Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

HÌNH ẢNH NGƯỜI PHỤ nữ TRONG nỗi BUỒN CHIẾN TRANH của bảo NINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.8 KB, 28 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TIỂU LUẬN MÔN
VĂN HỌC VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH ĐÔNG Á

Đề tài:

HÌNH ẢNH NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG
NỖI BUỒN CHIẾN TRANH, MỘT TÁC
PHẨM ĐỘC ĐÁO CỦA BẢO NINH

GVHD: PGS.TS NGUYỄN HỮU HIẾU
HVTH: ĐẶNG NGỌC NGẬN

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 5 NĂM 2018
1


MỤC LỤC
1. Đặt vấn đề.............................................................................................................3
2. Nội dung...............................................................................................................4
2.1 Nỗi buồn chiến tranh – một tác phẩm độc đáo về chiến tranh trong thời kỳ
đổi mới......................................................................................................................4
2.1.1 Nỗi buồn chiến tranh: Độc đáo về nội dung....................................................5
2.1.1.1 Một cách nhìn mới về chiến tranh.................................................................5
2.1.1.2 Một cách nhìn sâu sắc về văn chương nghệ thuật........................................9
2.2Nỗi buồn chiến tranh: Thành tựu cao về nghệ thuật của văn học Việt Nam
thời kì đổi mới.........................................................................................................11
2.2.1 Đổi mới về kết cấu: Nỗi buồn chiến tranh là tiểu thuyết hiện thực tâm lí, tiểu
thuyết trong tiểu thuyết............................................................................................11


2.2.2 Mới trong chất liệu cấu thành tác phẩm.......................................................13
3. Hình ảnh người phụ nữ trong Nỗi buồn chiến tranh......................................14
3.1 Thế giới nhân vật trong Nỗi buồn chiến tranh...............................................14
3.1.1 Nhân vật văn học............................................................................................14
3.1.2 Thế giới nhân vật trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh........................14
3.2 Hình ảnh người phụ nữ trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh............16
3.2.1 Một thế giới đa dạng......................................................................................16
3.2.2. Người phụ nữ trong Nỗi buồn chiến tranh: Hiện thân của Tình Yêu, Cái Đẹp
và Sự cứu rỗi...........................................................................................................17
3.2.3. Người phụ nữ: Nạn nhân của chiến tranh, của sự hủy diệt..........................23
4.Kết luận................................................................................................................27
5.Tài liệu tham khảo..............................................................................................28
2


1. Đặt vấn đề

Năm 1975, với thắng lợi trọn vẹn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, lịch sử dân tộc mở ra một thời kì
mới, cũng là mở ra một giai đoạn mới cho văn học Việt Nam hiện đại. Trong hoàn
cảnh xã hội mới, cùng với cao trào đổi mới đất nước, nền văn học đã có những
chuyển biến sâu sắc. Đại hội Đảng lần VI (1986), Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị
xác định đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có đổi mới văn học nghệ thuật.
Những sự kiện đó mang đến một luồng gió mới, mở ra một chặng đường phát triển
sôi nổi của văn học nghệ thuật trên tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự
thật.
Những tác phẩm thời hậu chiến từ nửa cuối những năm 80 và đầu những năm
90 của thế kỉ XX đi theo khuynh hướng nhận thức lại hiện thực, trong đó có hiện
thực về cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc. Trong dòng chảy đó, Nỗi buồn chiến
tranh của Bảo Ninh tạo được một ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc trong nước

lẫn độc giả nước ngoài. Xung quanh tác phẩm là những dư luận sôi nổi và trái
chiều nhau, và số phận của tiểu thuyết này, vì vậy, cũng khá đặc biệt. Tác phẩm
xuất bản lần đầu tiên vào năm 1990 và được tái bản ngay năm sau. Cũng trong năm
tái bản đó, tác phẩm được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Nhận được
nhiều ý kiến đánh giá cao về nội dung lẫn bút pháp nghệ thuật nhưng song song đó
Nỗi buồn chiến tranh cũng chịu không ít sự chỉ trích. Và sau đó, tác phẩm gần như
bị lãng quên trong một thời gian dài. Ngày nay, với cái nhìn trung thực, khách quan
và công bằng, ta không thể không thừa nhận những giá trị mà tác phẩm mang lại
cho văn học Việt Nam thời kì đổi mới.
Đề cập đến những thành công của Nỗi buồn chiến tranh, người ta nói nhiều về
cách nhìn mới về hiện thực chiến tranh của Bảo Ninh, về hình thức tiểu thuyết hiện
thực tâm lí… Và làm nên chiều sâu tư tưởng của tác phẩm, không thể không kể
đến thế giới nhân vật với những tuyến nhân vật khác nhau mang ý nghĩa biểu
3


tượng sâu sắc. Đó là tuyến nhân vật những người đồng đội cùng chiến đấu với
Kiên (nhân vật chính của tác phẩm), tuyến nhân vật là những người thân của Kiên
và tuyến nhân vật những ngươi phụ nữ đi qua cuộc đời Kiên ít hoặc nhiều, lâu hay
mau. Trong giới hạn của một tiểu luận, người viết chỉ xin bàn kĩ hơn riêng về tuyến
nhân vật người phụ nữ trong tiểu thuyết nổi tiếng này. Những người phụ nữ hiện
diện trong cuộc đời Kiên cả trước và sau chiến tranh là một phần không thể thiếu
trong nỗi buồn, niềm đau, hạnh phúc…của Kiên và là những nhân vật đầy sức ám
ảnh người đọc. Đi vào tìm hiểu hình ảnh người phụ nữ trong tác phẩm này của Bảo
Ninh cũng là một cách để hiểu sâu sắc hơn những tầng ý nghĩa của tác phẩm và
những sáng tạo mới mẻ của Bảo Ninh trong nghệ thuật tiểu thuyết.
2. Nội dung
2.1 Nỗi buồn chiến tranh – một tác phẩm độc đáo về chiến tranh trong thời kỳ
đổi mới
Nỗi buồn chiến tranh là tác phẩm tiểu thuyết đầu tay của nhà văn Bảo Ninh,

một tác giả chuyên về truyện ngắn. Bảo Ninh tên thật là Hoàng Ấu Phương, sinh
tại huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, quê ở xã Bảo Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh
Quảng Bình, Việt Nam. Ông vào bộ đội năm 1969, chiến đấu ở mặt trận B-3 Tây
Nguyên, tại Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 24, Sư đoàn 10. Năm1975, ông giải ngũ. Từ
1976 – 1981 Bảo Ninh học đại học ở Hà Nội, sau đó làm việc ở Viện Khoa học
Việt Nam. Từ 1984 - 1986 tác giả học khoá 2 Trường Viết văn Nguyễn Du, thuộc
thế hệ sinh viên đầu tiên của trường này. Một thời gian dài sống và chiến đấu trong
cuộc kháng chiến chống Mĩ đã giúp tác giả hiểu rõ về hiện thực chiến tranh và nhìn
nhận nó một cách chân thật dưới cái nhìn của một người đã đi qua cuộc chiến. Bên
cạnh đó, với những điều học được từ Trường viết văn Nguyễn Du, Bảo Ninh đã
cho ra đời một tiểu thuyết xuất sắc về chiến tranh. Tác phẩm được xuất bản lần đầu
tiên vào năm 1990 với tên Thân phận tình yêu, tên do các biên tập viên nhà xuất
4


bản Hội Nhà văn lựa chọn. Năm 1991, tác phẩm được tái bản với tên ban đầu do
chính Bảo Ninh chọn: Nỗi buồn chiến tranh và được giải thường Hội Nhà văn Việt
Nam cùng tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Bến
không chồng (Dương Hướng). Nỗi buồn chiến tranh là câu chuyện về một người
lính tên Kiên với những hồi ức đứt đoạn hay liên tục về cuộc chiến tranh mà anh đã
tham gia, hồi ức về mối tình đầu với cô bạn học tên Phương, đan xen với thực tại
cuộc đời anh sau khi hòa bình lập lại. Nỗi buồn chiến tranh dù bị cấm xuất bản
trong một thời gian dài (khoảng mười năm) nhưng vẫn rất được yêu thích. Tác
phẩm đã được dịch ra tiếng Anh với nhan đề The sorrow of war. Quyển sách được
đón đọc rộng rãi ở phương Tây và được đánh giá là một trong những tiểu thuyết
cảm động nhất về chiến tranh. Năm 2006, tác phẩm lại được tái bản và cũng được
đón nhận nồng nhiệt.
2.1.1 Nỗi buồn chiến tranh: Độc đáo về nội dung
2.1.1.1 Một cách nhìn mới về chiến tranh
Ra đời khi chiến tranh đã lùi xa hơn mười năm, là tác phẩm viết về chiến

