Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (828.55 KB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ
_________________________

NGUYỄN THI ̣ HUYỀN

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ
_________________________

NGUYỄN THI ̣ HUYỀN

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số

: 60 31 01



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGÔ VĂN LƢƠNG

HÀ NỘI - 2011

2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của TS. Ngô Văn Lương. Các
số liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, bảo đảm tính
khách quan. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ
rõ ràng.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2011.

Tác giả

Nguyễn Thi ̣ Huyền

3



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chƣơng 1. LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG ................................................................... 6
1.1. Xuất khẩu lao động: bản chất, đặc điểm và các hình thức ............................ 6
1.1.1. Bản chất, đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động .............................. 6
1.1.2. Các hình thức xuất khẩu lao động ........................................................... 17
1.2. Quản lý nhà nước về hoạt động xuất khẩu lao động ................................... 20
1.2.1. Sự cần thiết của quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động ....................... 20
1.2.2. Quản lý nhà nước về hoạt động xuất khẩu lao động ................................ 26
1.3. Thực tiễn quản lý nhà nước hoạt động xuất khẩu lao động ở một số
nước ....................................................................................................... 35
1.3.1. Thực tiễn quản lý nhà nước hoạt động xuất khẩu lao động của Nhà
nước Hàn Quốc ...................................................................................... 35
1.3.2. Thực tiễn quản lý nhà nước hoạt động xuất khẩu lao động của nhà
nước Philipines ....................................................................................... 38
1.3.3. Thực tiễn quản lý nhà nước hoạt động xuất khẩu lao động của nhà
nước Thái Lan ........................................................................................ 41
1.3.4. Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn quản lý nhà nước hoạt động xuất
khẩu lao động của Chính phủ các nước, hàm ý đối với Việt Nam........... 45
Chƣơng 2. QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO
ĐỘNG Ở VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ
ĐẶT RA ................................................................................................ 47
2.1. Thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động và quản lý nhà nước lĩnh vực
này ở Việt Nam từ 1986 - 2009 .............................................................. 47
2.1.1. Thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam từ 1986-2009 ...... 47
2.1.2. Thực trạng quản lý nhà nước hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt
Nam từ 1986 - 2009 ............................................................................... 54
2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với quản lý nhà nước hoạt động xuất khẩu lao
động ở Việt Nam .................................................................................... 64


4


2.2.1. Định hướng xuất khẩu lao động .............................................................. 64
2.2.2. Tạo lập môi trường cho xuất khẩu lao động ............................................ 68
2.2.3. Tổ chức điều hành xuất khẩu lao động.................................................... 74
2.2.4. Kiểm soát hoạt động xuất khẩu lao động ................................................ 76
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO
ĐỘNG Ở VIỆT NAM TỪ NAY ĐẾN 2015......................................... 78
3.1. Dự báo xu hướng, quan điểm, mục tiêu và phương hướng cơ bản nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động ở Việt
Nam giai đoạn 2010 - 2015 .................................................................... 78
3.1.1. Dự báo xu hướng di chuyển lao động quốc tế và Việt Nam .................... 78
3.1.2. Quan điểm, mục tiêu và phương hướng cơ bản nhằm nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động ở Việt Nam giai đoạn
2010 - 2015 ............................................................................................ 93
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước hoạt
động xuất khẩu lao động ở Việt Nam ..................................................... 96
3.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao vai trò trách nhiệm của các chủ thể tham gia
xuất khẩu lao động ................................................................................. 96
3.2.2. Nhóm các giải pháp về cơ chế, chính sách .............................................. 98
3.2.3. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện.................................................... 103
3.2.4. Nhóm giải pháp chỉ đạo điều hành xuất khẩu lao động ......................... 113
KẾT LUẬN...................................................................................................... 115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 117

5



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
QLNN:

Quản lý nhà nước

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

XKLĐ:

Xuất khẩu lao động

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện chủ trương “Đẩy mạnh xuất khẩu lao động; xây dựng và
thực hiện đồng bộ, chặt chẽ cơ chế, chính sách về đào tạo nguồn lao động,
đưa lao động ra nước ngoài, bảo vệ quyền lợi và tăng uy tín của người lao
động Việt Nam ở nước ngoài” trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2001 - 2010 của Đảng, những năm qua, xuất khẩu lao động được xem là một
hoạt động kinh tế - xã hội quan trọng nhằm góp phần phát triển nguồn nhân
lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao tay nghề cho người lao động,
tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế
giữa nước ta với các nước. Đi đôi với việc xây dựng, củng cố và mở rộng thị
trường xuất khẩu lao động, việc tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt

