Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

LẠM PHÁT VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.84 KB, 13 trang )

Chương VIII
LẠM PHÁT VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

I. LẠM PHÁT
1. Khái niệm
Tiền giấy là dấu hiệu của vàng, thay thế cho vàng làm chức năng thanh toán
và làm phương tiện trao đổi. Tiền giấy bản thân nó không có giá trị mà chỉ có giá trị
danh nghĩa, cho nên nó không thể tự điều hoà giữa chức năng lưu thông và tích trữ,
do đó tiền giấy bị mất giá là trở thanh một hiện tượng phổ biến và thường xuyên
trong xã hội ngày nay.
Lạm phát là hiện tượng tiền giấy tràn gập trong lưu thông vượ
t quá nhu cầu
cần thiết của lưu thông hàng hoá làm cho tiền giấy bị mất giá và giá cả hàng hoá
được biểu hiện bằng đồng tiền mất giá không ngừng tăng lên.
Khi nói đến lạm phát thì cũng nên nói đến giảm phát. Giảm phát là một hiện
tượng trái ngược lại hiện tượng lạm phát. Trong tình trạng đó dẫn đến một loạt các
doanh nghiệp bị phá sản, thất nghiệp gia tăng, sức sản xuất giảm, nền kinh tế bị
khủng hoảng. Trong khi đó, Keynes lại cho rằng, hiện tượng giảm phát có thể xảy
ra nếu nhà nước tăng lượng tiền vào lưu thông nhưng không làm cho giá cả hàng
hoá tăng lên.
Trong thực tế, hiện tượng giảm phát ít xảy ra một cách tự nhiên mà thường là
một việc làm chủ quan của NN nhằm hạn chế ngay nhu cầu để giảm những mất cân
đối trong nền kinh tế.
2. Một số luận thuyết về lạm phát
2.1. Lạm phát lưu thông tiền tệ
Tiêu biểu cho quan điểm này là J.Bodin và M. Friedman cho rằng: lạm phát
là đưa nhiều tiền thừa vào lưu thông làm cho giá cả tăng lên. Friedman nói: “Lạm
phát xuất hiện và chỉ có thể xuất hiện khi nào số lượng tiền trong lưu thông tăng lên
với nhịp độ nhanh hơn so với sản xuất”.

156


2.2. Lạm phát cầu dư thừa tổng quát
Lý thuyết này do J.M.Keynes đề xướng. Ông cho rằng nguyên nhân cơ bản
của lạm phát là do sự biến động cung cầu. Khi mức cung vượt quá mức cầu thì dẫn
đến tình trạng đình đốn sản xuất. Nhà nước cần tăng lượng tiền vào lưu thông, tăng
chi tiêu nhà nước, tăng tín dụng nghĩa là tăng cầu để đạt được mức cân bằng giữa
cung và cầu và v
ượt cung. Khi đó lạm phát xuất hiện. Ở đây, lạm phát có tác dụng
thúc đẩy sản xuất phát triển, chống suy thoái.
2.3. Lạm phát chi phí
Luận thuyết này cho rằng: lạm phát nảy sinh do mức tăng chi phí sản xuất
kinh doanh nhanh hơn mức tăng năng suất lao động. Mức tăng này chủ yếu là tăng
về tiền lương, giá các nguyên, nhiên, vật liệu,….
2.4. Lạm phát cơ cấu
Lạm phát nảy sinh là do sự mất cân
đối sâu sắc trong chính cơ cấu của nền
kinh tế (mất cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa công nghiệp và nông nghiệp,
giữa sản xuất và dịch vụ,…), chính sự mất cân đối này làm cho nền kinh tế phát
triển không có hiệu quả.
3. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát
Từ những luận thuyết trên ta có thể thấy nguyên nhân và bản chất của lạm
phát được hiểu theo nhiều cách khác nhau, nhưng chung qui lại lạm phát xuất hiện
do những nguyên nhân sau:
- Sự mất cân đối của nền kinh tế quốc dân, sản xuất thấp kém, thâm hụt
ngân sách quốc gia. Đây được coi là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Nói
cách khác, sự khủng hoảng của nền kinh tế và tài chính của một quốc gia là
nguyên nhân cơ bản và sâu xa
đưa đến lạm phát.
- Lượng tiền cung cấp vào lưu thông quá mức cần thiết cũng là nguyên
nhân trực tiếp của lạm phát.
- Một nguyên nhân không kém phần quan trọng là hệ thống chính trị bị

