Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng và khả năng bảo quản hoa loa kèn trắng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 74 trang )

Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, do kinh tế phát triển mạnh mẽ, con người
không chỉ quan tâm về đời sống vật chất mà còn quan tâm rất nhiều về đời
sống tinh thần. Trong đời sống tinh thần đó, người ta không thể không kể đến
giá trị của các loài hoa.
Nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm tạo nên các vùng sinh thái đa
dạng thích hợp cho trồng trọt nhiều chủng hoa đẹp của Việt Nam và thế giới.
Hiện nay nước ta có khoảng 5000 ha sản xuất hoa cây cảnh với tổng sản
lượng ước tính khoảng 4 tỷ cành hoa. Năm 2001, cả nước có hơn 8000 ha đất
trồng hoa, chủ yếu tập trung ở các tỉnh thành như Lâm Đồng (1254 ha), Hà
Nội (867 ha), Hưng Yên (867 ha)…, với doanh thu là 291 tỷ đồng, trong đó
giá trị xuất khẩu đạt 7 tỷ đồng. Về mặt kinh tế, nghề trồng hoa đem lại lợi
nhuận cao hơn trồng lúa. Chính vì vậy nghề trồng hoa ngày càng được phát
triển, qui mô, diện tích và chủng loại hoa cũng ngày được tăng lên [25].
Xét về cơ cấu, nước ta chủ yếu trồng các loài hoa như: lan, hồng, lay ơn,
cúc, hoa loa kèn trắng… Trong các loài hoa trên, tuy hoa loa kèn trắng còn là
loài hoa khá mới mẻ nhưng do có vẻ đẹp thanh khiết, hương thơm dịu nhẹ nên
ngày càng được ưa chuộng.
Hoa loa kèn trắng (hay còn gọi là Huệ tây) du nhập vào nước ta cùng với
hoa phăng (hoa cẩm chướng)... Huệ tây được trồng đầu tiên tại Ðà Lạt, vì nơi
đây có khí hậu ôn đới rất phù hợp với đặc tính của loa kèn, sau đó phát triển
dần sang các tỉnh khác. Trong các loài hoa du nhập vào nước ta như các loài
hồng, cẩm chướng, violet... thì hoa loa kèn được người tiêu dùng ưa chuộng
hơn cả. Nhất là với Hà Nội, hoa loa kèn được coi là một thứ hoa sang trọng,
quyền quý... một thứ gì đó trong sáng, nhẹ nhàng đặc trưng của Hà Nội mỗi
khi tháng tư về ... Trước Cách mạng Tháng Tám, hầu như loa kèn là một thú
chơi của dân nhà giàu, có một chút gì hướng ngoại, hướng về phương Tây.
1
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B


Bởi vì, nước Pháp khi xưa được gọi là vương quốc của loa kèn hay huệ tây.
Với người Pháp, huệ tây là biểu thị của lòng trong trắng, trinh tiết.
Tuy nhiên, mùa hoa loa kèn thường rất ngắn, chỉ khoảng 2÷3 tuần vào
cuối xuân, đầu hạ ( dịp lễ Phục sinh). Nhiều khi mùa hoa loa kèn đã đi qua mà
nhiều người tiếc ngẩn ngơ vì chưa kịp ngắm hoa. Còn đối với các nông hộ,
mùa hoa quá ngắn ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiêu thụ của hoa. Do hoa
lại nở rộ cùng một thời gian nên các nông hộ phải tiêu thụ gấp gáp, nhiều khi
còn bị ép giá. Thông thường giá bán hoa loa kèn vào chính vụ là 500÷1500
đồng/ bông, trong khi đó giá bán hoa loa vào đầu và cuối vụ lên tới
2500÷4000 đồng/ bông. Chính vì lý do trên, mặc dù hoa loa kèn đem lại hiệu
quả kinh tế khá cao nhưng các nông hộ không dám đầu tư nhiều với diện tích
lớn vì sợ không kịp tiêu thụ trong những ngày hoa nở rộ.
Hiện nay các nhà khoa học đã nghiên cứu được biện pháp xuân hóa củ
giống để trồng hoa loa kèn trái vụ trái vụ, cung cấp cho nhu cầu hoa tươi vào
dịp tết Nguyên đán hay 8/3. Tuy nhiên, biện pháp này vẫn không thể cung cấp
hoa cho thị trường từ đầu tháng 5 vì cây loa kèn không thích hợp với điều
kiện nắng nóng. Chính vì vậy tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu
một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng và khả năng bảo quản hoa loa kèn
trắng” để tìm ra biện pháp bảo quản hoa tốt nhất, cung cấp hoa cho nhu cầu
tiêu dùng hoa loa kèn quanh năm.
1.2. Mục đích và yêu cầu
1.2.1. Mục đích
Xác định độ già, thời gian, nhiệt độ, dung dịch dinh dưỡng xử lý trước
bảo quản để nâng cao chất lượng và tuổi thọ hoa cắt.
2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
1.2.2. Yêu cầu:
Xác định độ già thu hoạch thích hợp.
Xác định nhiệt độ bảo quản lạnh thích hợp.
Xác định dung dịch cắm hoa trước bảo quản cho chất lượng và tuổi thọ

cắm hoa tốt nhất.
3
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Giới thiệu chung về hoa loa kèn trắng
Hoa loa kèn (hay còn gọi là Huệ tây) là tên gọi chung cho các loài hoa
thuộc họ Liliaceae (cũng có sách ghi là họ Hành Tỏi). Tuy nhiên phần lớn các
hoa thuộc họ này có một đặc điểm chung là hoa loe ra nhìn như cái kèn, nên
được gọi là hoa loa kèn – tên đặt theo hình dáng bông hoa.
Nếu hoa hồng được coi là biểu tượng của Vua và Hoàng hậu, biểu tượng
của tình yêu thì hoa loa kèn được coi như “hoa của chúa trời” bởi sự duyên
dáng, thanh nhã trong hình dáng bông hoa và sự màu trắng tinh khiết của cánh
hoa. Hoa loa kèn trắng đã trở thành biểu tượng của sự hồi sinh của chúa Jesus.
Chính vì vậy hoa còn có tên là Easter lily- hoa của ngày lễ Phục sinh.
Lily cho mùa lễ Phục sinh (Easter Lily) xuất xứ từ Nhật Bản và mọc dại
tự nhiên ở nhiều nơi khác như Trung Quốc, Formosa, quần đảo Lichu ... Lily
đã từng được nhắc đến trong một cuốn sách về vườn cảnh Nhật Bản từ năm
1681. Easter Lily đến vương quốc Anh năm 1819 và chẳng bao lâu sau đó, nó
đã trở thành một bông hoa quen thuộc được ưa chuộng. Những củ hoa Huệ
Tây được xuất khẩu sang Anh, Mỹ từ Bermuda, bấy giờ là trung tâm sản xuất
Hoa Huệ Tây thương mại đầu tiên ngoài Nhật Bản. Các củ Huệ Tây lúc đó
còn được gọi là "Vàng Trắng" (White Gold) [26].
Trong hệ thống phân loại thực vật, cây hoa loa kèn được xếp vào nhóm
lá mầm (Monocotylendones), phân lớp hành (Lilidae), họ hành (Liliaceae), chi
Lilium. Họ hành có rất nhiều loại khác nhau với những dạng hoa và màu sắc
hết sức đa dạng, phong phú và hấp dẫn. Từ các loại hoa có hình phễu như
L.longiflorum, L.candidum, L. wallichianum, hình chén như: L.martagon hay
với những cánh hoa nhỏ hẹp đến dạng hình chuông, nõ điếu…, từ những loài
hoa có hương thơm tinh khiết đến loài hoa có mùi khó chịu [2].
4

Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
Cây loa kèn thuộc dạng thân thảo, thường mọc đơn. Lá hình đơn mũi
mác, mọc xung quanh thân. Hoa lưỡng tính, mọc ở ngọn. Hoa loa kèn trắng
có màu trắng pha thêm chút xanh và mùi hương thơm dịu. Một cành hoa
thường có từ 1 đến 3 hoa. Lá hoa dày màu xanh hơi vàng, thân hoa là củ nằm
dưới đất cành lá ở phần trên mặt đất. Cành hoa tương đối cứng nên ít bị đổ
gãy. Hoa loa kèn nở vào dịp cuối xuân đầu hạ tức là vào khoảng tháng tư và
chỉ nở rộ trong nửa tháng. Vì vậy, vào giữa tháng tư, ở đâu ta cũng gặp hoa
loa kèn tràn ngập khắp phố phường, sau đó thì lại trở lên quý hiếm [18].
2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ hoa loa kèn trắng
2.2.1. Trên thế giới
Tình hình sản xuất kinh doanh hoa kiểng trên thế giới ngày càng phát
triển một cách mạnh mẽ. Kim ngạch mậu dịch về hoa kiểng tiếp tục gia tăng.
Theo thống kê của Trung tâm Thương mại Quốc tế thì những năm 50 của thế
kỷ 20, kim ngạch mậu dịch hoa kiểng trên thế giới chưa đến 3 tỷ USD nhưng
đến năm 1985 đã lên đến 15 tỷ USD và tiếp tục tăng nhanh đến năm 1990 là
30,5 tỷ USD. Đến nay đã xấp xỉ 100 tỷ USD và tiếp tục tăng 10%/năm. Dự
kiến những năm đầu thế kỷ 21, kim ngạch mậu dịch hoa kiểng thế giới có thể
đạt 200 tỷ USD/năm [22].
Trên thế giới hoa loa kèn được trồng rất nhiều nước và là loại hoa cắt rất
quan trọng ở Nam Phi, Kenya, Isarel, Mỹ, Nhật Bản… và đặc biệt là Châu
Âu. Hàng năm Hà Lan sản xuất được hàng triệu hoa cắt và hoa chậu loa kèn,
phục vụ cho thị trường tiêu thụ hoa rộng lớn gồm 89 nước trên thế giới.
Pháp, Đức, Bỉ, Liên Xô… cũng đã chú ý phát triển loại cây này từ
những năm 1983 song đến nay chưa thực sự phát triển [10].
Tại Mỹ, theo thống kê của Bộ Nông nghiệp, loa kèn mang lại giá trị
buôn bán vào năm 1995 là 37,4 triệu USD, tương đương 10 triệu cành hoa
5
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
cắt. Loa kèn chỉ đứng sau ba loài hoa là trạng nguyên, cúc, đỗ quyên và đặc

biệt được ưa chuộng trong dịp lễ tết [19].
Giá trị kinh tế mà hoa loa kèn trắng đem lại cho nước Mỹ không ngừng
tăng lên.
2.2.2. Tại Việt Nam
Ở Việt Nam đang trồng phổ biến giống hoa loa kèn ta, giống hoa này có
ưu điểm là không cần xử lý củ giống, khi trồng vẫn có thể ra hoa, hoa nở
đồng đều. Tuy nhiên, nhược điểm của nó lại nở rộ vào tháng 4, tháng 5 là thời
điểm thị trường tiêu thụ hoa không cao.
Hiện nay, theo thống kê chưa đầy đủ nước ta có khoảng 100 ha đất trồng
hoa loa kèn. Diện tích ít ỏi này phân bố chủ yếu ở Đà Lạt, Hà Nội và đang
đượcph át triển ở một số tỉnh khác như: Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Bắc Ninh, Hải
Phòng, Quảng Ninh. Trong đó, hoa phục vụ xuất khẩu chủ yếu được trồng ở
Đà Lạt. Hàng năm, Đà Lạt cung cấp khoảng 34 triệu cành hoa loa kèn cắt cho
thị trường tiêu dùng [21].
Bên cạnh đó, hiện nay nước ta đang nghiên cứu và sản xuất hoa loa kèn
chịu nhiệt. Hoa loa kèn chịu nhiệt còn có tên Raizan, có nguồn gốc từ Hà Lan.
Năm 2005, Viện Nghiên cứu rau quả Hà Nội (Viện Khoa học Nông nghiệp
Việt Nam) đã phối hợp với Công ty CP Hoa Nhiệt Đới tiến hành nghiên cứu
trồng thử nghiệm tại Gia Lâm (Hà Nội) kết quả cho năng suất và chất lượng
hoa cao; hiệu quả kinh tế cũng cao hơn 1,5 ÷ 2 lần so với các giống khác. Sau
một thời gian nghiên cứu, nhận thấy chất đất và khí hậu ở xã Việt Hưng phù
hợp, tháng 8/2008, phòng kinh tế thành phố đã triển khai thực hiện dự án:
“Trồng khảo nghiệm hoa loa kèn chịu nhiệt tại TP Hạ Long” [24].
Nhìn chung, loa kèn còn là cây trồng mới, cơ sở hạ tầng cho sản xuất
chưa được đầu tư tương xứng. Mặt khác, do thời vụ hoa loa kèn ngắn, các nhà
sản xuất chưa dám đầu tư trồng hoa với diện tích lớn vì sợ không tiêu thụ kịp
6
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
trong những ngày hoa nở rộ. Mỗi năm có khoảng 8 vạn củ giống được xử lý
cho ra hoa trái vụ, chiếm khoảng 25% lượng hoa loa kèn chính vụ. Sản xuất