động này có ý nghĩa hết sức quan trọng. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi từ cơ
chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế,
việc thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực xuất khẩu lao
động đã bộc lộ nhiều lúng túng, hạn chế và yếu kém mà biểu hiện rõ nhất là các
cơ quan quản lý Nhà nước từ Trung ương tới địa phương chưa có sự phối hợp
đồng bộ trong việc đầu tư mở rộng thị trường, đào tạo lao động xuất khẩu, cụ
thể hoá chủ trương, chính sách và chỉ đạo để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao
động; thiếu sự kết hợp hài hoà giữa sự quản lý vĩ mô của Nhà nước và sự chủ
động, tự chịu trách nhiệm của tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài. Những yếu kém nói trên nếu không được khắc phục triệt để và kịp thời
sẽ tác động xấu đến tình hình hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta, nhất là
trong môi trường cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt.
Tình hình thực tế nêu trên đòi hỏi cần phải nghiên cứu, phân tích đánh
giá quản lý của Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động ở nước ta
trong thời gian qua nhằm tìm ra những nguyên nhân của những thành tựu và

7


hạn chế, đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường quản lý của Nhà nước, tạo
điều kiện để Nhà nước thực sự là cơ quan định hướng, điều tiết và tạo điều
kiện cho việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu lao động
theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội X của Đảng “Đẩy mạnh xuất khẩu lao
động và tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động này”.
Vì vậy, việc chọn đề tài: “Quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất
khẩu lao động ở Việt Nam” để nghiên cứu là có ý nghĩa rất cần thiết trong
bối cảnh hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, vấn đề xuất khẩu lao động của Việt Nam đã thu
hút được sự quan tâm nghiên cứu của các cấp, các ngành, các tổ chức và cá

nhân. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Nguyễn
Lương Trào (1993): Mở rộng và nâng cao hiệu quả việc đưa lao động đi làm
việc có thời hạn ở nước ngoài - Luận án tiến sỹ kinh tế; Cao Văn Sâm (1994):
Hoàn thiện hệ thống tổ chức và cơ chế xuất khẩu lao động - Luận án tiến sỹ
kinh tế; Trần Văn Hằng (1995): Các giải pháp nhằm đổi mới quản lý Nhà
nước về xuất khẩu lao động trong giai đoạn 1995 - 2010 - Luận án tiến sỹ
kinh tế; Nguyễn Đình Thiện (2000): Một số vấn đề về xuất khẩu lao động của
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Luận án tiến sỹ kinh tế chính trị; Nguyễn
Văn Tiến (2002): Đổi mới cơ chế quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động Thực trạng và giải pháp - Luận văn thạc sỹ quản lý kinh tế; Nguyễn Phúc
Khanh (2004): Xuất khẩu lao động với chương trình quốc gia về việc làm Thực trạng và giải pháp - Đề tài khoa học cấp Bộ; Lưu Văn Hưng (2005):
Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vực đông Bắc Á - Thực
trạng và giải pháp - Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị. Ngoài ra còn có một
số bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí, trong đó có thể kể đến: Nguyễn
Lương Phương (2002): Hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia - những
giải pháp trong tình hình mới - Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới - số

8


1(75); Nguyễn Thị Hằng: Đẩy mạnh xuất khẩu lao động khu vực nông thôn,
góp phần xoá đói giảm nghèo - Tạp chí Cộng sản số 4 - 5 (2003); Phạm Thị
Khanh (2004): Phát triển thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam trong
điều kiện hội nhập quốc tế - Tạp chí Nghiên cứu kinh tế - số 314.
Các công trình nghiên cứu nói trên đã tiếp cận vấp đề xuất khẩu lao
động ở nhiều góc độ khác nhau, trong đó tập trung vào việc phân tích và đánh
giá tình hình hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế. Ở hầu hết các công trình, các tác giả trong khi phân tích,
đánh gía thực trạng, đều có bàn đến vai trò quản lý của Nhà nước các cấp
nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ xem vai trò của Nhà nước như một giải
pháp trong hệ thống các giải pháp, chưa tập trung đi sâu phân tích cơ sở lý

luận và thực tiễn về quản lý Nhà nước hoạt động xuất khẩu lao động. Do đó,
các công trình nghiên cứu chưa có điều kiện tập trung giải quyết các vấn đề
đặt ra đối với quản lý của Nhà nước nhằm tạo điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ
hơn nữa hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam. Do đó, nghiên cứu quản
lý của Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay có thể được xem là một vấn đề mới,
có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích
Trên cơ sở hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò
quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung, xuất
khẩu lao động nói riêng, luận văn có mục đích phân tích, đánh giá thực trạng
quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động ở nước ta trong thời
gian qua và kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của
Nhà nước, góp phần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động trong giai đoạn
từ nay đến năm 2015.