khủng hoảng do những tác động bên trong hoặc bên ngoài, làm cho lòng tin của
dân chúng vào chế độ tiền tệ NN bị ảnh hưởng, từ đó làm uy tín và sức mua của
đồng tiền bị giảm sút.

157
- Nguyên nhân chủ quan khác đó là do NN chủ động sử dụng lạm phát
như là một công cụ để thực thi chính sách kinh tế của mình.
Từ những phân tích trên có thể nói rằng lạm phát vừa là một phạm trù kinh tế
khách quan, vừa là một công cụ kinh tế được NN sử dụng để phát triển kinh tế. Vì
việc phân phối sản phẩm và thu nhập đều được thực hiện thông qua tiền tệ nên lạm
phát là biện pháp để
phân phối lại sản phẩm và thu nhập trong nền kinh tế. Như vậy
lạm phát mang bản chất kinh tế – xã hội sâu sắc chứ không phải là một hiện tượng
tự nhiên của nền kinh tế.
4. Phân loại lạm phát
Do biểu hiện đặc trưng của lạm phát là giá cả hàng hoá tăng liên tục nên
người ta thương căn cứ vào chỉ số giá cả hàng hoá tăng để làm căn cứ phân thành 3
loại lạm phát:
- Lạm phát vừa phải (lạm phát một con số): biểu hiện chỉ số giá cả
tăng chậm trong khoảng 10% trở lại. Do đó, đồng tiền mất giá không nhiều,
không ảnh hưởng đến s
ản xuất kinh doanh. Ở hầu hết các nước trên thế giới áp
dụng và xem đó là chất xúc tác cho nền kinh tế phát triển.
- Lạm phát phi mã: giá cả hàng hoá bắt đầu tăng vởi tỷ lệ 2 hoặc 3 con
số. Khi lạm phát này xuất hiện thì bắt đầu gây ảnh hưởng đến đời sống kinh tế – xã
hội.
- Siêu lạm phát: xảy ra khi tốc độ tăng giá vượt xa lạm phát phi mã.
Nếu trong điều kiện của lạm phát phi mã vẫn có một số trường hợp nền kinh
tế vẫn phát triển tốt như Brazil, thì một khi siêu lạm phát xảy ra thì chắt chắc nó sẽ
gây ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của quốc gia


5. Tác động của lạm phát
Trừ lạm phát một chữ số thì hầu hết các loại lạm phát khác đều gây ảnh
hưởng không tốt đến quá trình phát triển của nền kinh tế xã hội. Cụ thể:
Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh: do lạm phát, giá cả hàng hoá,
nguyên liệu tăng làm cho việc sản xuất kinh doanh và kết quả cuối cùng ngày càng
giảm sút và không chính xác, dẫn đến sự phát triển không đồng đều, mất cân đối
giữa các ngành (ngành có chu k
ỳ sản xuất kinh doanh dài ngày càng bị thua lỗ nặng