hoa loa kèn mang lại hiệu quả kinh tế cao gấp nhiều lần so với các loài hoa
thông thường ( hồng, cúc…), đạt hơn 100 triệu đồng / 1 ha.
2.3. Bảo quản hoa cắt
Hoa là sản phẩm đặc biệt, giá trị của hoa phụ thuộc nhiều vào thời kỳ
thu hoạch. Hoa đến tay người tiêu dùng phải là hoa tươi đẹp, không dập nát,
chất lượng tốt, đáp ứng được nhu cầu của người mua. Vì vậy, vấn đề bảo
quản hoa sau thu hoạch rất cần thiết. để có phương oháp bảo quản tối ưu, cần
quan tâm đến các yếu tố căn bản như: đặc điểm sinh lý, sinh hóa của hoa cắt
sau thu hoạch, các yếu tố ảnh hưởng dến chất lượng hoa cắt, hiệu quả kinh tế
của mỗi phương pháp bảo quản….[17].
2.3.1. Hoạt động sinh lý, sinh hoá của hoa cắt sau thu hoạch
2.3.1.1. Sự sinh trưởng và phát triển của nụ dến khi nở hoàn toàn
Hoa cắt khi thu hoạch thường ở giai đoạn có độ chín thấp nhất để đảm
bảo nó có thể nở được hoàn toàn và tươi tắn sau một thời gian vận chuyển.
Hoa cắt khi rời cơ thể mẹ vẫn tiếp tục quá trình sống dựa vào các chất dinh
dưỡng còn lại trong cành, lá. Tuy nhiên quá trình sinh trưởng và phát triển
của nụ hoa còn phụ thuộc vào các yếu tố ngoại cảnh như: nhiệt độ, độ ẩm môi
trường, cường độ hô hấp của nụ hoa, sự sản sinh ethylene….
Với mỗi loại hoa khác nhau sự sinh trưởng và phát triển của nụ đến khi
nở là hoàn toàn khác nhau, do vậy khi thu hái còn phải chú ý đến độ già thích
hợp của từng loại hoa. Ở một số loại hoa như hồng, dơn, lan, cẩm chướng…
có thể thu hoạch ở giai đoạn nụ vì chúng có thể nở dễ dàng trong nước. Một
số loại hoa khác như: lan, cúc, đồng tiền… không thể thu hoạch ở giai đoạn
nụ vì chúng không dễ dàng nở trong nước. Đối với hoa cắt thu hoạch để bảo
7
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
quản càng cần phải lưu tâm đến sự sinh trưởng và phát triển của nụ đến khi nở
hoàn toàn để có thể thu hái ở độ già thích hợp nhất, đảm bảo cho hoa trong
quá trình bảo quản không sinh trưởng quá mạnh gây hư hao chất khô trong
hoa, mà cũng không quá chậm làm kìm hãm quá trình nở tiếp theo của hoa.

2.3.1.2. Quá trình hô hấp
Hô hấp là quá trình cây trồng hấp thụ O
2
và thải khí CO
2
, O
2
từ không
khí sẽ phân huỷ các hợp chất hydratcarbon trong cây thành CO
2
và nước.
Phản ứng này sinh ra năng lượng dưới dạng nhiệt năng. Hô hấp hảo khí sử
dụng đủ O
2
của không khí thải ra CO
2
và hơi nước, cứ 1 phân tử đường sinh
ra 674 Kcal [9].
C
6
H
12
O
6
+ 6 O
2
→ 6CO
2
+ H
2

O +674 Kcal
Hô hấp gây ra 4 tác dụng cơ bản, đó là:
- Tiêu hao chất hữu cơ trong sản phẩm: Trong thời kỳ sinh trưởng ngoài
đồng, sự tiêu hao chất hữu cơ do hô hấp được bù đắp bằng quang hợp nhưng
nhưng trong quá trình bảo quản sự hao hụt chất hữu cơ sẽ không được bù đắp
lại. Do đó nếu cường độ hô thấp càng cao thì sự hao hụt chất hũu cơ càng lớn.
Sự cạn kiệt chất hữu cơ sẽ làm sản phẩm nhanh già hoá và hư hỏng. Sự sống
của hoa cắt sau thu hoạch nhờ vào quá trình hô hấp tạo ra năng lượng. Biểu
hiện của quá trình hô hấp là thuỷ phân tinh bột và các polysaccharid, đường
dự trữ trong hoa.
- Tăng độ ẩm của sản phẩm: Nước thải ra trong quá trình hô hấp được
sản phẩm giữ lại làm tăng độ ẩm môi trường xung quanh. Độ ẩm tăng sẽ làm
tăng nhanh cường độ hô hấp đồng thời thúc đẩy sự hoạt động của vi sinh vật
gây hư hỏng cho sản phẩm bảo quản.
- Thay đổi thành phần không khí do quá trình hô hấp thải ra CO
2
và H
2
O.
Nếu hàm lượng CO
2
tăng sẽ ức chế hô hấp hảo khí và chuyển sản phẩm sang
hô hấp yếm khí. Từ đó lượng CO
2
tăng lên và O
2
giảm đi trong mô. Tỷ lệ
8
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
CO

2
/O
2
khí quyển tồn trữ có tác dụng quyết định đến quá trình hô hấp. Nếu
O
2
giảm xuống dưới 3,5% thì cường độ hô hấp bắt đầu giảm. Tuy nhiên quá
trình hô hấp yếm khí sẽ tích tụ rượu, aldehid, các chất gây độc cho hoạt động
sinh lý của mô đồng thời tiêu hao chất dinh dưỡng. Với trường hợp không đủ
không khí, nhiều nhà nghiên cứu cho thấy khi bảo quản hoa cắt các tế bào dần
mất khả năng hấp thụ O
2
, dần chuyển sang quá trình hô hấp yếm khí, tích tụ
các hợp chất trung gian của quá trình hô hấp không hoàn toàn như rượu, acid,
aldehid… có thể làm giết chết tế bào.
- Tăng nhiệt độ của sản phẩm: Hô hấp sản sinh ra nhiệt và đây là tác
nhân gây thối, hỏng hoa.
Cường độ hô hấp của mỗi loại hoa phụ thuộc vào chính bản thân hoa
bảo quản (giống, độ nở, mức độ nguyên vẹn) và các yếu tố của môi trường
tồn trữ (nhiệt độ, độ ẩm, sự thông gió, thời gian tồn trũ, ánh sáng…). Cường
độ hô hấp còn phụ thuộc vào việc cung cấp O
2
. Trong môi trường có ít O
2
,
lượng O
2
không đủ cho quá trình hô hấp bình thường, mức độ hô hấp cực đại
bị ức chế. Để cung cấp đủ oxi cho quá trình hô hấp phải có sự thông gió cho
sản phảm. Hô hấp quá mức cũng sẽ ảnh hưởng không tốt đến quá trình bảo

quản, tuy nhiên đó cũng là điều kiện cần thiết cho sự sống của hoa mà nếu
thiếu nó thì sẽ không làm tế bào chết và hoa cũng sẽ bị ảnh hưởng nhanh
chóng [4].
2.3.1.3 Sự già hoá
Hoa sau khi cắt tiếp tục sử dụng chất dinh dưỡng dự trữ và trải qua quá
trình già hoá. Khi quá trình già hoá diễn ra ở mức sâu sắc sẽ gây hư hỏng hoa,
biểu hiện bằng sự héo.
Sự già hoá có liên quan mật thiết đến việc sản sinh ethylene. Ethylene
đóng vai trò rất lớn trong việc gây ra già hoá nhanh như làm tăng tính thấm
9
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
của màng tế bào, tăng cường độ hô hấp, giảm sự hấp thu dinh dưỡng của cánh
hoa, phá vỡ chlorophyl....
Hoa cắt ở dạng nụ có tốc độ sản sinh ethylene thấp hơn nhiều so với
hoa cắt đã nở hoàn toàn. Do vậy sự già hoá của hoa ở dạng nụ diễn ra chậm
hơn ở hoa đã nở hoàn toàn. Một số hoạt động khác dẫn đến sự già hoá ở hoa
là hô hấp và thoát hơi nước.
Quá trình già hoá là những quá trình hoàn toàn không có lợi cho chất
lượng hoa cắt. Do đó cần phải kìm hãm các quá trình hoạt động này ở mức
thấp nhất nếu có thể. Sử dụng nhiệt độ thấp là một biện pháp quan trọng để
hạn chế quá trình già hoá của hoa cắt sau thu hoạch. Việc sử dụng dung dịch
cắm hoa thích hợp nhằm bổ sung các chất dinh dưỡng cho hoa khi cắm cũng
là một biện pháp đang được nghiên cứu để giảm tốc độ già hoá của hoa cắt,
kéo dài thời gian sử dụng hoa.
2.3.1.4. Sự sản sinh ethylene
Ethylene là một hormon thực vật thuộc nhóm chất ức chế, nó kích thích
quá trình chín cũng như điều chỉnh quá trình sinh trưởng, phát triển và già hoá
của thực vật, tăng cường độ hô hấp, tăng hoạt tính của nhiều enzyme thuỷ
phân... Sự tạo thành ethylene trong quá trình bảo quản là yếu tố bất lợi, làm
giảm tuổi thọ bảo quản của quả ngay cả khi ở nhiệt độ an toàn nhất. Ethylene