9


* Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích đó, luận văn có các nhiệm vụ chính sau đây:
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò quản lý của
nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý của Nhà nước trong hoạt động
xuất khẩu lao động ở nước ta trong thời gian qua, rút ra một số vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả quản lý của
Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động ở nước ta từ nay đến năm
2015 và những năm tiếp theo.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Do thị trường lao động xuất khẩu của Việt Nam khá rộng nên luận văn chỉ
nghiên cứu hình thức xuất khẩu lao động trực tiếp. Từ đó, luận văn tập trung
nghiên cứu những chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của quản lý Nhà nước trong việc
định hướng, điều tiết và tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu lao động mà cụ thể
là những tác động của Nhà nước đối với các quá trình : chuẩn bị các điều kiện để
người lao động ra đi, người lao động làm việc ở nước ngoài và người lao động sau
khi về nước. Thời gian khảo sát, nghiên cứu và đánh giá quản lý của Nhà nước
được giới hạn trong vòng 10 năm (từ 2000 đến nay), đối tượng khảo sát chủ yếu là
các tổ chức, doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động;
thị trường được phân tích trong luận văn tập trung vào các nước trong khu vực
Châu Á.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biến chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời kết hợp với một số phương pháp khác
như thống kê, phân tích, so sánh và tổng hợp. Ngoài ra luận văn có kế thừa một
số kết quả của các công trình nghiên cứu trước đây để giải quyết các nhiệm vụ
đặt ra.

10


6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định
chính sách kinh tế - xã hội, nhất là những người trực tiếp hoạt động trong lĩnh
vực xuất khẩu lao động, các nhà nghiên cứu và các độc giả quan tâm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết:
Chƣơng 1: Lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động.

Chƣơng 2: Quản lý Nhà nước hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt
Nam: thực trạng và một số vấn đề đặt ra.
Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà
nước hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam giai đoạn 2010 - 2015.

11


Chƣơng 1
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
1.1. Xuất khẩu lao động: bản chất, đặc điểm và các hình thức
1.1.1. Bản chất, đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động
1.1.1.1. Bản chất của hoạt động xuất khẩu lao động
Cách đây hàng thế kỷ, hiện tượng cư dân của nước này sang nước khác
vì lý do kinh tế, chủ yếu là để kiếm công ăn việc làm, đã xuất hiện. Đến cuối
thế kỷ XIX, các mỏ khoáng sản ở Nam Phi đã thu hút nhiều luồng di dân có tổ
chức ở một số nước lân cận và cả từ Mỹ La tinh xa xôi. Dần dần, nhận thấy
đây là một ngành kinh doanh rất béo bở, nhiều công ty quốc gia hoặc đa quốc
gia đã hình thành để mua, bán sức lao động. Là một lĩnh vực nhạy cảm, nhằm
hạn chế những hành vi tiêu cực, các quốc gia liên quan đã tiến hành những
cuộc đàm phán song phương, đa phương, đi tới các hiệp định, chứng thư bảo
vệ người cư trú, hoặc thiết lập các cơ quan kiểm soát nghiêm ngặt. Tổ chức
lao động Quốc tế (ILO) ngay từ năm 1919 đã sớm nhận thức độ nhạy cảm của
vấn đề xuất, nhập khẩu lao động và nguy cơ bị tổn thương của lao động di trú
nên đã ban hành khuyến nghị số 86, trong đó ghi rõ: “Nếu người cư trú không
có nghề mà nước nhập cư đòi hỏi, thì phải đào tạo nghề cho họ trước khi đi
hoặc sau khi đến”. Trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, XKLĐ về cơ bản là
đưa lao động phổ thông từ nước kinh tế chậm phát triển sang các nước có nền
kinh tế phát triển. Sau chiến tranh, cùng với sự gia tăng nhanh chóng của đầu

tư quốc tế, trong đó có hình thức nhận thầu công trình quốc tế, nội dung
XKLĐ có sự thay đổi lớn.
XKLĐ là một lĩnh vực rất rộng, có tính chất phức tạp và nhạy cảm do
liên quan trực tiếp đến con người, đến các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và
quan hệ đối ngoại. Mặt khác, đây lại là lĩnh vực còn tồn tại nhiều quan điểm