tranh của một nhà văn đã từng là một người lính chiến đấu trên chiến trường, Nỗi
buồn chiến tranh, cùng với một số tác phẩm khác thời hậu chiến cùng đề tài có một
cách nhìn khác về chiến tranh so với những tác phẩm cũng viết về chiến tranh
nhưng ra đời trong kháng chiến.
Hoàn cảnh chiến tranh đòi hỏi phải đánh thức lí tưởng anh hùng trong mỗi
người, kêu gọi sự cống hiến, hi sinh cho đất nước. Tác phẩm văn học Việt Nam với chức năng bám sát hiện thực, phục vụ cuộc sống - trong giai đoạn kháng chiến
chống Pháp, chống Mĩ, khi viết về chiến tranh hầu hết đều mang khuynh hướng sử
thi, cảm hứng ngợi ca. Chiến tranh được miêu tả trong các tác phẩm giai đoạn đó là
hào hùng, cao cả, là hi sinh anh dũng; những nhân vật chính trong các tác phẩm đó
là những cá nhân anh hùng, những tập thể anh hùng. Hình ảnh người lính trong
5


những tác phẩm ấy thường được hình tượng hóa thành biểu tượng của tinh thần bất
diệt nhưng khô khan và tình cảm đôi khi kiên cưỡng, không thật.
Ở giai đoạn sau của văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt là thời kì đổi mới
(từ 1986 trở đi), các nhà văn là cựu chiến binh, đã đi qua chiến tranh, giờ nhìn lại
chiến tranh trên những phương diện khác: thân phận con người trong chiến tranh,
những suy tư về nhân tính trong và sau chiến tranh, mặt trái của hiện thực chiến
tranh… Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh cũng nhìn về cuộc chiến của dân tộc
trên những góc nhìn này.
Bảo Ninh đã không nhìn về cuộc chiến tranh của đất nước ta với đế quốc Mĩ
trong góc nhìn giới hạn của một người lính Bắc Việt nói riêng hay một người Việt
Nam nói chung. Bảo Ninh đã chọn góc nhìn cơ bản nhất – cũng là góc nhìn cao
nhất: góc nhìn con người. Với góc nhìn này, ông không đứng ở vị trí “phía bên
này” để lên án, miệt thị “phía bên kia”, ông thấy người lính, dù là kẻ thù thì cũng là
con người, và không ai có thể thoát khỏi những đau đớn của chiến tranh. Nhờ vậy,
giữa những tàn bạo, khốc liệt của cuộc chiến, ta vẫn thấy ấm áp tình người. Tình
người ngời sáng qua chi tiết: Phán, người lính Việt Nam, sau khi đâm một người
lính ngụy (vốn bị thương nặng từ trước mà Phán không biết), thấy thương tâm cho

người lính ngụy ấy, đã cố tìm mọi cách cứu anh ta, cố gắng nhét ruột vào bụng anh
ta, xé áo băng lại, cố gắng đi tìm vải và bông băng để cấp cứu. Lời kể của
Phán:“Tôi nhét ruột vào bụng anh ta rồi xé áo để băng. Nhưng toàn những vết
thương tàn bạo… Tôi kinh sợ đến thấu tim và xót thương nữa…” và những dằn vặt,
day dứt của anh khi không cứu được người lính bên kia chiến tuyến khiến chúng ta
xót xa và cảm động. Đi cùng chiến tranh là nỗi đau, nỗi đau không từ một ai, nếu
đã là con người: “Tên tuổi của anh ta tôi không biết, chỉ biết anh ta là lính liên
đoàn 6 biệt động quân; Người Nam hay người Bắc hay Trung cũng chả biết vì anh
ta chỉ rên, rên thì dân xứ nào cũng một giọng như nhau. Và ta hay ngụy thì cũng
rên như vậy…”. Những câu văn ấy xót xa nhưng đẹp.
6


Cũng trên góc nhìn này, Bảo Ninh còn cho ta thấy cái tàn bạo của cuộc chiến
không phải chỉ ở chỗ nó cướp đi sinh mệnh con người mà kinh khủng hơn là nó
không ngừng ám ảnh những người còn sống sau cuộc chiến (tiêu biểu là Kiên),
những ám ảnh đau đớn, để khi đã sống trong thời hòa bình người ta thấy tâm tưởng
mình đã vĩnh viễn nằm lại trong quá khứ, trong cuộc chiến tranh đã qua. Điều đó
làm cho nội tâm Kiên luôn bị xung đột: xung đột giữa mong muốn trở về với cuộc
sống bình thường sau chiến tranh, quên đi quá khứ với dự cảm “quên đi thật khó”,
biết là chẳng bao giờ có thể nguôi đi được. Muốn sống bình thường trong thời hòa
bình nhưng Kiên cũng nhận thức rõ mình đã quen với cuộc sống chiến tranh, nên
Kiên lại quay về tìm lại “thời gian đã mất”, sống lại với quá khứ chiến tranh trong
tâm tưởng của mình. Dường như, chiến tranh chưa bao giờ đi qua, nó vẫn luôn tồn
tại trong kí ức Kiên, mãi mãi ám ảnh.
Khi nhìn nhận chiến tranh dưới góc nhìn con người, Bảo Ninh giúp ta hiểu
rõ hơn bản chất của chiến tranh. Tác giả, bằng tài năng của mình, cho thấy cái nhìn
khách quan, chân thật về chiến tranh. Chiến tranh trong tác phẩm đã được nhìn
nhận ở cả hai mặt trắng và đen, phải và trái. Chiến tranh có sức mạnh hủy diệt con
người, không chỉ là hủy diệt phần xác mà đau đớn hơn, là hủy diệt nhân tính.

Chiến tranh gắn với “hành hạ”, “làm nhục”, “giết chết”… Chiến tranh khơi dậy
bạo lực, khơi dậy sự tàn bạo của con người, chiến tranh mang đến sự dửng dưng
trước cái ác… Chiến tranh, một cách nào đó, đã làm nhục Phương, lấy mất của
Phương điều quý giá mà Phương chỉ muốn dành riêng cho Kiên, đẩy Phương và
Kiên xa nhau, dù cả hai đều còn sống, dù vẫn yêu và mãi yêu nhau; Chiến tranh đã
đẩy cô em gái của Vĩnh, bạn chiến đấu của Kiên vào cuộc đời sương gió dạn dày;
Chiến tranh khiến con người thành kẻ khát máu và sẵn sàng nã đạn vào đối phương
một cách điên cuồng; Thậm chí chiến tranh còn cho ta thấy có những kẻ mất nhân
tính đến nỗi đối xử tàn bạo với một xác chết, dù xác chết là một phụ nữ. “Hãy coi
chừng mà xem lại nhân tính”. Lời cảnh báo của một người lính trong ngày toàn
7