có hoạt tính sinh lý ở nồng độ rất thấp (chỉ 0,5 ppm). Sự nhạy cảm với
ethylene khác nhau tuỳ theo loại hoa. Tuy nhiên sự tiếp xúc của hoa với
ethylen sẽ tăng tốc độ hoá già [23].
Ethylene được sản sinh ở tất cả các cơ quan của cây: lá, thân, rễ, hoa,
quả. Hoa cắt sản sinh một lượng rất lớn ethylene sau khi thu hoạch, đặc biệt
sau khhi thụ phấn. Ethylene có thể làm thay đổi khí quyển bảo quản xung
quanh hoa cắt ảnh hưởng đến thời gian vận chuyển và bảo quản hoa cắt.
Ethylene có thể làm:
10
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
- Ức chế sự nở hoa.
- Gây rụng các cơ quan (lá, hoa, đốt).
- Rụng cánh hoa.
- Tóp cánh hoa.
- Ngăn cản sự hút nước.
- Đẩy nhanh quá trình già hóa [5].
Tính mẫn cảm với ethylene ở các loài hoa khác nhau là khác nhau. Tính
mẫn cảm trên còn phụ thuộc vào giai đoạn sinh lý của hoa lúc thu hoạch và có
thể phụ thuộc vào sự cân bằng các chất điều tiết sinh trưởng nội sinh.
Việc chống lại tác động của ethylene có thể đạt được bằng cách xua đuổi
ethylene ra khỏi phòng bảo quản, hoa cắt có thể được giữ xa nguồn sản sinh
ethylene, ức chế sự sản sinh và tác động của ethylene. Không nên bảo quản
chung hoa nở với hoa chưa nở vì hoa đã nở đã có bao phấn - nguồn sản sinh
lớn ethylene.
Ở nhiệt độ thấp, ethylene sản sinh bởi hoa là thấp và bản thân ethylene
hoạt động kém. Tuy nhiên, ngay ở nhiệt nhiệt độ này, một lượng nhỏ ethylene
được sản sỉnh ra cũng đủ làm hư hỏng hoa cắt nếu nó tích luỹ đến nồng độ đủ
lớn. Do đó trong quá trình bảo quản hoa việc làm lạnh ban đầu dể giảm tốc độ
sản sinh ethylene là rất quan trọng [15].
2.3.1.5. Sự thoát hơi nước

Phần lớn các sản phẩm tươi chứa 65 ÷ 95% nước khi thu hoạch. Nước
trong cây ở dạng lỏng được rễ hấp thu từ đất, sau đó chuyển lên thân và cuối
cùng thoát ra ngoài môi trường qua các cơ quan tiếp xúc với không khí, đặc
biệt là lá cây. Đây chính là hiện tượng thoát hơi nước. Sự mất nước tự nhiên
chỉ xảy ra qua các lỗ nhỏ li ti trên bề mặt lá gọi là các tế bào khí khổng. Khí
khổng có thể đóng hoặc mở tuỳ theo điều kiện không khí thay đổi để tạo ra tỷ
số mất nước, điều chỉnh và giữ cho các phần của cây ở trạng thái ổn định.
11
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
Sự thoát hơi nước tuỳ thuộc vào mức độ háo nước của hệ keo trong tế
bào, và cấu tạo và trạng thái của mô che, và mức độ giập cơ học, độ ẩm và
nhiệt độ của môi trường xung quanh, tốc độ chuyển động của không khí trong
phòng, cách bảo quản và thời hạn bảo quản. Khác với cây hoa đang sinh
trưởng, hoa sau cắt không thể thay thế nước mất đi bằng nước lấy từ đất,
lượng nước mất đi được bù đắp bằng lượng nước dự trữ trong cành, lá. Nếu
nguồn nước dự trữ mà cạn kiệt do cuống hoa không hút được nước từ dung
dịch cắm hoa thì cân bằng nước bị phá vỡ, biểu hiện bằng sự héo.
2.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng hoa cắt
2.3.2.1. Nguyên liệu ban đầu
Để thời gian bảo quản hoa cắt được lâu dài, trước tiên yêu cầu hoa phải
có chất lượng cao. Điều này liên quan chặt chẽ đến các điều kiện trồng trọt
trước thu hoạch như: khí hậu, đất đai, mùa vụ, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng….
Chất lượng hoa cắt còn phụ thuộc vào hàm lượng chất khô và hàm lượng
ethylene do hoa sản sinh ra. Nếu hoa có hàm lượng chất khô cao thì sẽ thuận lợi
cho quá trình bảo quản. Ngược lại, nếu hàm lượng chất khô trước thu hoạch thấp
sẽ hạn chế thời gian tồn tại tiếp theo của hoa cắt. Sự sản sinh ethylene diễn ra
ngay cả khi hoa còn ở trên cây. Hàm lượng ethylene do hoa sản sinh ra càng lớn
sẽ làm tăng quá trình già hoá, làm cho hoa nhanh nở và chóng tàn.
Điều kiện chăm sóc, đất trồng cũng ảnh hưởng lớn đến chất lượng và
khả năng tồn trữ của hoa tươi. Nếu bón quá nhiều ure thì lá chóng thối. Bón

N-P-K không cân đối với nhu cầu sinh trưởng của cây hoa, thiếu các nguyên
tố vi lượng đều làm giảm khả năng tồn trữ của hoa [6].
2.3.2.2 . Thời điểm thu hoạch
Mỗi loài hoa đều có thời điểm thu hoạch thích hợp. Thời điểm này phụ
thuộc vào giông, loài và mục đích sử dụng sau thu hoạch (như để bán ngay
12
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
hay tồn trữ…). Hoa nếu thu hái sớm khi cuống còn non, hoa có thể không nở
được hoàn toàn, hoa thu hái muộn quá thì lại chóng tàn.
Hoa thu hoạch tốt nhất vào buổi sáng sớm, không thực hiện vào giữa
trưa vì lúc này nhiệt độ cao, ánh sáng mạnh sẽ làm cho cành hoa héo tàn
nhanh. Sau khi cắt khỏi gốc hay rời khỏi cây mẹ, sự sống của cành hoa bắt
đầu giảm dần vì khả năng hút chất dinh dưỡng, hút nước không còn nữa. Nó
chỉ sống được nhờ vào chất dinh dưỡng dự trữ còn lại trong cây, dần dần sẽ
héo tàn do sự bốc hơi nước, do nấm hay vi khuẩn xâm nhập vào các tế bào
mô làm thối rữa các mạch dẫn truyền. Vì vậy phải nhanh chóng thực hiện các
kỹ thuật phân loại và bảo quản [22].
2.3.2.3. Kỹ thuật thu hoạch
Khi cắt hoa phải dùng dao hoặc kéo sắc, cắt vát cành để diện tích tiếp
xúc của hoa với dung dịch cắm là lớn nhất và phân loại hoa ngay trong vườn
để khi đưa vào hạn chể tránh làm giập hoa. Nếu trên cành có hoa bị thối phải
dùng kéo sắc cắt bỏ để tránh lan sang những bông khác. Sau khi cắt nên cắm
ngay hoa vào chậu nước, tưới vảy nhẹ để tránh nước đọng trên mặt hoa. Đưa
vào nơi tối mát, kín gió để bảo quản trước khi đem đến nơi sử dụng.
2.3.2.4. Yếu tố ngoại cảnh
Trong quá trình bảo quản, chất lượng và tuổi thọ hoa cắt phụ thuộc vào
các nhân tố ngoại cảnh như: nhiệt độ, độ ẩm, dịch hại….
a) Nhiệt độ: Nhiệt độ bảo quản có ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thọ hoa
cắt. Khi nhiệt độ bảo quản tăng sẽ làm tăng cường độ hô hấp, tăng sự thoát
hơi nước, tăng sự sản sinh ethylene và nhanh chóng làm giảm chất lượng hoa.

