu tư hoặc cơ quan tư vấn mà chủ đầu tư thuê lập dự án trên cơ sở các ý đồ
kinh doanh của chủ đầu tư.chủ đầu tư xuất phát từ lợi ích cá nhân mình rồi mới
kết hợp với lợi ích chung để sắp đặt đầu tư.Vì vậy, dù soạn thảo cận thận tới đâu,
dự án khó có thể tránh khỏi những nhận định sai lầm, bất hợp lý, đòi hỏi dự án
phải được các nhà tài trợ, các cơ quan quản lý nhà nước thẩm định.
Ta có thể đưa ra khái niệm về thẩm định dự án đầu tư:”Thẩm định dự án
đầu tư là quá trình phân tích, đánh giá một cách toàn diện các khía cạnh của một
dự án đầu tư để đưa ra các quyết định đầu tư, cho phép đầu tư và tài trợ”.
Thẩm định là công việc hết sức có ý nghĩa, các bên liên quan trên quan
điểm, cách nhìn nhận riêng và lợi ích khác nhau có được từ việc thừc hiện dự án
đầu tư sẽ có cách tiếp cận thẩm định khác nhau và kết quả thẩm định sẽ có ý
nghĩa khác nhau giữa các bên. Như vậy, có nhiều cơ quan tổ chức tiến hành
thẩm định dự án đầu tư song ở đây chỉ xin đề cập tới công tác thẩm định ở ngân
hàng thương mại. NHTM với tư cách là người cung cấp nguồn vốn trung và dài
hạn cho dự án sẽ phải tự tổ chức thẩm định dự án trước khi quyết định cho vay
chứ không dựa trên sự thẩm định của chủ đầu tưhoặc cơ quan quản lý nhà nước.
Thật vậy, thực tế tỷ trọng cho vay của các ngân hàng với các dự án ngày
càng tăng, nhiều dự án của các doanh nghiệp Việt Nam thì vốn vay ngân hàng
chiếm phần lớn trong tổng số vốn đầu tư. Là một doanh nghiệp đặc biệt kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ , mục tiêu hoạt động của ngân hàng là lợi nhuận và sự
an toàn. tuy nhiên, lợi nhuận luôn đi kèm với rủi ro , muốn có lợi nhuận thì phảI
chấp nhận rủi ro. Cho vay theo dự án là hoạt động đem lại nguồn lợi nhuận
chính cho ngân hàng nhưng cũng ẩn chứa nhiều rủi ro nhất . Khi NHTM quyết

định tài trợ cho dự án tức là ngân hàng đã chấp nhận chia sẻ rủi ro với chủ đầu
tư. Vì vậy, đòi hỏi ngân hàng phảI lựa chọn dự án đầu tư thực sự có hiệu quả để
cho vay, đảm bảo sự an toàn cũng như đạt lợi nhuận trong hoạt động của ngân
hàng.
Để đáp ứng tất cả các yêu cầu trên, tất yếu ngân hàng phải xem xét, phân
tích, đánh giá một cách khách quan và toàn diện nội dung cơ bản, ảnh hưởng
trực tiếp tới tính khả thi và hiệu quả của dự án. Đó chính là hoạt động thẩm định
dự án. Thẩm định dự án xem xét trên nhiều khía cạnh: kỹ thuật, thị trường, tài
chính…Các dự án vay vốn rất đa dạng, phomg phú trên nhiều khía cạnh và quy
mô của nguồn vốn cũng khác nhau. Trong điều kiện hạn chế của mình, thì ngân
hàng khó có thể thẩm định một cách chi tiết về mọi mặt. Thông thường, thẩm
định tài chính là khía cạnh ngân hàng quan tâm nhất và có thế mạnh về chuyên
môn, nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm. Vai trò thẩm định tài chính ngày càng
được nâng cao. Thông qua thẩm định tài chính dự án , thì ngân hàng đánh giá
được nhu cầu vay vốn, tính hợp lý sử dụng vốn đầu tư, hiệu quả tài chính dự án
đem lại và khả năng trả nợ của dự án. Kết luận đưa ra chủ yếu dựa trên sự phân
tích các dòng tài chính. Trong thực tế, điều ngân hàng quan tâm hơn cả là khả
năng trả nợ củacủa dự án hơn là hiệu quả tài chính.
II. THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN :
1. Thẩm định dự án :
Những nhận định, số liệu đưa ra trong dự án đầu tư chỉ dựa vào ý kiến chủ
quan của người lập dự án, mà không chừng họ lập dự án ra là để rút vốn Ngân
hàng. Chủ dự án xuất phát từ lợi ích cá nhân rồi mới kết hợp với lợi ích chung để
sắp đặt đầu tư. Vì vậy, dù soạn thảo cẩn thận đến đâu, dự án cũng không tránh khỏi
những nhận định sai lệch, bất hợp lý, đòi hỏi dự án phải được các nhà tài trợ, các
cơ quan quản lý Nhà nước thẩm định.
Thẩm định tài chính dự án đầu tư: “Thẩm định tài chính dự án đầu tư là quá
trình phân tích, đánh giá một cách toàn diện các khía cạnh của một dự án đầu tư để
đưa ra các quyết định đầu tư, cho phép đầu tư và tài trợ”.
Kết quả của quá trình này là căn cứ để chủ đầu tư có nên quyết định đầu tư

không? Bởi mối quan tâm chủ yếu của các tổ chức và cá nhân đầu tư là đầu tư vào
dự án đã cho có mang lại lợi nhuận thích đáng hoặc đem lại nhiều lợi nhuận hơn so
với việc đầu tư vào các dự án khác không. Như vậy, các bên liên quan đến dự án
đều tiến hành thẩm định. Tất nhiên họ xem xét trên quan điểm, cách nhìn nhận
khác nhau và kết quả thẩm định sẽ có ý nghĩa khác nhau giữa các bên.
Đối với chủ dự án: trước khi có quyết định đầu tư, chủ đầu tư cân nhắc kỹ
lưỡng xem lợi ích dự kiến thu được có tương xướng với chi phí bỏ ra hay không.
Thẩm định dự án giúp họ lựa chọn phương án tối ưu, phù hợp điều kiện nguồn lực,
khả năng tìm nguồn tài trợ.
Đối với nhà tài trợ: một dự án có thể được tài trợ từ nhiều nguồn: từ Ngân
sách Nhà nước, vốn tự có và một phần lớn là đi vay các tổ chức tài chính (các
Ngân hàng thương mại). Dự án do chủ đầu tư lập, đưa lên Ngân hàng với mục đích
xin tài trợ nên không thể tránh khỏi ý muốn chủ quan. Thẩm định dự án giúp cho
các nhà tài trợ có các quyết định đúng đắn cho vay những dự án có tính khả thi
cao, hiệu quả tài chính vững chắc, có khả năng thu hồi nợ.
Đối với cơ quan quản lý Nhà nước: được xem xét có phù hợp với mục tiêu
phát triển quốc gia, có đáp ứng lợi ích kinh tế xã hội của đất nước không? Thẩm
định sẽ giúp nhận thấy sự cần thiết và mức độ phù hợp của dự án với kinh tế đất
nước.
2. Vai trò thẩm định dự án với Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại với tư cách là người cấp tín dụng cho dự án sẽ tự
mình tiến hành thẩm định dự án trước khi quyết định cho vay mà không dựa vào
kết quả thẩm định của chủ đầu tư và cơ quan quản lý Nhà nước.
Thực tế cho thấy tỷ trọng của cho vay theo dự án của các Ngân hàng thương
mại ngày càng tăng. Đồng thời cho vay theo dự án là hoạt động đem lại nguồn lợi
nhuận lớn cho Ngân hàng. Hoạt động này cũng chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Khi
Ngân hàng thương mại quyết định cho vay tức là đã chấp nhận chia sẻ rủi ro với
chủ đầu tư. Vì vậy đòi hỏi Ngân hàng phải lựa chọn dự án đầu tư thực sự có hiệu
quả để cho vay, đảm bảo sự an toàn cũng như đạt lợi nhuận trong hoạt động của
Ngân hàng.