thắng, tại Tân Sơn Nhất đâu chỉ là một lời nói suông. Chiến tranh giết chết những
con người ưu tú nhất, tốt đẹp nhất, xứng đáng hơn ai hết quyền được sống trên cõi
dương. Những người đó là cô giao liên Hòa, chấp nhận một mình đối đầu với một
nhóm giặc Mĩ để cứu cả đoàn thương binh; là Tâm, là Từ, là Oanh - những người
bạn cùng trung đội với Kiên đã chấp nhận chết cho Kiên được sống. Và cũng chính
từ đây, ta thấy mặt ngược lại của chiến tranh. Chiến tranh làm sáng lên cái đẹp của
tình người. Như đoạn trên đã đề cập, khi nhìn chiến tranh trên góc nhìn con người,
không phải trên góc nhìn của một người lính thuộc phía này hay phía kia, một con
người không đại diện cho một kiểu anh hùng cứu quốc hay một tội đồ cướp nước,
Bảo Ninh thể hiện tình người trong chiến tranh qua cách đối xử nhân đạo của Phán
đối với người lính ngụy. Ở đây cũng nói về tình người trong chiến tranh, nhưng
gần gũi hơn, cụ thể hơn, nó hiển hình qua tình đồng đội, nó được đúc kết trong một
chân lí đơn giản: “ Những con người xứng đáng hơn ai hết quyền được sống trên
cõi đời này nhưng đã lẳng lặng chấp nhận một quy luật đơn giản của chiến tranh:
mình chết thì bạn mình sống”. Vì lẽ đó, chiến thắng cái chết và trở về sau chiến
tranh, Kiên nhận ra mình là kẻ may mắn và cũng nhận ra toàn bộ ý nghĩa cuộc
sống của anh bây giờ, khi hòa bình, là gì: “Thực ra thì trong chiến tranh Kiên được

hưởng nhiều may mắn hơn trong thời bình, bởi vì trong chiến tranh anh đã được
sống, chiến đấu, trưởng thành lên bên những người đồng chí thật tốt. Tuy nhiên,
giá của sự may mắn ấy là anh đã lần lượt mất hết những người bạn, người anh em,
người đồng đội chí thiết nhất. Họ bị giết ngay trước mặt Kiên, hoặc là đã chết
trong vòng tay anh. Nhiều người đã chết để gỡ tính mạng cho Kiên. Nhiều người hi
sinh bởi lỗi lầm của anh.” Sống, vì vậy, với Kiên là mang một món nợ đối với
những người đã nằm xuống, là có trách nhiệm nói thay lời trăng trối của người đã
chết trong chiến tranh, những đồng đội thân yêu và ruột thịt, vô số và vô danh,
những liệt sĩ của lòng nhân đã làm sáng danh dất nước này và làm nên vẻ đẹp tinh

8


thần của cuộc kháng chiến. Món nợ đó, trách nhiệm đó chính là sức mạnh níu kéo
Kiên ở lại với cuộc đời trong những giây phút cận kề cái chết và suy sụp tinh thần.
Nhìn lại cuộc chiến dưới góc nhìn mới này Bảo Ninh đã đánh thức trong mỗi
người đọc ý nghĩa của thời đại đã qua, một thời đại “đau thương nhưng huy
hoàng”, “bất hạnh nhưng chan chứa tình người”. Đồng thời, tác phẩm cũng là lời
nhắc nhở đến những ai đang sống vô tình, lãng quên quá khứ trong “nền hòa bình
thản nhiên” sau cuộc chiến.
2.1.1.2

Một cách nhìn sâu sắc về văn chương nghệ thuật

Kiên trong tác phẩm là một cựu chiến binh đồng thời là một nhà văn của hiện
tại.Trong tác phẩm, song song với những dòng kí ức liên tục và đứt đoạn về những
ngày chiến tranh là những đoạn viết về Kiên với tư cách là một người viết, là hành
trình sáng tạo văn chương của Kiên. Nhà văn ấy luôn có ý thức sâu sắc về công
việc của mình, có một thái độ lao động cực kì nghiêm túc và cầu toàn trong nghệ
thuật: “Mỗi buổi tối, trước khi ngồi vào bàn giở bản thảo rabao giờ Kiên cũng

gắng chuẩn bị cho mình một tâm trạng thích hợp – anh cố tách bạch từng cảm
xúc, cố định hình các vấn đề phức tạp như là phác sẵn ra trong đầu từng trang và
từng trường đoạn cần phải viết xong trong từng thời gian nhất định. Đại để nhân
vật anh sẽ làm gì, nói gì, sẽ gặp những cảnh huống nào phải có tính trước…” Thế
nhưng dù tin tưởng và theo đuổi những tín niệm văn chương, những thôi thúc nội
tâm trong Kiên về một cách viết kì lạ gắn liền với một thiên mệnh huyền cơ mà
anh tự thấy vận vào mình đã khiến anh không thể hoàn thành tác phẩm như anh đã
dự định mà đảo lộn mọi thứ. Nói cách khác, giữa điều anh tin tưởng, theo đuổi (về
văn chương) và con đường thực tế mà anh đi có sự xung đột gay gắt. Trong phần
hai của tác phẩm, ta dễ dàng đọc được những đoạn ghi lại nội tâm phức tạp của
Kiên xung quanh việc viết, việc hình thành quyển tiểu thuyết: “Anh viết ra dường
như chỉ để mà hủy. Nỗi xót xa tiếc rẻ công sức và tâm lực bị phí hoài cùng nỗi lo
sợ mãi mãi dẫm chân tại chỗ không thắng nổi bệnh cầu toàn đầy oan nghiệt.
9


Gạch, xóa, và xé, xé sạch, rồi lại cặm cụi viết, nhích dần từng chữ như thể một gã i
tờ đang học đánh vần. […] Có lẽ chỉ nhờ niềm tin kì quái vào bản thân mà Kiên
vẫn đứng vững sau chừng ấy thất bại, vẫn kiên trì nuôi dưỡng cái linh cảm về
những thành quả sẽ tối với quá trình sáng tạo nghệ thuật của mình. […] Mặc dù
vẫn viết hết trang này sang trang khác, chương này sang chương khác, song càng
viết Kiên càng âm thầm nhận thấy rằng, tuồng như không phải anh mà là một cái
gì đấy đối lập, thậm chí thù nghịch với anh đang viết, đang không ngừng vi phạm,
không ngừng lật ngược tất cả những giáo điều cùng những tín niệm văn chương và
nhân sinh sâu bền nhất của anh. Và hoàn toàn không cưỡng nổi, mỗi ngày Kiên
dấn mình thêm sâu vào vòng xoáy của nghịch lí hiểm ngèo ấy của bút pháp.”
Những dòng trăn trở của Kiên cho thấy những nhận thức sâu sắc về sáng tạo nghệ
thuật. Cùng với sự nhận thức toàn vẹn những chân lí về chiến tranh, Kiên, nhà văn
cựu chiến binh, người chiến thắng cái chết và trở về sau cuộc chiến, nhận thức sâu
sắc trách nhiệm của chính mình trong cuộc đời hậu chiến và ý nghĩa thực sự của

nghề viết. Trách nhiệm của Kiên, như đã nói ở phần trên, là nói thay lời trăng trối
của những người đã nằm xuống trong chiến tranh, là làm cho tiếng nói chung của
thời đại dau thương nhưng huy hoàng, bất hạnh nhưng chan chứa tình người không
bị lãng quên tàn nhẫn trong hòa bình – một “nền hòa bình thản nhiên” thời hậu
chiến. Và phương tiện để anh làm tốt trách nhiệm ấy không gì khác ngoài văn
chương. Đó là lí do vì sao Kiên trở thành một nhà văn “tồn tại đến trót đời với
thiên chức là một cây bút của những người đã hi sinh, là nhà tiên tri của những
năm tháng đã qua đi, người báo trước thời quá khứ”. Chính vì lẽ đó nên dẫu có
những lúc tuyệt vọng (nhưng không bao giờ là hoàn toàn tuyệt vọng), dẫu biết
quyển tiểu thuyết đầu tay của mình “cực kì bấp bênh và vô cùng dang dở”, anh vẫn
tiếp tục, cặm cụi viết vì anh thấy nó “như là cuộc phiêu lưu cuối cùng trong cả
cuộc đời làm lính của anh, đồng thời là một sự thách thức nghiêm trọng đối với sự
sinh tồn của anh không chỉ trên tư cách là một người cầm bút.” Phải chăng, thiên
10