Nếu nhiệt độ bảo quản quá thấp, hoa cắt sẽ chịu tác động xấu do lạnh: sự
đóng băng dịch bào, chất lượng và tuổi thọ bảo quản hoa giảm. Do đó phải
13
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
chọn nhiệt độ thích hợp để bảo quản các loại hoa, mỗi loại hoa lại có khoảng
nhiệt độ tối thích riêng [6].
b) Độ ẩm: Trong phòng bảo quản nếu độ ẩm của không khí thấp sẽ thúc
đẩy sự thoát hơi nước của hoa làm hoa mau héo. Vì vậy cần bảo quản ở điều
kiện độ ẩm không khí cao từ 90-95%. Tuy nhiên, nếu độ ẩm quá cao sẽ gây
hiện tượng ngưng đọng ẩm trên cánh hoa tạo điều kiện cho nấm khuẩn phát
triển [6].
c) Dịch hại: Phòng bảo quản và các dụng cụ phải vệ sinh sạch sẽ, đảm
bảo chống sự xâm nhập của côn trùng , vi sinh vật gây hại.
d) Ánh sáng: Dường như ánh sáng không có vai trò trong bảo quản hoa
cắt. Tuy vậy ở hoa cúc, loa kèn,… khi bảo quản lạnh dài ngày thường thấy
xuất hiện màu vàng của thân lá thay vì màu xanh. Hiện tượng đó có thể khắc
phục bằng cách chiếu sáng kho lạnh hoặc xử lý bằng các chất điều tiết sinh
trưởng ( gibberellin, cytokinin…).
2.3.3. Một số phương pháp bảo quản hoa cắt
Nông sản thông thường có rất nhiều các phương pháp bảo quản khác
nhau như: sấy khô, chế biến hay bảo quản lạnh. Nhưng hoa cắt là một loại
nông sản đặc biệt, thường sử dụng ở dạng tươi nên công việc bảo quản rất khó
khăn và phải tuân thủ nghiêm ngặt. Bên cạnh đó, mỗi loại hoa có cấu tạo khác
nhau nên cũng có những đặc điểm sinh hoá khác nhau [23].
Để hoa cắt có chất lượng cao và thời gian tồn trữ lau dài, thông thường
người ta sử dụng các phương pháp bảo quản sau:
2.3.3.1. Bảo quản lạnh
Bảo quản lạnh là cách tốt nhất để hạn chế các hư hỏng sinh lý và bệnh lý
trên hoa cắt. Nhiệt độ thấp làm giảm hô hấp và các hoạt động trao đổi chất
khác, giảm thoát hơi nước, giảm sự sản sinh cũng như tác động của ethylen và

giảm sinh trưởng của nấm, khuẩn. Các loại hoa cắt có nguồn gốc ôn đới như:
14
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
cẩm cẩm chướng, loa kèn, thược dược,... yêu cầu nhiệt độ ở 0÷1
o
C. Các loại
hoa cắt có nguồn gốc nhiệt đới và á nhiệt đới rất mẫn cảm với hư hỏng lạnh
nên đòi hỏi nhiệt độ bảo quản cao hơn: lay ơn (2÷4
o
C), lan (7÷10
o
C) [23].
Hoa trước khi đưa vào bảo quản lạnh cần làm mát sơ bộ để tránh số
nhiệt gây hư hỏng hoa. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các vùng trồng
hoa nhiệt đới, nơi nhiệt độ không khí tương đối cao.
Người ta có thể bảo quản hoa trong kho lạnh hay kho mát được xây một
tầng trên mặt đất. Trong kho lạnh ngoài các phòng tồn trữ còn có phòng máy,
phòng đóng gói, phòng phụ trợ. Tường, trần và sàn đều phải có khả năng cách
nhiệt tốt, chiều cao phòng từ 6 ÷ 7 mét. Từ những năm 60, người ta đã xây
dựng các kho lạnh tiền chế vừa nhẹ, rẻ tiền lại lắp ráp nhanh.
Nhiệt độ tối thích cho hoa cắt cũng là một vấn đề hết sức quan trọng.
Nói chung những hoa có nguồn gốc ôn đới cần nhiệt độ bảo quản thấp hơn
ngưỡng hoa có nguồn gốc nhiệt đới hoặc á nhiệt đới. Hoa cắt ở giai đoạn nụ
cần nhiệt độ thấp hơn hoa cắt đã nở một phần hay nở hoàn toàn.
Người ta có thể dùng phương pháp bảo quản lạnh khô hay lạnh ướt để
tồn trữ hoa cắt. Bảo quản lạnh khô là phương pháp bảo quản lạnh hoa cắt
trong kho mà không cắm hoa trong nước hay dung dịch hoá chất. Còn bảo
quản lạnh ướt thì hoa cắt vào nước hay dung dịch hoá chất trong phòng lạnh.
Không có phương pháp nào là tối ưu cho tất cả các loài hoa. Một số loài hoa
thích hợp cho bảo quản lạnh khô như: hồng, cúc, layơn… Trong khi đó đồng