Để đáp ứng được yêu cầu trên Ngân hàng thương mại phải tiến hành xem
xét kỹ lưỡng, đánh giá một cách khách quan dự án đầu tư tức là thẩm định dự án
đầu tư. Thẩm định dự án trên nhiều khía cạnh: kỹ thuật, thị trường, tài chính, quản
lý,… Các dự án vay vốn Ngân hàng đa dạng, phong phú trên nhiều lĩnh vực ngành
nghề, quy mô khác nhau. Trong điều kiện hạn chế của mình thì Ngân hàng thương
mại chỉ tiến hành thẩm định trên phương diện tài chính của dự án. Ngày nay, vai
trò của thẩm định tài chính với Ngân hàng thương mại ngày càng được nâng cao.
Thông qua thẩm định tài chính dự án, Ngân hàng đánh giá được nhu cầu vay
vốn, tính hợp lý sử dụng vốn đầu tư, hiệu quả dự án đem lại và khả năng trả nợ của
dự án. Kết luận đưa ra chủ yếu dựa trên sự phân tích các dòng tài chính. Trong thực
tế, điều Ngân hàng quan tâm hơn cả là khả năng trả nợ của dự án hơn là hiệu quả
tài chính.
Các dự án muốn vay vốn được đều phải qua thẩm định. Qua đó, Ngân hàng
sẽ loại bỏ bớt các dự án không hiệu quả, sàng lọc, lựa chọn đầu tư các dự án có
hiệu quả, mở rộng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Tính khả thi, an toàn,
hiệu quả tài chính của dự án là cơ sở bền vững đảm bảo cho khoản vay an toàn,
hiệu quả. Thông qua thẩm định, đối với các dự án Ngân hàng đồng ý cho vay,
Ngân hàng còn có thể đưa ra các quyết định như thời hạn, lãi suất, phương thức tài
trợ, phương thức trả lãi,…phù hợp với mỗi dự án.
3. Nội dung thẩm định tài chính dự án:
Thẩm định tài chính dự án đầu tư chỉ là một khâu trong thẩm định dự án đầu
tư. Các khâu này có liên quan đến nhau và đặc biệt liên quan đến khía cạnh tài
chính của dự án.
3.1. Nội dung thẩm định dự án :
Thẩm định dự án đầu tư tức là thẩm định tất cả các nội dung của một dự án
đầu tư. Như vậy nó bao gồm các nội dung thẩm định sau:
• Thẩm định về mặt pháp lý: kiểm tra tính đầy đủ, hợp lý, hợp lệ của những
hồ sơ có liên quan tới dự án đồng thời xem xét dự án có phù hợp với kế
hoạch, quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế, xã hội của vùng, của
ngành, của quốc gia.

• Thẩm định về thị trường: xem xét thị trường đầu vào, thị trường đầu ra,
khả năng cạnh tranh và tiêu thụ sản phẩm. Phân tích thị trường là cơ sở
cho việc lựa chọn quy mô đầu tư, lựa chọn thiết bị, công suất của dự án.
• Thẩm định về mặt kỹ thuật, công nghệ: xem xét tính khả thi về mặt thiết
bị công nghệ, giải pháp kỹ thuật địa điểm xây dựng và các biện pháp xử
lý chất thải…Đã đáp ứng được yêu cầu hay chưa.
• Thẩm định về mặt tổ chức, quản lý: kiểm tra, xem xét số lượng, chất
lượng lao động có đáp ứng yêu cầu vận hành dự án hiệu quả không, đánh
giá tính hợp lý của bộ máy quản lý hành chính, hệ thống, phòng ban,
phân xưởng…
• Thẩm định về mặt kinh tế, xã hội: phân tích, đánh giá mọi tác động của dự
án nhằm thể hiện một cách đầy đủ, chi tiết lợi ích, chi phí trên góc độ xã
hội. Đây là khía cạnh mà các cơ quan quản lý xã hội rất quan tâm.