chức của văn chương cũng là thiên chức của cuộc đời, trách nhiệm của nhà văn
cũng là trách nhiệm của con người đối với cuộc đời?
2.2Nỗi buồn chiến tranh: Thành tựu cao về nghệ thuật của văn học Việt Nam
thời kì đổi mới:
Nhà văn Nguyên Ngọc đã nhận định về Nỗi buồn chiến tranh như sau: “Về
mặt nghệ thuật, đó là thành tựu cao nhất của văn học đổi mới”.
2.2.1 Đổi mới về kết cấu: Nỗi buồn chiến tranh là tiểu thuyết hiện thực tâm lí,
tiểu thuyết trong tiểu thuyết
Nhân vật Kiên trong tác phẩm tồn tại chủ yếu không phải trong đời sống xã
hội mà trong đời sống tâm lí. Bảo Ninh dường như không chủ ý miêu tả Kiên trong
tiếp xúc với những nhân vật khác, qua những xung đột và giải quyết xung đột…;
nói cách khác, tác giả miêu tả nhân vật không phải là con người hành động, không
kể, không tả, không tái hiện đời sống xã hội của nhân vật để từ đó khái quát lên
những vấn đề nhân sinh. Trái lại, Kiên được tái hiện với một thế giới tâm lí đầy

những dằn vặt, đau đớn, uẩn ức, những hồi ức ám ảnh triền miên. Những hồi ức đó
bị cắt vụn và phân tán trong các phần của tiểu thuyết. Có những hồi ức xuất hiện
ngay từ những trang đầu tiên của tác phẩm nhưng chỉ hiển hiện trọn vẹn ở phần
cuối (như hồi ức về cô giao liên tên Hòa). Những hồi ức này không được sắp xếp,
gắn kết theo một trật tự rõ ràng nào, không theo trật tự nhân quả, chẳng theo trình
tự thời gian. Dường như cứ một hình ảnh nào của quá khứ hiện lên trong nhân vật
là tác giả tóm ngay lấy và viết ngay trong tác phẩm. Những hồi ức ấy hiện lên và
tương hợp với đời sống tinh thần của Kiên, một thế giới tâm lí đầy những ám ảnh
và những dằn vặt khủng khiếp. Điều này có thể ít nhiều khiến người đọc cảm thấy
đây là một tác phẩm “khó đọc”, có cảm giác như cảm giác của người kể chuyện lần
đầu tiên tiếp xúc với bản thảo của Kiên: “Một sáng tác dựa trên những cảm hứng
11


chủ đạo của sự rối bời.” Có thể nói, tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh là một dạng
tiểu thuyết dòng tâm tưởng.
Đồng thời, Nỗi buồn chiến tranh là “tiểu thuyết trong tiểu thuyết”, hay có
thể nói là “tiểu thuyết về tiểu thuyết”. Thật ra, kiểu kết cấu truyện lồng trong
truyện không phải là quá xa lạ trong văn học hiện đại Việt Nam. Tác phẩm Tố Tâm
của Hoàng Ngọc Phách, xuất hiện từ những năm 20 của thế kỉ XX đã được kết cấu
theo kiểu truyện lồng trong truyện, có hai nhân vật kể chuyện, hai nhân vật xưng
“tôi”. Nhân vật chính trong tác phẩm kể cho tác giả nghe câu chuyện đời mình và
tác giả kể lại cho người đọc chúng ta nghe. Nhưng Nỗi buồn chiến tranh, dù có
dáng dấp của kiểu truyện lồng trong truyện nhưng theo một kiểu khác, phức tạp
hơn. Như đã nói, đó là kiểu “tiểu thuyết về tiểu thuyết”. Trước hết, đó là cuốn tiểu
thuyết đầu tay và duy nhất của Kiên, một người lính trở về từ tiểu đoàn 27 độc lập.
Tác phẩm của Kiên viết về tuổi trẻ, về những ngày trên chiến trường, về cuộc đời
sau ngày hòa bình được lập lại và cả về hành trình viết tiểu thuyết của Kiên nữa.
Nhưng tác phẩm của Kiên mãi mãi không được hoàn thành bởi chính anh khi nó
được sáng tạo trong những cơn dằn vặt tinh thần và xung đột nội tâm khủng khiếp

mà câm lặng của anh. Cuốn tiểu thuyết mà anh định hoàn thành, cho đến khi anh
rời bỏ căn phòng viết của mình, rời bỏ khu phú mình đã sống từ nhỏ, chỉ là một
đóng bản thảo bị xáo tung, không đánh số trang và có nhiều trang bị đốt. Nó may
mắn được giữ lại, không hoàn toàn hóa thành tro bụi nhờ người đàn bà căm ở cùng
khu phố và được người kể chuyện (xưng “tôi”, xuất hiện trong phần cuối tác phẩm,
cũng là một cựu chiến binh) tiếp nhận, sắp xếp lại, định dạng và hoàn chỉnh trong
dạng thức cuối cùng.
Chính kiểu kết cấu này khiến cho tác phẩm của Bảo Ninh trở thành một
thách thức đối với việc đọc của công chúng Việt Nam thời điểm nó ra đời và có thể
cả bây giờ. Đọc tác phẩm, ta không thấy những xung đột giữa người và người (ta –
giặc; thiện – ác; tốt – xấu…). Nó không được phân chia thành từng phần, từng
12


chương với những đường dây cốt truyện mạch lạc mà cứ trôi miên man theo những
hồi ức vừa đứt đoạn vừa liên tục của Kiên.
2.2.2 Mới trong chất liệu cấu thành tác phẩm
Có lẽ, chưa có tác phẩm nào viết về chiến tranh mà lại tràn ngập sự bạo hành
trong tác phẩm như Nỗi buồn chiến tranh. Sự bạo hành, tàn nhẫn không phải chỉ
thấy ở những người lính bên kia chiến tuyến như hầu hết các tác phẩm viết về
chiến tranh trước đó, mà cón có ở những người đồng chí của Kiên, và cả ở chính
Kiên nữa. Làm sao người đọc có thể quên được cảnh một người lính của ta, có lẽ là
lính cao xạ, đá tới tấp vào xác người phụ nữ trong sân bay, vừa đá vừa văng những
lời tục tĩu, rồi túm lấy một chân người chết xềnh xệch kéo lết đi, qua các bậc tam
cấp, ra ngoài quăng mạnh, liệng bổng cái xác lên… Cùng với sự bạo hành đó là
những cái chết. Điều đó ám ảnh Kiên và ám ảnh người đọc. Có cái chết buồn thảm
như cái chết của Can, người lính đào ngũ; có cái chết bi hùng như cái chết của cô
giao liên Hòa, như Từ, như Oanh…, những đồng đội của Kiên; có cái chết từ từ
đầy xót xa khó nhọc như cái chết của Sinh sau chiến tranh…Có trường đoạn miêu
tả cái chết xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm như trận thảm sát xóa sổ cả một đơn vị

trong mùa khô đầu tiên sau Hiệp định. Những cái chết cụ thể hóa sự tàn bạo, khốc
liệt mất nhân tính của chiến tranh, và cũng làm sáng lên tình người trong chiến
tranh. Có thể nói, sự bạo hành và những cái chết trong Nỗi buồn chiến tranh của
Bảo Ninh là những chất liệu “gây sốc” đối với người đọc, khiến tác phẩm không dễ
tiếp nhận. Nhưng cũng chính nhờ những chất liệu “gây sốc” đó mà ta có cái nhìn
chân thật, khách quan hơn về chiến tranh, hiểu được sâu sắc hơn bản chất của
chiến tranh.
Cũng ở Nỗi buồn chiến tranh, lần đầu tiên ta thấy những hình ảnh về đời
sống tình dục được đưa vào tác phẩm văn chương và trở thành một mặt không thể
không nói tới.
13


3. Hình ảnh người phụ nữ trong Nỗi buồn chiến tranh
3.1 Thế giới nhân vật trong Nỗi buồn chiến tranh
3.1.1 Nhân vật văn học
Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, mang tính ước lệ, không thể bị
đồng nhất bởi con người có thật ngay cả khi nhân vật ấy được xây dựng từ một
nguyên mẫu có thật có có những nét rất gần với nguyên mẫu. Nhân vật văn học là
sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người, về cuộc đời. Ý nghĩa
của nhân vật văn học chỉ có thể xác định được trong một tác phẩm cụ thể. Nhân vật
của một tác phẩm tự sự có thể được hành xử như một thực thể sống, có đời sống
tâm lí, có những mâu thuẫn nội tâm… Nhân vật có thể là một hình chiếu của
những dồn nén tâm lí hoặc sự phản chiếu thế giới tư tưởng, tình cảm của tác giả
hoặc là hình chiếu của đời sống xã hội. Thế giới nhân vật trong tác phẩm có chức
năng góp phần chuyển tải ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm nên phải được xem xét
như một hệ thống có quan hệ với những đơn vị nghệ thuật khác và có quan hệ nội
tại của bản thân hệ thống đó cũng như giá trị của các yếu tố cấu thành nên hệ thống
và giá trị của mối quan hệ giữa các yếu tố đó.
3.1.2 Thế giới nhân vật trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh

Dựa trên cách nhìn trên, có thể thấy trong tác phẩm tiểu thuyết đầu tay nổi
tiếng này của Bảo Ninh, thế giới nhân vật là một hệ thống gồm các tuyến nhân vật
có quan hệ gắn kết nhau. Xoay quanh Kiên, nhân vật trung tâm của tác phẩm, ta
thấy có ba tuyến nhân vật hiện diện trong suốt cuộc đời Kiên, trước và sau chiến
tranh, chi phối đời sống tình cảm, suy nghĩ của anh. Các tuyến nhân vật đó là:
những người đồng đội của Kiên, những người thân của anh (cha, mẹ và dượng),
những người phụ nữ đi qua cuộc đời Kiên.