tiền, hoa mõm sói… lại thích hợp với bảo quản lạnh ướt [4].
Phương pháp bảo quản lạnh là phương pháp tối ưu cho thời gian tồn trữ
hoa lâu dài và chất lượng hoa cắt cao vì:
- Bảo quản lạnh hạn chế được cường độ hô hấp của hoa: Theo quy tắc
Vant’ Hoff, trong một giới hạn nhiệt độ nhất định, khi nhiệt độ tăng thì cường
độ hô hấp tăng và khi nhiệt độ giảm, cường độ hô hấp giảm, sự hao hụt chất
khô dự trữ trong hoa giảm. Điều đó giúp kéo dài tuổi thọ của hoa cắt [5].
15
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
- Bảo quản lạnh giúp hạn chế sự sản sinh ethylene: Ethylene là hoormon
gây già hoá. Nồng độ ethylene trong khí quyển bảo quản càng thấp sẽ càng
giảm quá trình già hoá dẫn đến héo hoa. Ở nhiệt độ thấp, ethylene sản sinh ít
và hoạt động sinh lý yếu. Tuy nhiên, ngay cả ở nhiệt độ thấp ethylene được
sinh ra từ hoa cắt cũng đủ gây ra những hư hỏng do hoa tích lũy. Vì vậy cần
chú ý đến thời gian lưu kho và không nên bảo quản hoa cắt ở chỗ có quả gần
chín, đã chín và có khả năng sản sinh ethylene cao.
- Bảo quản lạnh còn giúp làm giảm dịch hại: Nhiệt độ thấp làm hạn chế
sự phát triển của vi sinh vật, giảm sự lay nhiễm nấm hại cho hoa.
Tuy nhiên, nhiệt độ thấp cũng có một vài tác hại gây ra một số tác động
xấu:
- Do độ ẩm trong kho lạnh thấp (65 ÷ 75%) nên tốc độ thoát hơi nước
của hoa cắt tăng lên đáng kể. Để hoa không héo khi bảo quản cần bao gói vật
liệu có khả năng ngăn cản sự thoát hơi nước. Người ta thường dùng túi PE
hoặc túi PVC để bao gói hoa hoặc làm tăng độ ẩm của phòng bằng cách phun
ẩm.
- Một số rối loạn sinh lý xảy ra do bảo quản hoa dài ngày ở nhiệt độ thấp
hơn nhiệt độ cho phép. Các triệu chứng bệnh lý xuất hiện trên lá, cành, hoa rất
giống biểu hiện do dịch bệnh gây ra.
2.3.3.2. Bảo quản bằng hoá chất
Sự thúc đẩy quá trình già hoá của hoa trong bảo quản liên quan tới: Sự

giảm hàm lượng nước, sự giảm hydratcarbon và các chất dinh dưỡng dự trữ
khác, sự tăng sản sinh và tác dụng của ethylene, sự giảm hấp thu nước của
hoa và sự xuất hiện nấm khuẩn ở hoa.
Khác với nông sản khác, hoa cắt có khả năng hấp thụ nước, chất dinh
dưỡng, các chất kháng ethylene qua vết cắt của cuống hoa. Do đó bảo quản
hoa tươi bằng dung dịch hoá chất cho chất lượng hoa tương đối cao đồng thời
16
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
ít tốn kém. Việc sử dụng một dung dịch hoá chất hợp lý để bảo quản hoa là
đúng đắn.
Quá trình già hoá của hoa trong bảo quản có liên quan tới:
- Sự giảm hàm lượng nước.
- Sự giảm hydratcarbon và các chất dinh dưỡng khác.
- Sự sản sinh và tác động của ethylene
- Sự xuất hiện nấm khuẩn ở cuống hoa.
Chính vì thế các hoá chất dùng để bảo quản hoa thường gồm:
- Chất dinh dưỡng.
- Chất làm giảm pH xuống 3÷3,5 để hạn chế nấm khuẩn và tăng cường
sự hấp thu nước.
- Chất kháng ethylene.
- Chất diệt nấm khuẩn.
Một số chất kích thích sinh trưởng cũng được sử dụng để hoa có thể nở
hoàn toàn, để giữ màu xanh cho lá và hoa có thể bền hơn trong lọ cắm.
* Chất dinh dưõng.
Đường saccharose và glucose là nguồn cung cấp dinh dưỡng chủ yếu
trong các chất bảo quản hoa thường dùng hiện nay. Tuỳ loại hoa và phương
pháp xử lý mà hàm lượng đường có thể dao động từ 0,5÷20%.
Glucose là cơ chất trực tiếp cho quá trình hô hấp.
C
6

H
12
O
6
+ 6 O
2
→ 6CO
2
+ H
2
O +674 Kcal.
Quá trình hô hấp giải phóng năng lượng duy trì hoạt động sống của hoa
cắt.
Khi còn ở trên cây, quá trình quang hợp tạo ra dinh dưỡng của cây và
hoa vẫn được duy trì. Nhưng khi bị cắt khỏi cây thì quá trình tự tổng hợp chất
dinh dưỡng không được thực hiện, hoa phải sử dụng nguồn dinh dưỡng dự
trữ, do đó hàm lượng đường trong hoa lúc này giảm dần. Để cung cấp thêm
cho hoa, dung dịch cắm có thể bổ sung thêm đường glucose hay đường
17
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
saccharose. Thông thường người ta thường sử dụng saccharose vì những tính
ưu việt của nó. Dưới tác dụng của enzyme invectase, saccharose dần bị thuỷ
phân thành đường khử D- glucose và D- fructose.
* Chất làm giảm pH, tăng cường độ hấp thụ nước và kháng khuẩn.
pH thấp đựoc điều chỉnh bằng acid citric để đạt pH = 3÷3.5. Nồng độ
acid thường dùng là 500 ÷ 800 ppm. Acid citric có công thức hoá học:
HOOC – CH
2
– CH – CH
2

– COOH
COOH OH
Acid citric có trong rau quả với hàm lượng khá cao. Trong cây họ citrus
phần lớn đều chứa acid này.
Trong bảo quản hoa cắt, acid citric có khả năng làm giảm pH môi trường
bảo quản. Hầu hết các vi sinh vật thích hợp với pH trung tính nên khi pH thấp
vi sinh vật sẽ bị co nguyên sinh và chết.
* Chất kháng ethylene.
Các chất kháng ethylene có thể là:
- Các chất kích thích sinh trưởng – các chất kháng ethylene gián tiếp.
Nên cân bằng các chất kích thích sinh trưởng và ức chế sinh trưởng hay
cụ thể là cân bằng gibberellin/ ethylene, tác động của ethylene có thể được
giảm bớt. Trong các chất kích thích sinh trưởng gibberellin có ứng dụng nhiều
để kháng lại tác động của ethylene.
- Các ion kim loại nặng như như bạc (Ag), coban (Co), titan (Ti)… có
thể đã ức chế quá trình chuyển triptophan thành ACC (chất tiền thân của
ethylene), do đó ethylene không được hình thành. Các hợp chất như AgNO
3
,
thiosunfat bạc (STS), TiCl
2
, CoCl
2
được bổ sung vào dung dịch cắm hoa hay
xử lý hoa cắt trước hoặc sau bảo quản lạnh là các chất kháng ethylene có hiệu
quả.
18
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
- Các chất oxi hóa mạnh như ozon (O
3

), thuốc tím (KMnO
4
), tia cực tím
(UV) sẽ oxi hóa ngay lập tức ethylene trước khi chúng gây ra những tác động
xấu.
- Làm mất nhanh chóng ethylene cùng nhiệt lượng cao ra khỏi phòng
bảo quản bằng cách thông gió sao cho nồng độ ethylene nhỏ hơn 0.01µl /l.
- Thu non sản phẩm nếu có thể.
- Không bảo quản chung các sản phẩm đã có độ chín khác nhau bởi vì
quả chín, hoa đã thụ phấn sẽ kích thích quá trình chín, gây ra những hậu quả
xấu ở các sản phẩm chưa chín.
- Bảo quản ở nhiệt độ thấp, nồng độ CO
2
thấp và trong khí quyển điều
chỉnh.
* Chất diệt nấm khuẩn:
Chất này được dùng để ngăn cản vi khuẩn, nấm phát triển và hoạt động
trong dung dịch cắm hoa. Các vi sinh vật này sẽ sản sinh ra ethylene cùng các
chất độc khác gây hại cho hoa, đồng thời chúng cũng làm nghẽn, tắc mạch
dẫn trong hoa làm hoa không hút được nước và sẽ bị héo. Có thí nghiệm đã
chứng minh rằng trong dung dịch có khoảng 10÷100 triệu vi khuẩn/ ml thì
gây tắc mạch dẫn, nếu lên tới 3 tỷ vi khuẩn/ ml thì làm hoa héo.
Chất trừ nấm khuẩn thường là chất kháng sinh như streptomicine hoặc
8-hydroxyquinonilcitrat (8-HQC) hoặc sử dụng muối bạc.
* Chất kích thích sinh trưởng.
Các chất kích thích sinh trưởng bao gồm auxin, gibberellin và cytokinin
có tác dụng kích thích các quá trình sinh trưởng của cây trồng.
Auxin- α NAA
Auxin là phytohoocmon được phát hiện đầu tiên nhờ công sức của
nhiều nhà khoa học: Darwin (1880); Paol (1919); Went (1928). Giáo sư người