• Thẩm định về mặt tài chính: là nội dung quan trọng nhất và được các
Ngân hàng quan tâm nhất, thẩm định tài chính là xem xét, đánh giá các
kế hoạch tài chính, hiệu quả tài chính và các rủi ro có thể xảy ra với dự
án.
Các nội dung nêu trên của thẩm định dự án đều hết sức cần thiết và không
thể bỏ qua. Mặt khác, chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau, nhận xét, tính
toán ở khía cạch này là cơ sở cho việc phân tích khía cạnh khác. Công tác thẩm
định đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Dù tất cả các mặt đều phải được xem
xét nhưng trên quan điểm của Ngân hàng là một nhà tài trợ thì nội dung thẩm
định quan trọng nhất và kỹ lưỡng nhất là thẩm định tài chính dự án đầu tư.
3.2. Nội dung thẩm định tài chính dự án :
Thẩm định tài chính dự án đầu tư ở các Ngân hàng là do cán bộ tín dụng
và thẩm định viên phụ trách. Từ những thông tin mà chủ đầu tư cung cấp trong
luận chứng kinh tế kỹ thuật và các tài liệu liên quan, thông tin Ngân hàng thu
thập được từ phỏng vấn trực tiếp khách hàng, từ các Ngân hàng bạn mà khách
hàng có quan hệ, từ điều tra thực tế nơi hoạt động sản xuất kinh doanh,…Ngân
hàng tiến hành sử lý thông tin, đánh giá các bảng dự trù tài chính, xác định

luồng lợi ích và chi phí trên cơ sở đảm bảo giá trị thời gian của tiền, đưa ra kết
luận về hiệu quả tài chính và mức độ rủi ro của dự án. Việc thẩm định tài chính
dự án sẽ giúp cho Ngân hàng trả lời câu hỏi:
- Có nên cho vay hay không?
- Cho vay bao nhiêu, thời hạn, lãi suất ra sao.
- Kế hoạch giải ngân, quản lý và thu nợ.
- Đưa ra kiến nghị cho doanh nghiệp hoặc yêu cầu doanh nghiệp bổ xung
thêm điều kiện gì nếu cần.
Các Ngân hàng thương mại thường tiến hành thẩm định tài chính dự án
theo các nội dung sau:
3.2.1. Thẩm định nhu cầu vốn đầu tư và nguồn tài trợ:
Thẩm định nhu cầu vốn đầu tư là việc đánh giá mức độ chính xác của nhu
cầu vốn đầu tư vào dự án. Không chỉ có thẩm định về vốn dài hạn mà cả về
nguồn vốn ngắn hạn tài trợ cho dự án.
Xác định tổng vốn đầu tư là rất cần thiết cho mỗi dự án. Tổng vốn đầu tư
được xác định bao gồm chi phí chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị xây dựng, thực hiện
đầu tư, chuẩn bị sản xuất – sản xuất thử, vốn lưu động để đảm bảo huy động dự
án vào hoạt động đạt công suất theo mục tiêu dự án đề ra. Thành phần vốn bao
gồm:
• Vốn cố định (đầu tư cơ bản) nhằm tạo ra năng lực mới tăng thêm để đạt
mục tiêu dự án. Chi phí vốn cố định bao gồm:
- Vốn chuẩn bị đầu tư : là chi phí trước khi thực hiện dự án (chi phí trước
vận hành). Chi phí này tuy không trực tiếp tạo ra tài sản cố định nhưng là
các chi phí gián tiếp hoặc liên quan đến việc tạo ra và vận hành khai thác
các tài sản đó để đạt được mục tiêu đầu tư. Chi phí này bao gồm: chi phí

×