14


Những người đồng đội của Kiên, chủ yếu xuất hiện trong dòng kí ức về thời
chiến tranh, một số nhân vật xuất hiện thoáng qua trong cuộc sống Kiên sau chiến
tranh (Vượng, Sinh…). Kí ức của Kiên về những người đồng đội hầu như gắn liền
với cái chết. Họ có khi là nạn nhân của cái chết, có khi là người gây ra cái chết. Và
từ cái chết của những người đồng đội này, Kiên nhận ra bản chất hai mặt của chiến
tranh. Tiếng nói, kỉ niệm, những hồi ức về những người động đội đồng vọng vào
dòng tâm tưởng của Kiên, chiếu rọi vào hiện thực tàn bạo của chiến tranh, làm hiển
hiện rõ nét nỗi đau đích thực của của con người trong chiến tranh: chiến tranh chà
đạp lên nhân tính, và đồng thời làm ngời sáng vẻ đẹp của tình người trong chiến
tranh.
Những người thân trong cuộc đời Kiên lại là một tuyến nhân vật gợi những ý
nghĩa biểu tượng khác. Những người thân đó là mẹ, là cha, là dượng. Kiên xuất
thân từ gia đình tri thức tiểu tư sản miền Bắc, cha là họa sĩ, mẹ là Đảng viên, bỏ
cha Kiên từ lúc Kiên còn nhỏ; dượng (chồng sau của mẹ) là một nhà thơ tiền chiến
về già. Những người có quan hệ ruột thịt hiện diện trong kí ức Kiên không thậ rõ
nét, xuất hiện gần như thoáng qua, ít được nhắc tới trong tác phẩm (trừ cha Kiên,
người mà Kiên không thật sự thấu hiểu cho đến cuối tác phẩm). Những kỉ niệm về
người mẹ rất mơ hồ, trừ vài lời mẹ dặn: “bây giờ con đã là đội viên, nay mai là
vào đoàn, … cứng rắn lên con ạ.” Kiên có lẽ chịu ảnh hưởng cái “cứng rắn” theo

kiểu này của mẹ: xung phong đi bộ đội ở tuổi mười bảy, khăng khăng chiến đấu,
bỏ lại người yêu, xả thân làm người hùng… Nhưng đồng thời, Kiên lại mang nỗi
buồn được truyền lại từ cha. Người cha dượng cũng chỉ thoáng qua trong tác phẩm.
Lần xuất hiện ấn tượng gần như là duy nhất của cha dượng Kiên trong tác phẩm là
khi Kiên đến tạm biệt ông để vào bộ đội và ông đã cho Kiên lời khuyên thể hiện
một quan niệm độc đáo về cuộc đời: “Nghĩa vụ của con người trước trời đất là
sống chứ không phải hi sinh nó, là nếm trải sự đời một cách ngọn ngành chứ
không phải chối bỏ. Không phải ta khuyên con trọng mạng sống hơn cả nhưng
15


mong con hãy cảnh giác với tất cả những sự thúc giục con lấy cái chết để chứng tỏ
một cái gì đấy.” Cha và dượng Kiên thuộc cùng một kiểu nhân vật, đó là những
con người lạc loài, những cái bóng hiu hắt của một thời đã qua giữa thời hiện tại và
không thể nào hòa nhập được với đời sống hiện tại. Những nhân vật này có ý nghĩa
như một sự đối chiếu hai thời kì: thời kì đã qua với sự lãng mạn và tự do cá nhân
và thời đang đến với cái anh hùng, bão táp và cách mạng của thế hệ Kiên. Bên
cạnh đó, họ còn có khả năng tiên cảm về thời đại sắp tới. Khả năng ấy thể hiện
trong lời dặn dò của người cha dượng trước ngày Kiên nhập ngũ, ở lời trối của
người cha ruột: “Còn con…từ nay còn một mình…phải gắng sống với thời của
mình. Thời đại mới rồi sẽ tới. Huy hoàng. Tráng lệ…không còn những bất hạnh
lớn lao nữa… Nhưng nỗi buồn thì không nguôi…”; ở hành động cuối của cha Kiên
trước khi chết: đốt tất cả các tranh vẽ của mình. Hành động đó cho thấy sự lạc loài
tột độ của một “tội đồ” bị chối bỏ trong thời đại mới và quyết tâm mang những đứa
con tinh thần của mình sang một thế giới khác – một cách để bảo vệ chúng. Hành
động ấy cũng có nghĩ là sự tiên cảm về mặt bên kia của thời chiến tranh đang tới:
thời anh hùng nhưng đầy đe dọa đối với cái đẹp.
Tuyến nhân vật những người phụ nữ trong cuộc đời Kiên mang những ý
nghĩa biểu tượng sâu sắc (sẽ được bàn kĩ ở phần sau).
3.2 Hình ảnh người phụ nữ trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh

3.2.1 Một thế giới đa dạng
Ngoài những người đồng đội của Kiên, có lẽ người phụ nữ là tuyến nhân vật
đông đảo nhất trong tác phẩm này của Bảo Ninh, cũng là đa dạng nhất, hiện diện
trong tâm tưởng Kiên, trong những kí ức miên man. Có người là bạn học từ thưở
ấu thơ của Kiên (Phương), có người là em của bạn chiến đấu (em gái Vĩnh), có
người là hàng xóm của Kiên (như Hạnh hay người đàn bà câm); Họ có thể là cô
giao liên (Hòa) hay cô y tá ở Điều trị 8 mà Kiên trong cơn mê sảng nhận nhầm là
16


Phương, có thể là cô thương binh (Hiền)…; Có người cùng tuổi, có người nhỏ tuổi,
có người lớn tuổi hơn Kiên…, Có người đã nằm lại với cuộc chiến, có người còn
sống trong thời bình nhưng biệt mù tin tức, có người gặp lại sau chiến tranh rồi xa
mãi, có người đã chết từ trước khi Kiên gặp nhưng dủ sức ám ảnh Kiên trong cả
cuộc đời hậu chiến (người phụ nữ ở sân bay ngày giải phóng – khi Kiên gặp, chỉ là
một tử thi), có người ở cạnh Kiên trong một quảng đời sau hòa bình nhưng rồi
Kiên lặng lẽ bỏ lại (người đàn bà câm)…; Có người với Kiên suốt cả cuộc đời
trước và sau chiến tranh, nhưng cũng có người chỉ xuất đời Kiên một khoảnh khắc
nào đó, một đêm nào đó…
Tất cả những nhân vật đó hợp lại thành một thế giới nhân vật đa dạng, đầy
sức ám ảnh trong tiểu thuyết của Bảo Ninh, và dù có khác nhau ở mặt này, mặt kia,
họ đều được Bảo Ninh gửi gắm những ý nghĩa biểu tượng sâu sắc đầy tính nhân
văn.
3.2.2. Người phụ nữ trong Nỗi buồn chiến tranh: Hiện thân của Tình Yêu, Cái
Đẹp và Sự cứu rỗi
Trong thế giới khủng khiếp của chiến tranh, nếu Kiên bị biến thành một cỗ
máy của sự giết chóc, “âm thầm và mệt mỏi” thì những người phụ nữ trong cuộc
đời Kiên, trước, trong và sau cuộc chiến lại đánh thức trong anh tình yêu, một tình
yêu mà cho đến cuối cuộc đời anh vẫn không thể trọn vẹn.
Tình yêu ấy có thể chỉ là phút bừng dậy của xúc cảm tuổi đầu đời giữa cậu

con trai vừa trưởng thành với người phụ nữ trong phút cận kề, để lại ngại ngần và
sau đó là nuối tiếc không nguôi vì sự ngại ngần đó mà đánh mất nhau; Tình yêu
cũng có thể là thứ tình cảm đắm say da diết trong giấc mơ của Kiên về Hòa, cô
giao liên đã hi sinh để cứu đoàn thương binh; Tình yêu đến với Kiên có thể chỉ là
trong một đêm vội vã với người thương binh tên Hiền, nhưng cũng có thể là một
tình cảm theo đuổi Kiên suốt cả cuộc đời, từ khi còn là cậu học trò trường Bưởi
17