Hà Lan Kogl (1934) đã xác định chất đó là axit β-indol axetic (β-IAA) và gọi
là auxin. Bằng con đường hoá học hàng loạt các hợp chất có bản chất auxin
19
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
đã ra đời trong đó các chất quan trọng nhất là α-NAA (axit α- Naphtyl axetic);
IBA (axit indolbutiric)…. Dưới đây là công thức hoá học của một số auxin
quan trọng:
Auxin có tác dụng sinh lý đến quá trình sinh trưởng của tế bào, hoạt
động của tầng phát sinh, sự hình thành rễ, hiện tượng ưu thế ngọn, tính hướng
của thực vật, sự sinh trưởng của quả và tạo quả không hạt ...
Auxin kích thích sự sinh trưởng giãn của tế bào, đặc biệt giãn theo chiều
ngang của tế bào làm tế bào to về chiều ngang, vì vậy làm cho các bộ phận
của cây to về chiều ngang. Auxin hoạt hoá bơm proton, bơm các ion H
+
vào
trong màng tế bào làm giảm pH của màng tế bào nên hoạt hóa enzyme phân
hủy các polisaccharit liên kết giữa các sợi cellulose làm cho chúng lỏng lẻo và
tạc điều kiện cho thành tế bào giãn ra dưới tác dụng của áp suất thẩm thấu của
20
N
H
CH
2
- COOH
N
H
(CH
2
)
3

- COOH
O-CH
2
COOH
Cl
Cl
CH
2
COOH
β - IAA
IBA
2,4D
α - NAA
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
không bào trung tâm. Ngoài ra auxin còn kích thích sự tổng hợp các hợp các
cấu tử cấu trúc nên thành tế bào như các chất cellulose, pectin,
hemicellulose.... Do đó trong quá trình bảo quản hoa người ta sử dụng auxin
với một hàm lượng nhất định sẽ làm tăng đường kính của bông hoa, và hạn
chế sự hư hỏng của hoa, kéo dài thời gian bảo quản.
Auxin còn ảnh hưởng đến sự phân chia tế bào, tuy nhiên ảnh hưởng của
auxin lên sự giãn và sự phân chia tế bào trong mỗi tác động tương hỗ với các
phytohormone khác. Auxin còn có tác dụng hoạt hóa quá trình sinh tổng hợp
các chất như protêin, cellulose, pectin và kìm hãm sự phân giải chúng, nhờ
thế có thể kéo dài tuổi thọ của các cơ quan, đồng thời làm tăng quá trình vận
chuyển vật chất (nước, muối khoáng, chất hữu cơ) ở trong cây, đặc biệt về các
cơ quan sinh sản như hoa và cơ quan dự trữ của cây [16].
Auxin điều khiển tính hướng của cây trồng (hướng quang và hướng địa):
do có sự phân bố nồng độ auxin khác nhau ở 2 phía của cây (phía được chiếu
sáng và phía che khuất) mà cây trồng thường có xu hướng vươn ra phía nguồn
sáng và rễ luôn hướng về đất (hướng địa).

Auxin điều khiển ưu thế ngọn: Ưu thế ngọn là một hiện tượng đặc biệt
của cây trồng. Hiện tượng ưu thế ngọn gây ra có sự tích luỹ nhiều auxin ở
đỉnh ngọn và đầu rễ. Khi chồi ngọn và rễ chính sinh trưởng mạnh sẽ ức chế
sinh trưởng của chồi bên và rễ phụ.
Auxin kìm hãm sự rụng lá, rụng hoa …, sử dụng các loại auxin ngoại
sinh (IBA, α- NAA…) để hạn chế sự rụng lá, cánh hoa của các loại hoa cắt.
Gibberellin A
3
(GA
3
)
Gibberellin (GA) là nhóm phytohormone thứ 2 được phát hiện sau
Auxin. Năm 1955, hai nhà nghiên cứu người Anh và Mỹ đã phát hiện ra axit
gibberellic ở cây lúa von và xác định công thức hoá học của nó là C
19
H
22
O
6
.
Gibberellin có tác dụng kích thích sinh trưởng, kéo dài thân lóng của cây hòa
21
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
thảo, kích thích sự nảy mầm của hạt, củ căn hành, ngăn cản quá trình rụng của
các cơ quan ( lá, hoa, quả), làm chậm quá trình chín và già hóa của các cơ
quan.... Hiện nay người ta đã phát hiện ra được hơn 100 gibberellin và ký
hiệu là A
1
, A
2

, A
3
... hoặc GA
1
, GA
2
, GA
3
... trong đó GA
3
(gibberellic acid) có
hoạt tính mạnh nhất và được sử dụng nhiều trong nông nghiệp.
Với các loại hạt chuẩn bị nảy mầm gibberellin gây nên sự giải ức chế
gen chịu trách nhiệm tổng hợp các enzyme thuỷ phân mà trong hạt đang ngủ
nghỉ chúng hoàn toàn bị trấn áp bằng các protein histon. Gibberellin đóng vai
trò như là chất cảm ứng mở gen để hệ thống tổng hợp protein enzyme thủy
phân hoạt động. Ngoài vai trò cảm ứng hình thành enzyme thì gibberellin còn
có vai trò kích thích sự giải phóng các enzyme thủy phân vào nội nhũ xúc tiến
quá trình thủy phân các polime thành các monome kích thích sự nảy mầm của
các loại hạt.
Gibberellin xúc tiến hoạt động của auxin, hạn chế sự phân giải auxin do
chúng có tác dụng kìm hãm hoạt tính xúc tác của enzyme phân giải auxin
(auxinoxydase, flavinoxydase), khử tác nhân kìm hãm hoạt động của auxin.
Cơ chế kích thích giãn của tế bào bởi gibberellin cũng liên quan đến
hoạt hóa bơm proton như auxin. Tuy nhiên các tế bào nhạy cảm với auxin và
gibberellin khác nhau có những đặc trưng khác nhau. Ðiều đó liên quan đến
sự có mặt các nhân tố tiếp nhận hormone khác nhau trong các kiểu tế bào
khác nhau [16].
Trong nhiều trường hợp GA kích thích sự ra hoa rõ rệt, ảnh hưởng đặc
trưng của GA lên sự ra hoa là kích thích sự sinh trưởng kéo dài và nhanh

chóng của ngồng hoa. Hiệu quả này có được là do của gibberellin kích thích
mạnh lên pha giãn của tế bào theo chiều dọc. Vì vậy khi xử lý của gibberellin
cho cây đã làm tăng nhanh sự sinh trưởng dinh dưỡng nên làm tăng sinh khối
của cây. Dưới tác động của gibberellin làm cho thân cây tăng chiều cao rất
mạnh. Do vậy, xử lý GA cho cây dài ngày thì chúng có thể ra hoa trong điều
22
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
kiện ngày ngắn.Ảnh hưởng đặc trưng của sự ra hoa của gibberellin là kích
thích sự sinh trưởng kéo dài và nhanh chóng của cụm hoa. Hoa loa kèn trắng
có thể ra hoa sớm hơn so với bình thường 5÷7 ngày nếu được phun GA
3
50
ppm sau khi trồng 90 ngày.
Công thức hoá học của GA
3
:
O