12


và nhận thức khác nhau cả trong nhận thức lẫn trong thực tiễn. Do đó, việc
làm rõ bản chất, đặc điểm và các hình thức XKLĐ để từ đó thống nhất trong
lý luận cũng như trong việc hoạch định chính sách là rất cần thiết.
* Một số khái niệm liên quan đến thuật ngữ XKLĐ:
Theo cách hiểu rộng nhất, XKLĐ gồm XKLĐ tại chỗ (các doanh
nghiệp trong nước nhận nguyên liệu, công nghệ thiết bị nước ngoài và sản
xuất sản phẩm theo đơn hàng của bạn; các liên doanh, các công ty, tổ chức
nước ngoài đóng trên lãnh thổ sử dụng lao động nước sở tại) và XKLĐ ra
nước ngoài. Liên quan đến sự di chuyển lao động trong quan hệ kinh tế quốc
tế đã có một số quan niệm, thuật ngữ được sử dụng như: hợp tác quốc tế về
lao động, đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài và xuất
khẩu lao động.
Hợp tác quốc tế về lao động là thuật ngữ được sử dụng vào những năm
1980 ở một số nước XHCN thuộc phạm vi khối SEV, trong đó có Việt Nam.
Thuật ngữ này phản ánh hoạt động cung ứng và tiếp nhận người lao động giữa
Việt Nam với một số nước XHCN, Châu Phi và Trung Đông theo các hiệp
định của Chính phủ. Theo thỏa thuận của các hiệp định đã được ký kết, người
lao động được đưa sang nước khác làm việc và được vào làm việc trong các
cơ sở của người nước ngoài; đồng thời, người lao động nước ngoài được tiếp
nhận vào Việt Nam làm việc. Tuy nhiên, trong thực tế, hợp tác quốc tế về sử
dụng lao động chủ yếu là Việt Nam cung cấp lao động đáp ứng nhu cầu lao

động thiếu hụt ở các nước trong khối thông qua một “kênh” duy nhất là nhà
nước tuyển chọn và trực tiếp đưa lao động ra nước ngoài nhằm mục đích nâng
cao trình độ tay nghề và hợp tác hữu nghị, chưa chú trọng đến mục đích kinh
tế. Hợp tác quốc tế về lao động ở thời kỳ này là sản phẩm của cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, phù hợp với điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, không phản ánh quan
hệ trao đổi, mua bán hàng hóa sức lao động nhằm thực hiện lợi ích kinh tế
giữa các chủ thể.

13


Đưa người lao động và chuyên gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài
là thuật ngữ được sử dụng chính thức và phổ biến trong các văn bản pháp luật
của Nhà nước Việt Nam từ đầu những năm 1990 đến nay. Theo Nghị định số
370/HĐBT ngày 07/11/1991 thì “đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở
nước ngoài” là một hướng giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động
và tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước; góp phần tăng cường quan hệ hợp tác
kinh tế, văn hóa khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam với những nước sử dụng lao
động theo nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi, tôn trọng pháp luật và
truyền thống dân tộc của nhau (Điều 1).
Như vậy, việc dùng cụm từ “đưa người lao động đi làm việc có thời
hạn ở nước ngoài” thay cho “hợp tác quốc tế về lao động” thể hiện một quan
niệm mới về sức lao động và việc đưa lao động ra nước ngoài làm việc. Đến
thời điểm này, sức lao động đã được thừa nhận là hàng hóa và do đó, nó có
thể trao đổi, mua bán ở cả trong nước và ngoài nước. Mục đích của việc đưa
người lao động ra nước ngoài làm việc được xác định rõ: về kinh tế, là thu
nhập cho người lao động và thu ngoại tệ về cho đất nước; về xã hội, là giải
quyết việc làm; về quan hệ quốc tế là sự mở rộng hợp tác kinh tế, văn hóa,
khoa học - kỹ thuật. “Đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài” được thực hiện theo các hình thức: hiệp định giữa hai chính phủ; các

hợp đồng cung ứng lao động giữa các tổ chức kinh tế trong nước và nước
ngoài. Nhà nước không trực tiếp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
mà chủ yếu do các tổ chức kinh tế được cấp phép đảm nhiệm. Hoạt động này
đã phản ánh được bản chất của việc cung ứng và tiếp nhận lao động giữa các
quốc gia. Đó là sự trao đổi, mua bán hàng hóa sức lao động nhằm mục đích
kinh tế - xã hội. Hoạt động này nằm trong quỹ đạo của nền kinh tế thị trường
và chịu sự quản lý của nhà nước.
Để phát triển, quản lý chặt chẽ hoạt động đưa người lao động đi làm
việc ở nước ngoài và tạo cơ sở pháp lý cho việc sử lý các vi phạm cần thiết