đến khi vào chiến trường rồi khi hòa bình lập lại, một tình yêu mãi mãi với
Phương…
Trong tác phẩm của Bảo Ninh, tình yêu, hiển hiện qua những người phụ nữ,
đối lập với chiến tranh: một bên thiêng liêng tha thiết, bắt nguồn cho sự sống; một
bên bạo tàn, vô độ, hủy diệt sự sống. Tình yêu hiện thân qua hình ảnh những người
phụ nữ trong cuộc đời Kiên là sức mạnh níu kéo Kiên với cuộc sống, với cái thiện,
nhân tính và tình người. Kiên đi qua bao nhiêu cửa tử, chiến thắng cái chết và trở
về sau chiến tranh, Kiên vượt qua những giờ phút tuyệt vọng đớn đau của cuộc
sống thời hậu chiến, nhờ đâu, nếu không nhờ tình yêu dẫn đường chỉ lối cho anh,
nếu không nhờ tình yêu níu giữ anh với cuộc đời này?
Trong những tháng ngày chiến tranh bạo tàn, hình ảnh của Phương, tình yêu
của Phương chẳng phải luôn hiện diện trong những giấc mơ của anh, đánh thức
tâm hồn anh, để anh tiếp tục sống và trở về đó sao? Những dòng hồi ức của Kiên
về những ngày trong quân ngũ luôn có hình ảnh Phương, dù Phương không ở bên
cạnh anh lúc đó, Phương chỉ hiện diện trong những giấc mơ: “Trong những đêm
mưa ấy, từ miền không gian xa xanh sâu thẳm khuất chìm sau sương mù kí ức,
người con gái của thành phố quê hương lại hiện lên và bước tới với anh trong
bóng hình tiên nữ mờ ảo. Cả người gai lên, xương thịt chờn rợn, run rẩy, rung
động trong nỗi khát khao và thèm muốn được hướng tới tột cùng cảm giác tiếp xúc
êm ái, choáng ngợp, dáng kinh hãi với hình hài yêu dấu, mong manh, mềm mại
như cánh hồng ấy […] Giấc mơ lay thức tâm hồn Kiên. Thì ra, anh, Kiên cũng có

một thời trẻ trung, cái thời mà giờ đây khó lòng mường tượng lại được nữa, cái
thời mà toàn bộ con người anh, nhân tính và nhân dạng còn chưa bị bạo lực bạo
tàn của chiến tranh hủy hoại, cái thời anh cũng ngập lòng ham muốn, cũng biết
say sưa, si mê, cũng trải những cơn bồng bột, và cũng ngốc nghếch ngẩn ngơ,
cũng từng tan nát cõi lòng vì yêu thương đau khổ, vì ghen tuông, tủi hờn và cũng
đáng được ưu ái, như các bạn anh bây giờ.” Đọc những dòng này bất giác ta nhớ
18


đến Chí Phèo của Nam Cao. Không hoàn toàn đồng nhất, nhưng vẫn có nét giống
nhau giữa chi tiết này của Bảo Ninh với chi tiết Chí, sau khi ăn bát cháo hành của
Thị Nở - biểu hiện cụ thể của tình thương và tình yêu trong sáng - bừng tỉnh, nhớ
về thời quá khứ của mình, một thời Chí từng ao ước có một căn nhà nhỏ, chồng
cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, có dư thì mua dăm ba sào ruộng làm, và Chí thèm
được làm người lương thiện. Tình yêu thương chân thành của người phụ nữ có sức
mạnh cứu rỗi lớn lao, cứu nhân mạng và cứu cả nhân tính con người. Hình ảnh
Phương (hóa thân trong hình ảnh cô y tá ở Điều trị 8) giữa những cơn mê trong lần
Kiên bị thương nặng cũng là một nguồn sức mạnh vực Kiên qua khỏi bệnh tật đau
đớn. Trong khoảnh khắc Kiên chuẩn bị hành quyết những người lính thám báo bên
kia chiến tuyến, khi mà anh đã quyết định cho chúng chết tận mắt, chết tận tay,
chết nhìn thấy đáy huyệt, không phải những lời van xin của chúng, không phải vì
nỗi hoang mang của đồng đội mà Kiên tha chết cho chúng, mà vì khi ấy, hình ảnh
Phương, lời nói của Phương đêm trước ngày Kiên nhập ngũ đã giữ anh ở lại bên
này cái thiện, níu anh lại với nhân tính: “Anh sẽ giết nhiều người chứ? Anh sẽ
thành anh hùng chứ?...”
Người phụ nữ, hiện thân của tình yêu, không chỉ cứu rỗi anh trong chiến
tranh, giúp anh chiến thắng thần chết, mà còn cứu rỗi anh trong những tuyệt vọng
đau đớn của thời bình. Họ là hiện thân của chốn bình yên, là nơi trú ẩn an toàn cho
tâm hồn anh giữa “nền hòa bình thản nhiên” mà buồn thảm thời hậu chiến; cũng là
nơi đánh thức trong anh một thiên mệnh đầy thôi thúc, thôi thúc một cách tha thiết

và u buồn. Ý nghĩa này được gửi gắm trong hình ảnh Lan, người thiếu phụ ở Đồi
Mơ với một tình yêu vô danh và tình cờ dành cho Kiên. Lời Lan nói lúc tiễn Kiên
khi hai người chia tay lần thứ hai (chia tay trong thời bình) trên Đồi Mơ khiến ta
cảm động trước cái đẹp của tình người bình dị mà thiêng liêng ở người phụ nữ chịu
nhiều mất mát vì chiến tranh này: “Đừng bận về em. Đời anh rộng mở, hãy đi và
hãy sống cho thỏa. […] Còn nói ví dụ, tức là em cũng cứ nói phòng thế, bỗng dưng
19


một ngày nào anh gặp cảnh không may, thấy đã hết ngã để đi tiếp thì xin anh hãy
nhớ ngay rằng, dù sao cũng có một nơi, cũng còn một người… Đồi Mơ đây là nơi
anh lên đường chiến đấu lập nghiệp, mai sau nếu anh muốn cũng sẽ là một nơi,
một chốn anh về…” Người phụ nữ, những thân phận thiệt thòi trong tình yêu, trong
chiến tranh lại là những con người độ lượng nhất, giàu yêu thương nhất và hi sinh
nhiều nhất.
Đâu chỉ là biểu tượng của nhân tính, của tình người trong chiến tranh và sau
chiến tranh, người phụ nữ trong hệ thống nhân vật của Nỗi buồn chiến tranh còn là
ngọn nguồn nuôi dưỡng cảm hứng sáng tạo văn chương. Ý nghĩa biểu tượng này
thể hiện qua hình ảnh Phương và người đàn bà câm trong truyện.
Người đàn bà câm không rõ tên, là một phần trong tiểu thuyết của Kiên, lắng
nghe những kỉ niệm rời rạc của anh, “thu âm các ý nghĩ, các trường đoạn của anh”,
chia sẻ cùng anh những đêm miệt mài bên bàn viết và cứu cho bản thảo tiểu thuyết
đầu tay, cũng là duy nhất của anh thoát khỏi số phận như số phận những tác phẩm
của cho Kiên, lẳng lặng giữ lại đống bản thảo bị xới tung, rối bời của anh.
Và xuất hiện xuyên suốt tác phẩm, là nhân vật phụ nhưng có chỗ đứng quan
trọng trong quyển tiểu thuyết, Phương tập trung những ý nghĩa biểu tượng sâu sắc
của hình ảnh người phụ nữ trong sáng tác này của Bảo Ninh.
Phương trong Nỗi buồn chiến tranh là một hiện tượng kì lạ: chinh phục con
người bằng tình yêu và sống bằng tình yêu. Tình yêu của Phương mãnh liệt, táo
bạo, tha thiết mà vẫn trong trắng, thánh thiện. Phương được sinh ra dường như là