CO
HO OH
CH
3
COOH CH
2
GA
3
được tổng hợp ở trong phôi đang sinh trưởng, trong các cơ quan
sinh trưởng khác như lá non, quả non, rễ non… chúng được vận chuyển
không phân cực, có thể hướng ngọn hoặc hướng gốc tuỳ nơi sử dụng. Trong
tế bào, GA được tổng hợp mạnh nhất ở lục lạp. Để làm hoa nở lúc cần thiết,

người ta sử dụng GA
3
ở nồng độ dao động trong khoảng 2÷50 ppm.
Trong bảo quản lạnh, GA
3
cũng đóng vai trò quan trọng. Nó ngăn cản
quá trình mất chlorophyl (mất màu xanh của lá và cành) làm giảm chất lượng
hoa. Vì vậy, hoa cắt trước khi đem đi bảo quản lạnh thường được cắm trong
dung dịch GA
3
trong thời gian 6÷8h sẽ có tác dụng giữ màu xanh của lá và
cành hoa rất tốt [1].
23
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
2.3.3.3. Bảo quản trong khí quyển điều chỉnh
* Bảo quản hoa cắt trong khí quyển được kiểm soát (CAS):
Đây là phương pháp trong điều kiện lạnh, tăng nồng độ CO
2
, giảm nồng
độ O
2
, giảm sự sản sinh ethylene để kéo dài tuổi thọ hoa. Tùy theo loại, giống
mà nồng độ CO
2
, O
2
sẽ khác nhau. Phòng tồn trữ kín, lạnh hoặc không lạnh,
có hệ thống thông gió và cung cấp O
2
, N

2
, CO
2
với thiết bị đo nhiệt độ, độ ẩm
và nồng độ độ các khí này được diều chỉnh một cách tự động. Tất cả các
thông số này được kiểm soát một cách chặt chẽ. Phương pháp này cho chất
lượng bảo quản cao nhưng tốn kém vì thiết bị đắt tiền do đó chi phí tồn trữ
cao nên phương pháp này chưa được sử dụng phổ biến ở nước ta.
* Bảo quản hoa cắt trong khí quyển cải biến (MAS):
Cách đây khoảng 50 năm người ta đã sử dụng các túi chất dẻo như PE,
PVC để bao gói hoa cắt. Thành phần không khí trong túi trong quá trình bảo
quản bị thay đổi do hô hấp của hoa trong túi. Tùy theo lượng chiếm chỗ của
hoa so với thể tích túi, giống, loại, độ nở của hoa, nhiệt độ của môi trường và
tính chất thấm khí của túi mà sự hô hấp, sư bốc hơi nước cũng như thời hạn
tồn trữ của hoa khác nhau.
2.4. Bảo quản hoa loa kèn trắng
So với các loại hoa truyền thống như hồng, cúc… thì hoa loa kèn trắng
là loại hoa thực sự mới mẻ đối với thị trường hoa cắt nói chung và thị trường
hoa cắt Việt Nam nói riêng. Với những đặc tính ưu việt về vẻ đẹp trong hình
dáng bông hoa, hương thơm dịu nhẹ và màu trắng tinh khiết, hoa loa kèn
trắng đã được nhiều người tiêu dùng ưu chuộng. Tuy nhiên hoa loa kèn chỉ có
một mùa chính trong năm và thời vụ rất ngắn. Điều này ảnh hưởng lớn đến
hiệu quả kinh tế của sản xuất. Bên cạnh đó, mặc dù hoa cắm tươi khá lâu, đẹp,
trắng tinh khiết và thơm nhẹ nhưng lá hoa lá hoa bị vàng rất nhanh (thông
thường chỉ sau 3 ngày cắm lá đã có hiện tượng bị vàng trong khi hoa có thể
tươi 7÷9 ngày) làm giảm giá trị thẩm mỹ của hoa. Vì vậy trong những năm
24
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng – BQ50B
gần đây, đã có rất nhiều nghiên cứu về hoa loa kèn trắng cả về những yếu tố
kỹ thuật trước, trong khi trồng cũng như sau thu hoạch. Trong đó những

nghiên cứu về quá trình bảo quản hoa loa kèn trắng sau thu hoạch được quan
tâm nhiều nhất nhằm khắc phục những khó khăn nêu trên.
2.4.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Năm 1995, Han, S.S đã chỉ ra rằng hiện tượng vàng lá trên hoa loa kèn
trắng sau cắt có thể làm giảm bằng benzyladenine ( BA) hoặc gibberellic acid
(GA
3
) [14].
Năm 2000, nghiên cứu của Catherine. M. Whitman, Royal D. Hennis,
Roar Moe và Keith A. Funnel tiến hành phun GA
4+7
và BA lên cây loa kèn
trắng rồi thu hoạch khi nụ lớn nhất trên cành hoa dài 13 cm. Sau đó, hoa được
đưa vào kho lạnh ở nhiệt độ 2.5
o
C trong 3 tuần, với điều kiện phòng tối. Tiếp
đó, đưa hoa ra cắm ở nhiệt độ phòng 21
o
C. Kết quả cho thấy hoa loa kèn trắng
đã được xử lý khi cắm giảm được hiện tượng vàng lá so với hoa không được
phun dung dịch [12].
Năm 2002, nghiên cứu của Rawala và Miller đi đến kết luận gibberellin
có tác dụng ngăn ngừa hiện tượng vàng lá trên hoa loa kèn cành cắt khi pha
dung dịch cắm hoa với nồng độ 5 ÷ 25 ppm [13].
Năm 2003, Han S.S và Miller J. A nghiên cứu ảnh hưởng của ethylene
tới chất lượng hoa sau thu hoạch (giống hoa loa kèn phương Đông- Oriental
lily Hybird), kết quả cho thấy chất kháng ethylene có tác dụng giúp hoa nở
khi thu hoạch hoa loa kèn có nụ nhỏ hoặc hoa cắt được bảo quản lạnh trước
khi tiêu thụ trên thị trường [14].
Không chỉ riêng hóa chất ảnh hưởng đến chất lượng hoa loa kèn trắng sau

thu hoạch, một số nghiên cứu cho thấy khi cắm hoa ở nhiệt độ phòng khoảng
20
o
C, để gần cửa sổ có nhiều ánh sáng (tránh ánh sáng trực tiếp) sẽ cho hoa
tươi lâu với cánh hoa có màu sắc và trạng thái tốt hơn. Bên cạnh đó, ngắt nhị
hoa khi hoa chưa tung phấn cũng giúp kéo dài tuổi thọ hoa loa kèn trắng.
25

×