14


phải ban hành Luật đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tại kỳ họp
thứ 9, ngày 05 tháng 6 năm 2006, Quốc hội Khóa XI đã cho ý kiến vào dự án
Luật “Đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài”. Theo Luật này, “người
lao động đi làm việc ở nước ngoài” gồm:
- Người lao động có nghề, lao động phổ thông đi làm việc ở nước ngoài.
- Chuyên gia, người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật đi làm việc ở
nước ngoài theo các Hiệp định, thỏa thuận giữa nước ta với nước ngoài;
- Người đi làm việc ở nước ngoài với danh nghĩa “tu nghiệp sinh” hoặc
thực tập nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn.
Xuất khẩu lao động là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến, có tính
chất thông dụng để chỉ hoạt động chuyển dịch lao động từ quốc gia này sang
quốc gia khác, kể cả XKLĐ tại chỗ. Tham gia vào quá trình này gồm hai bên:
bên nhập khẩu lao động và bên xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động còn
gọi là xuất khẩu vô hình, là một hình thức cung cấp cho nước ngoài một số
lượng lao động phục vụ nhất định để đạt được thu nhập ngoại tệ, kỹ thuật,
kinh tế bao gồm nhiều hình thức: công trình giao thông, xây lắp kiến trúc, sự
nghiệp công cộng, thương nghiệp, y học,... Là một loại xuất khẩu phi hàng

hóa (so sánh với xuất khẩu hàng hóa), nếu xét ở góc độ kinh tế, XKLĐ có
những đặc điểm: đầu tư ít, hiệu quả nhanh, giá thành thấp và lợi nhuận cao.
Ngoài ra, do tính mềm dẻo cao, lĩnh vực phát triển rộng và năng lực thích
nghi nhanh, XKLĐ được xem là một trong những lĩnh vực kinh tế - xã hội
quan trọng góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu
nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại
tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa các nước, XKLĐ
ngày nay được các nước xếp vào nhóm ngành dịch vụ thu ngoại tệ cùng với
các ngành như du lịch, xây dựng, y tế, giao dục, bảo hiểm, vận tải, bưu chính
viễn thông, dịch vụ ngân hàng,...

15


* Bản chất của hoạt động XKLĐ:
Từ hiện tượng di chuyển lao động tự do đến XKLĐ là một quá trình
gắn liền với sự phát triển kinh tế của mỗi nước. Nếu việc di chuyển người lao
động ban đầu còn mang tính tự phát thì hoạt động XKLĐ đã mang tính tự
giác, nghĩa là có tổ chức đưa người lao động đi và về, có sự hạch toán kinh tế,
nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, vừa chịu sự
quản lý, điều tiết của nhà nước vừa vận động tuân theo những nguyên tắc và
quy luật của thị trường. Bởi, trong nền kinh tế thị trường, sức lao động được
coi là hàng hóa, được đem ra trao đổi, mua bán trên thị trường. Nhưng người
lao động là chủ sở hữu sức lao động, chỉ bán giá trị sử dụng của sức lao động
và bán trong một khoảng thời gian nhất định cho người sử dụng sức lao động
theo những điều kiện đã được thỏa thuận giữa hai bên. Người mua chỉ được
sử dụng sức lao động trong thời gian đã được thỏa thuận để thu giá trị thặng
dư do người lao động tạo ra, hết thời hạn này, sự ràng buộc giữa hai bên chấm
dứt. Hoạt động này diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể người lao
động trực tiếp tìm đến người sử dụng lao động hoặc thông qua các môi giới

trung gian theo các hợp đồng cung ứng sức lao động. Việc người lao động
bán sức lao động, đi làm thuê cho người sử dụng sức lao động ở nước ngoài
thì việc mua bán này diễn ra trên thị trường lao động quốc tế, khi đó hoạt
động này vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia và do đó, liên quan tới các
quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội,... giữa quốc gia mà người lao động đi và
quốc gia mà người lao động đến để làm việc. Để đảm bảo quyền lợi cho
người lao động cũng như các lợi ích khác của quốc gia, Nhà nước không thể
đứng ngoài mà phải chủ động tham gia vào hoạt động này. Cho đến nay, hoạt
động xuất - nhập khẩu lao động của tất cả các quốc gia đều có sự can thiệp
của nhà nước, tuy mức độ can thiệp có khác nhau và do đó, vai trò của nhà
nước đối với hoạt động XKLĐ cũng khác nhau.