để yêu. Phương là biểu tượng của tình yêu và của tự do. Từ tuổi mười ba của
những ngày thơ ấu, Phương đã thể hiện sự khác người của mình. Phương hầu như
tự giải phóng mình thoát khỏi mọi thành kiến, lo âu, mọi ràng buộc, mọi quy luật
của xã hội loài người. Phương luôn luôn “kệ”, “mặc kệ” để tìm kiếm hạnh phúc
trong tự do tuyệt đối. Trong tình yêu, Phương luôn là người chủ động. Ngày cuối
cùng Kiên ở Hà Nội trước khi lên đường chiến đấu, Phương lại “kệ”, “mặc kệ”
20


những lời kêu gọi “ba khoan: khoan yêu, khoan..”, kệ những anh hùng rơm hò hét,
ngay giữa sân trường Bưởi, Phương rủ Kiên cùng trốn, cùng bơi…, Phương bất
chấp việc Kiên muốn cống hiến đời mình cho sự nghiệp chiến đấu, Phương quyết
định “phung phí đời mình, hủy diệt đời mình cho cuộc loạn li này”. Ia yêu mãnh
liệt hơn Phương? Ai xứng đáng là hiện thân của tình yêu hơn Phương? Buổi tối
ngày tiểu đoàn của Kiên dừng lại ở Hà Nội để chuẩn bị tiếp tục đi B, định mệnh
sắp xếp cho Kiên gặp Phương, và Phương vẫn vậy, vẫn là “kệ”, “mặc kệ”: kệ thời
gian con ít ỏi cho cuộc gặp gỡ, kệ việc lỡ mất một chuyến tàu, lỡ mất một người
bạn tận tâm, kệ những tín hiệu báo động đạn bom chực chờ đổ xuống, Phương
cùng Kiên đuổi theo tàu, tiễn Kiên đến tận cửa chiến tranh. Trong những giớ phút
khắt khe nhất của định mệnh, Phương vẫn sẵn sàng liều lĩnh đem sinh mệnh của
mình đổi lấy vài phút giây điên cuồng hạnh phúc bên người yêu. Và chính tình yêu
của Phương, như đã nói ở trên, đã bao lần dẫn lối cho Kiên vượt qua cửa tử, kéo
Kiên ở lại với cái thiện, đánh thức trong Kiên thời tuổi trẻ, là nguồn sức mạnh chập
chờn cho Kiên suốt quãng đời chiến trận.
Phương, hơn nữa, là ngọn nguồn của sự sáng tạo nghệ thuật của Kiên. Khi
Phương và Kiên, vì vết thương chiến tranh, đã vĩnh viễn chia xa, khi hai người đã
bị đẩy về hai rìa thế giới thì Phương vẫn là toàn bộ đời sống tinh thần Kiên và còn
hơn thế nữa. Phương không chỉ hiện diện trong những giấc mơ khi Kiên còn chiến
đấu, Phương hiện diện cả trong những giấc mơ Kiên thời hòa bình., ngay cả khi
trong vòng tay anh là một cô gái khác, Kiên vẫn khắc khoải nhớ Phương. Hình

bóng Phương vẫn nhập vào anh hằng đêm giữa những giấc mơ, để rồi Kiên nhận ra
“tất cả những nhân vật nữ mà anh say mê trong sáng tác của mình rút cuộc vẫn chỉ
là những giấc mơ về Phương.” Trong dòng tâm tưởng của mình, Kiên thú nhận:
“Những hồi ức tê mê choáng ngợp nhục cảm ấy làm xiêu đảo hồn phách những
giấc mơ của anh. Và mặc dù chỉ là trong mơ thôi, nhưng chính ái lực của lòng
đắm say không đổi đối với nàng đã duy trì cho anh ngọn lửa của tình yêu cuộc
21


sống. Kí ức về tình yêu và kí ức về chiến tranh kết thành sinh lực và kết thành thi
hứng, giúp anh thoát khỏi cái tầm thường bi đát của số phận anh sau chiến tranh”.
Rõ ràng là, Phương, hiện thân của tình yêu bất diệt là sự cứu rỗi cho Kiên, trong
chiến tranh, trong cuộc đời thường và trong hành trình sáng tác văn chương.
Là ngọn nguồn của cảm hứng sáng tạo văn chương, Phương cũng là biểu
hiện của Cái Đẹp, cả theo nghĩa cụ thể lẫn nghĩa phổ quát của từ này. Hay chính vì
là biểu tượng của cái đẹp mà Phương trở thành ngọn nguồn cảm hứng sáng tạo
nghệ thuật? Ở tuổi mười bảy, Phương đã vụt lên thành một sắc đẹp “bỏng cháy sân
trường Bưởi”, cái đẹp “lồ lộ, hừng hực, đẹp một cách liều lĩnh, nổi trội, đã chẳng
lẫn đi đâu được lại chẳng có ý thức nép mình”. Phương đẹp, hiểu theo nghĩa đầu
tiên của từ này. Nhưng trên hết, Phương là biểu tượng của Cái Đẹp hiểu theo nghĩa
phổ quát nhất. Cả mẹ Phương lẫn cha Kiên đều nhận thấy điều đó và đều tiên cảm
được số mệnh của Cái Đẹp hiện hình qua Phương. Với mẹ Phương, Phương là
“một dạng thánh nhân, một tiên nữ, nhưng sự hoàn mỹ này là mong manh vô cùng,
vì là sự hoàn mỹ bẩm sinh chứ không phải do trường đời…”. Còn với cha Kiên,
Phương “rất đẹp”, “sắc đẹp không bình thường, vẻ đẹp lạc thời và lạc loài… sẽ
khổ đấy!” Điều này là phần hồn Phương gần gũi với cha Kiên, cả hai mang cái
Đẹp, sáng tạo ra cái đẹp và tôn thờ cái Đẹp lạc thời, lạc loài. Thế nên chỉ duy nhất
Phương được chứng kiến cảnh cha Kiên đốt tất cả tranh của ông, và cũng chỉ riêng
Phương nhìn thấy những linh cảm mà cha Kiên thấy trong những ngày cuối cùng,
qua cái nghi thức kì quái đó “…chỉ chốc lát cô đã bị cuốn hút vào không khí trang

nghiêm ma quái dập dờn tỉnh mê của buổi lẽ tế thần. Kì ảo, huyền bí nhưng đích
thực là một ác mộng, một niềm đam mê tà giáo. Choáng ngợp tâm hồn Phương là
vẻ bừng sáng tuyệt vọng của cái đẹp đang bừng cháy lên…” “Về sau này, nhìn vào
cuộc đời mình, cuộc đời Kiên, nhìn lại tình yêu của hai đứa, Phương thấy được
tính chất tiên tri của cảnh tượng đêm ấy, một sự linh ứng, một điềm báo trước…”
Chính vì vậy, nếu cha Kiên cùng thời với Phương, nếu cha Kiên là Kiên thì
22