158
nề, trong khi ngành có chu kỳ sản xuất kinh doanh ngắn thì có thể trụ được nhưng
vẫn gặp không ít khó khăn.
Lĩnh vực lưu thông buôn bán: giá cả hàng hoá tăng dẫn đến tình trạng tích
đầu cơ tích trữ hàng hoá, gây hỗn loạn quan hệ cung cầu, tạo sự mất cân đối giả tạo
làm cho lĩnh vực lưu thông cũng bị rối loạn. Tuy nhiên, với mức lạm phát cao cũng
là một điều ki
ện để thực hiện khuyến khích xuất khẩu.
Lĩnh vực tiền tệ tín dụng: Lạm phát làm cho sức mua của đồng tiền giảm, tốc
độ lưu thông của thị trường tăng lên càng làm cho sức mua của đồng tiền giảm
xuống nhanh chóng. Hoạt động của hệ thống ngân hàng rơi vào tình trạng khủng
hoảng do lượng tiền gởi vào ngân hàng giảm mạnh làm cho nhiều ngân hàng bị phá
sả
n do mất khả năng thanh toán, thu lỗ trong kinh doanh. Tình hình đó làm cho hệ
thống tiền tệ bị rối loạn và không kiểm soát nổi.
Lĩnh vực tài chính NN: tuy lúc đầu lạm phát mang lại thu nhập chi ngân sách
NN qua cơ chế phân phối lại thu nhập và kể cả qua cơ chế phát hành. Nhưng ảnh
hưởng nặng nề và lâu dài của lạm phát lại làm giảm nguồn thu của ngân sách, chủ
yếu là thuế do sản xuất bị sút kém, nhiều doanh nghi
ệp, công ty bị phá sản, giải

thể,…. Trật tự an toàn xã hội bị phá hoại nặng nề.
Tóm lại, hậu quả của lạm phát rất nặng nề và nghiêm trọng. Lạm phát gây
hậu quả đến toàn bộ đời sống kinh tế – xã hội của một nước. Lạm phát làm cho quá
trình phân hoá giàu nghèo nghiêm trọng hơn. Lạm phát làm cho nhóm này kiếm
được lợi lộc nhưng lại làm cho nhóm khác thiệt hại nặng nề, nhất là đối với người
lao động.
6. Đo lường lạm phát
Để đánh giá mức độ lạm phát người ta căn cứ vào tỷ lệ lạm phát được xác
định theo công thức:


Mức giá năm t - Mức giá năm (t -1)
=
Tỷ lệ lạm phát năm t
Mức giá năm (t -1)

Mức giá được đo bằng giá cả trung bình của các loại hàng hoá và dịch vụ.
Trên thực tế, người ta đo mức giá bằng tỷ số giá
Chỉ số giá:

159
Chỉ số giá là 1 chỉ tiêu phản ảnh sự thay đổi giá cả hàng hoá, dịch vụ của 1
năm nào đó so với năm gốc. Tuỳ theo nhu cầu phân tích, chí số dùng để tính tỉ lệ
lạm phát là chỉ số giá toàn bộ hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế hoặc là tính theo
giá của một nhóm hàng hoá tiêu biểu.
Chỉ số giá tiêu dùng: (CPI: Consumer price index):
Được tính theo giá bán lẻ của 1 giỏ hàng hoá và dịch vụ trên thị trường, các
giỏ hàng hoá chính là lượng thực, thự
c phẩm, quần áo, nhà cửa, chất đốt, thuoosc
men. Giỏ hàng hoá được chọn với cơ cấu và số lượng cố định.




CPIt = x 100
Σ P
i
t
q
i
0
Σ P
i
0
q
i
0


Trong đó:
Pit , Pi
0
: giá cả của sản phẩm i ở năm t và năm 0
qi
0
: số lượng của sản phẩm i dùng để tính ở năm 0.
Năm 0 được chọn là năm gốc.
CPIt

: chỉ số giá tiêu dùng của năm t.
Chỉ số giá sản xuất: (PPI: procuder price index)

Được tính theo giá bán buôn của các nhóm hàng hoá như lượng thực, thực
phẩm, thực phẩm của ngành chế tạo, khia khoáng. Chỉ số này được các doanh
nghiệp sử dụng, cách tính hoàn toàn giống như tính CPI, các số đo về tỷ trọng nhằm
phản ảnh tầm quan trọng của từng loại sản phẩm, sản phẩm càng chiểm tỷ trọng l
ớn
thì sự thay đổi giá cả của nó càng ảnh hưởng mạnh đến mức giá chung.
7. Đường cong Philips
Lạm phát







160

×