16


Như vậy, có thể khẳng định rằng , thực chất của XKLĐ là hoạt động xuất
khẩu hàng hóa sức lao động - một loại hàng hóa đặc biệt - bản chất của hoạt
động này là việc bán hàng hóa sức lao động trong nước cho nước ngoài sử dụng.
Theo đó, người lao động thông qua các tổ chức môi giới, hay các tổ chức, doanh
nghiệp XKLĐ của nhà nước hoặc tư nhân mà bán sức lao động của bản thân, đi
làm thuê cho chủ sử dụng lao động ở nước ngoài.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể đi tới một quan niệm tương
đối toàn diện về XKLĐ như sau:
Xuất khẩu lao động là một hình thức của phân công lao động quốc tế
thuộc lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế; là một loại xuất khẩu dịch vụ phi vật
thể - hàng hóa sức lao động trên thị trường lao động quốc tế, ở đó người bán
sức lao động và người sử dụng sức lao động ở nước ngoài phải thông qua sự
môi giới của các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động dịch vụ XKLĐ.
1.1.1.2. Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động
Do sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt nên hoạt động XKLĐ có

những đặc điểm riêng biệt, khác với hoạt động xuất khẩu hàng hóa thông
thường. Có thể khái quát một số đặc điểm của hoạt động XKLĐ như sau:
- Xuất khẩu lao động là một hoạt động đặc thù của kinh tế đối ngoại.
Trong quan niệm hiện nay, kinh tế đối ngoại gồm nhiều hình thức như: ngoại
thương; đầu tư quốc tế; hợp tác sản xuất (nhận gia công, xây dựng xí nghiệp
chung, khu chế xuất, khu công nghệ và kỹ thuật cao); hợp tác khoa học - công
nghệ; hợp tác tín dụng quốc tế và các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ (du lịch,
XKLĐ, xây dựng, y tế, bảo hiểm, giao dục, cung ứng dịch vụ vận tải, ngân
hàng, bưu chính viễn thông,...). Trong các hình thức kinh tế đối ngoại, ngoại
thương, đầu tư quốc tế và dịch vụ thu ngoại tệ là những hình thức chủ yếu và
có hiệu quả nhất. Tính chất đặc thù của hoạt động XKLĐ trước hết được thể
hiện ở chỗ là hoạt động kinh tế nhưng mang tính chất xã hội sâu sắc.

17


Vì mục đích kinh tế, nhiều nước coi XKLĐ là một trong những ngành
kinh tế mũi nhọn góp phần giải quyết việc làm, phát triển nguồn nhân lực và
tăng tích lũy vốn từ nguồn tiền chuyển về nước của người lao động đi XKLĐ
và các khoản thu khác từ dịch vụ này. Để thu được những lợi ích kinh tế, các
nước xuất khẩu lao động một mặt phải không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt
động thông qua việc mở rộng thị trường, quan tâm đến chất lượng và số lượng
nguồn lao động xuất khẩu. Mặt khác, phải xử lý hài hòa các mối quan hệ: tiền
công cho người lao động, lợi nhuận cho doanh nghiệp và lợi ích của nhà nước.
Do đó, mọi chủ trương, chính sách, các biện pháp quản lý và tác động của nhà
nước phải xuất phát từ mục tiêu kinh tế mới có thể định hướng và đảm bảo cho
hoạt động ngày càng hiệu quả.
Tính xã hội của hoạt động XKLĐ bắt nguồn từ tính chất đặc biệt của
hàng hóa sức lao động. Sức lao động là toàn bộ thể lực, trí lực và kỹ năng tồn
tại trong cơ thể người lao động và được người đó đem ra sử dụng để sản xuất