Phương đã yêu cha Kiên (lời của Phương). Mối tình của cha Kiên và Phương vượt
ra ngoài trường nghĩa của tình cảm thông thường của con người. Đó là sự chiêm
ngưỡng, tôn thờ cái Đẹp theo nghĩa phổ quát của từ này, của những người nghệ sĩ
đồng điệu dù không đồng thời.
Phương trong tác phẩm là biểu tượng hữu hình cao nhất của cái Đẹp và sự
cứu rỗi, cùng với những nhân vật nữ khác đã vượt lên trên những tàn sát, chết
chóc, đã tiếp máu, tiếp thở cho Kiên, lôi Kiên ra khỏi bàn tay thần Chết, trói buộc
Kiên với cuộc đời và trói buộc Kiên mãi mãi với tình yêu, tình yêu dù không trọn
vẹn nhưng bất diệt: “Ngay từ hồi đó mình đã biết rõ – Kiên nghĩ, cố hình dung ra
trước mắt gương mặt nàng đang cúi xuống, thần tiên, mê mải trước cây đàn xưaBiết rất rõ từ khi còn thơ dại rằng mình sinh ra trên đời này, lớn lên, trưởng thành,
dấn thân vào cuộc chiến tranh và hoặc sẽ chết, hoặc sống sót trở về, tất cả chỉ bởi
nguồn cơn ấy thôi, để yêu, yêu nàng mãi mãi da diết, buồn thương như thế.”
Xây dựng hình tượng người phụ nữ là biểu tượng của cái Đẹp, của Nhân
Tính, của Tình Người, đối lập với sự bạo tàn của chiến tranh để từ đó khẳng định
sự bất tử của cái đẹp, của Tình người, ý nghĩa nhân văn sâu sắc này của Nỗi buồn
chiến tranh toát lên từ đây, đâu phải tác phẩm nào cũng có thể có được.
3.2.3. Người phụ nữ: Nạn nhân của chiến tranh, của sự hủy diệt
Chiến tranh, như đã nói trong chương đầu, giết chết những con người ưu tú
nhất, những người hơn ai hết đáng được sống trên cõi dương này, những người
đồng đội của Kiên. Và không chỉ vậy, chiến tranh còn hủy hoại người phụ nữ, cướp
đi hạnh phúc, cướp đi cuộc đời họ, chiến tranh có khả năng hủy diệt cái Đẹp –

người phụ nữ.
Chiến tranh lấy đi của Lan, người thiếu phụ Đồi Mơ cái hạnh phúc gia đình
bình thường, liên tục cướp đi những người thân của cô: hai người anh chết trên
chiến trường, người mẹ không chịu nổi nỗi đau từ hai tin báo tử liên tiếp cũng từ
23


giã cõi đời không lời trăng trối, cướp đi chồng cô, đứa con nhỏ của cô…Chiến
tranh biến cuộc đời cô thành ra nông nỗi, “mỗi năm mỗi xiêu đi”, mà vẫn hi vọng,
chờ đợi một điều gì mơ hồ, ao ước được một lần trở về hồi trước khi tất cả những
người thân yêu còn sống và ao ước một tình yêu muộn màng thoáng qua với Kiên:
“Đừng bận về em. Đời anh rộng mở, hãy đi và hãy sống cho thỏa…còn em, em sẽ
nuôi con nuôi, sẽ sống bình yên. Giá kể có được với anh…nhưng không, thì cũng
gì mà buồn…” Lời nói ngỡ nhẹ như không mà thấm đẫm xót xa.
Chiến tranh, dù không trực tiếp, đã đẩy em gái Vĩnh, bạn chiến đấu của Kiên
vào cuộc đời sương gió, biến một cô bé trong sáng ngây thơ thành người phụ nữ
trót đời, thành “một trong những hồ li nổi tiếng nhất của suốt rẻo ven bờ Thuyền
Quang và Bảy Mẫu” ở tuổi mười chín. Vô tình gặp lại cô ở hồ Thuyền Quang, cứu
cô khỏi tên đàn ông trong cuộc giằng co, để rồi cả Kiên và cô phải ở trong tình
cảnh trớ trêu khi nhận ra nhau, để hai người chỉ biết im lặng, im lặng chịu đựng nỗi
oái ăm bất hạnh, vì “nói gì cũng chạm đau, cũng khía vào lòng cái nhục nhã, ê chề
và báng bổ.” Người phụ nữ, họ bị chiến tranh tước đi quyền được sống bình
thường, trong sạch, bị chiến tranh làm nhục, theo cách này hay cách khác, nghĩa
này hay nghĩa khác.
Phương và tình yêu của cô cũng là những thân phận đáng thương của chiến
tranh, là nạn nhân của chiến tranh. Dù Phương không phải dấn thân vào chiến
trường lửa đạn, dù Phương chẳng bị một vết thương thể xác nào, nhưng mãi mãi,
vết thương trong tâm hồn cô, vết thương trong tình yêu của cô và Kiên mà chiến
tranh gây ra sẽ còn mãi, sâu hoắm và nhức nhối, mãi mãi nhức nhối trong thời
bình. Ngày Phương tiễn Kiên đi đến tận cửa chiến tranh cũng là ngày Phương bị

làm nhục, bị làm nhục ngay những giờ khắc đầu tiên của cuộc chiến, và không chỉ
một lần mà là hai lần, bị làm nhục một cách cố ý hay vô tình, trực tiếp hay gián
tiếp. Lần thứ nhất là trên toa tàu, trực tiếp, bị cố ý làm nhục, ngay trước những trận
mưa bom đạn sắp trút xuống. Lần thứ hai, ngay sau đó, ở một trường cấp hai ở
24


Thanh Hóa, khi Kiên tìm cách đưa Phương về lại Hà Nội, Phương bị làm nhục
một cách gián tiếp, trong tâm tưởng của Kiên, hình ảnh của Phương trở nên tồi tệ,
xa lạ với anh. Những người lính tình cờ trú ở nơi đó, ở cái tuổi “còn sữa, đã biết
đường ăn nói xử sự cho phải nhẽ đâu” vô tình nói những lời đùa cợt không đúng
đắn về Phương với Kiên. Và ngay sau đó, số phận run ruổi để Kiên nhìn thấy
Phương bình thản khỏa thân tắm táp giữa những trận mưa bom, khiến Kiên nghĩ
khác về Phương, thấy “Phương của anh trong phút chốc biến thành một người đàn
bà khác hẳn, biết bao xa lạ với anh, một người đàn bà từng trải, đã gạt bỏ mọi ảo
tưởng và đã tan biến niềm hi vọng, lạnh nhạt vô hình, dửng dưng với tất thảy, với
bản thân nàng, với anh, với quá khứ, với cảnh ngộ tang thương của mọi người,
của đất nước”. Kiên thất vọng, đau đớn, và “không đời nào tha thứ cho Phương”.
Nỗi nhục mà chiến tranh gây ra cho Phương, bằng cách này hay cách khác, đã chà
đạp lên hình ảnh đẹp đẽ của Phương trong Kiên, chà đạp lên quyền sống bình
thường, sống với tình yêu thật sự của đời mình của cả hai người và Phương là nạn
nhân đau đớn hơn cả. Để mãi nhiều năm sau này, lá thư của Kì, người lính mà Kiên
gặp ở ngôi trường cấp hai khi ấy, mới trả lại cho Phương sự trong trắng, trinh
nguyên trong Kiên: “Phương của anh vĩnh viễn trẻ trung, vĩnh viễn ở ngoài thời
gian, vĩnh viễn bên ngoài mọi thời buổi. Vĩnh viễn nàng tuyệt đẹp, đẹp không
chung một nét với bất kì kiểu người đẹp nào… ”. Còn khi đó, ngay sau đêm bị làm
nhục trên toa tàu, ngay trước những giờ phút đầu tiên của chiến tranh, Phương cay
đắng và xót xa nhận thức rất rõ, cả nàng, cả tình yêu của nàng đã bị hủy diệt, cả
nàng, cả Kiên đã khác: “…Và em là vợ anh chứ sao, nhưng đó là số phận trước
đây, còn bây giờ đã là một số phận khác, chúng mình đã chọn nó. Chọn mà không

hiểu. Và gọi là chọn chứ kì thực là không thể tránh được. Quên hôm qua đi. Cũng
đừng lo lắng ngày mai. Biết thế nào được mà lo. Càng không nên dằn vặt đau khổ.
Để làm gì… […] Đằng nào thì anh cũng thành ra thế mà em thì thành ra thế mất
rồi…”. Những khái quát của Phương, chua chát, xót xa mà đúng biết chừng nào.
25


×