ra một giá trị sử dụng nào đó. Khác với hàng hóa thông thường, sức lao động
còn bao hàm các yếu tố tinh thần và lịch sử nên nó mang tính chất xã hội sâu
sắc. Đó là khả năng tư duy, năng lực sở hữu, đạo đức, truyền thống văn hóa,
phong tục tập quán,... của một quốc gia, dân tộc hiện hữu trong bản thân
người lao động và được di chuyển ra nước ngoài cùng với người lao động. Vì
thế, các chính sách liên quan đến hoạt động XKLĐ phải có sự kết hợp với các
chính sách xã hội khác, nhất là phải đảm bảo được quyền lợi liên quan đến
đời sống chính trị, tinh thần, văn hóa, tín ngưỡng,... của người lao động.
- Xuất khẩu lao động là một hoạt động xuất khẩu dịch vụ đặc thù. Theo
quan niệm mới, các ngành xuất khẩu dịch vụ thu ngoại tệ bao gồm nhiều lĩnh
vực, từ du lịch, XKLĐ đến xây dựng, y tế, giáo dục, bảo hiểm, các cung ứng
dịch vụ vận tải, ngân hàng, bưu chính viễn thông,... trong đó XKLĐ được xem là
hoạt động có tính chất đặc thù. Đặc điểm này do tính chất không thể chia tách và
tính không xác định trong hoạt động XKLĐ quy định.

18


Tính không thể chia tách của hoạt động XKLĐ thể hiện ở chỗ: cũng
như các hoạt động dịch vụ khác, XKLĐ có đặc điểm là quá trình tạo giá trị và
giá trị sử dụng thống nhất với quá trình tiêu dùng, thụ hưởng giá trị và giá trị
sử dụng của sức lao động. Ngoài ra, hoạt động XKLĐ còn có sự khác biệt với
các hoạt động dịch vụ khác ở chỗ, hoạt động XKLĐ không chấm dứt khi đã
hoàn thành thủ tục đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài mà nó là một
quá trình gồm nhiều khâu, nhiều công đoạn liên hoàn, gắn kết chặt chẽ với
nhau. Nó bắt đầu từ khâu chuẩn bị các điều kiện cho người lao động, đưa
người lao động đi XKLĐ, giúp người lao động thích nghi với công việc ở
nước ngoài cho đến khi người lao động về nước tái hòa nhập cộng đồng. Quá
trình này đòi hỏi các bên liên quan đến hoạt động XKLĐ, phải thường xuyên
quan tâm thực hiện những quy định trong hợp đồng, đôi khi cả những tình

huống phát sinh không có trong hợp đồng, nhưng có liên quan đến quyền lợi
của các bên.
Tính không xác định của hoạt động XKLĐ được thể hiện ở chỗ: cũng
như mọi hoạt động dịch vụ khác, hoạt động XKLĐ có đặc điểm là không hiện
hữu dưới dạng vật thể, khó lượng hóa khi quyết định trao đổi, mua bán, sử
dụng. Tính không xác định trong hoạt động XKLĐ được quy định bởi chất
lượng hàng hóa sức lao động. Chất lượng của hàng hóa sức lao động được
phản ánh và phụ thuộc vào thể chất và tinh thần hay sự dẻo dai, bền bỉ, độ
thành thạo và năng lực sáng tạo trong lao động của người lao động; vào điều
kiện làm việc, nghỉ ngơi và các điều kiện khác cho người lao động. Các yếu tố
tinh thần và lịch sử này ở mỗi người, mỗi địa phương, khu vực luôn có sự
khác nhau và luôn thay đổi đã tạo ra tính không xác định trong hoạt động
XKLĐ.
- Hoạt động XKLĐ xuất phát từ mục đích của các chủ thể tham gia:
tiền công của người lao động, lợi nhuận của doanh nghiệp và lợi ích của nhà
nước. Người lao động tham gia vào hoạt động XKLĐ với tư các vừa là người

19


tạo ra hàng hóa xuất khẩu, vừa là người trực tiếp mang hàng hóa đi bán, mục
đích của họ là các khoản thu nhập hay tiền công lao động ở nước ngoài. Lợi
nhuận của các doanh nghiệp XKLĐ thu được chủ yếu từ việc thu các loại phí
dịch vụ mà người lao động trả về việc giúp cho người lao động được đi làm
việc ở nước ngoài. Lợi ích của Nhà nước là các khoản ngoại tệ ròng nhận
được thông qua các khoản tiền của người lao động gửi về nước, các khoản
thuế và phí thu được từ các hoạt động XKLĐ của các doanh nghiệp.
Vì lợi ích kinh tế, cả người lao động và doanh nghiệp XKLĐ rất dễ vi
phạm các quy định của pháp luật, do đó, với tư cách là một chủ thể tham gia
vào quá trình này, nhà nước phải xây dựng các khuôn khổ pháp lý cho hoạt

động XKLĐ để đảm bảo các lợi ích các quốc gia, quyền lợi của các tổ chức,
doanh nghiệp, người lao động và duy trì, phát triển quan hệ hợp tác với các
nước nhập khẩu lao động. Trong những trường hợp cần thiết, nhà nước phải
trực tiếp giải quyết các vấn đề mà bản thân các tổ chức, doanh nghiệp không
thể đảm đương được như bảo vệ người lao động ở nước ngoài, ký kết các điều
ước quốc tế liên quan đến người lao động và giải quyết các vấn đề tiêu cực
trong hoạt động XKLĐ.
- Trong hoạt động XKLĐ, quyền sở hữu không tách rời quyền sử dụng
sức lao động. Trong hoạt động XKLĐ, người lao động không mất quyền sở
hữu sức lao động, chủ sử dụng sức lao động có thời hạn. Sở dĩ có đặc điểm
này là do sức lao động luôn tồn tại trong cơ thể người lao động, luôn thuộc
quyền sở hữu của người lao động. Họ chỉ bán sức lao động của mình và bao
giờ cũng chỉ bán, tức là để cho người sử dụng sức lao động của mình trong
một thời hạn nhất định, chứ không từ bỏ quyền sở hữu về sức lao động đó. Do
đó, khác với việc xuất khẩu các loại hàng hóa thông thường, XKLĐ không có
sự chuyển quyền sở hữu hàng hóa sức lao động khi hợp đồng mua bán sức lao
động được thực hiện. Trong thời hạn thực hiện hợp đồng, căn cứ vào thỏa
thuận đã ký kết, chủ sử dụng có quyền khai thác, sử dụng sức lao động mua

20


về một cách hiệu quả nhất nhằm thu được tối đa giá trị tăng thêm do sức lao
động đã mua được tạo ra. Sau khi hết hạn hợp đồng, chủ sử dụng lao động hết
quyền sử dụng hàng hóa sức lao động và phải trả người lao động về nước
XKLĐ.
- Hoạt động XKLĐ trong thời đại ngày nay mang tính chất đa phương,
đa dạng và phong phú. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc biệt là do tác
động của phân công lao động quốc tế và quá trình quốc tế hóa dưới tác động
của sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, sự đa phương trong

quan hệ hợp tác lao động, đa dạng về thị trường và phong phú về chủng loại
hoàng hóa sức lao động đã và đang diễn ra ở tất cả các nước, các khu vực trên
thế giới. Ngày nay, cùng với sự tăng cường xu thế quốc tế hóa đời sống kinh
tế, quy mô XKLĐ ngày càng mở rộng theo hướng nước nghèo XKLĐ sang
nước giàu; nước đang phát triển XKLĐ sang nước phát triển; nước đông dân
cư XKLĐ sang nước thưa thớt dân cư; có những nước chuyên xuất, có những
nước lại chuyên nhập, lại có những nước lại vừa xuất vừa nhập lao động. Đối
với những nước chuyên XKLĐ, mục đích chính là nhằm góp phần giải quyết
công ăn việc làm, tăng thêm thu nhập quốc dân, tạo thế cân bằng cho cán cân
thanh toán, cải thiện đời sống cho một bộ phân nhân dân lao động. Những
nước chuyên nhập khẩu lao động thường là những nước nhiều vốn, tài nguyên
chưa được khai thác tốt, thiếu tuyệt đối nhân lực (lao động hiện có không đủ
do dân số “già” đi), hoặc thiếu tương đối (trên thị trường lao động cú quá ít
người tìm việc). Những nước vừa xuất vừa nhập lao động xem hoạt động này
là lĩnh vực kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận thông qua chênh lệch giá cả sức
lao động. Mấy năm gần đây, do tính chất cạnh tranh trên thị trường lao động
quốc tế hết sức gay gắt nên tình hình xuất khẩu lao động diễn ra rất phức tạp.
Trừ những thị trường truyền thống như Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ vẫn cần
khối lượng lớn lao động nước ngoài, các nước trong khối OECD cũng phát
triển mạnh với các hình thức chủ yếu:

21


+ Viện trợ kinh tế: Căn cứ vào hợp đồng giữa hai bên tiến hành viện trợ
nhân viên kỹ thuật công trình theo hạng mục, thiết bị, vật tư trang bị tương ứng.
+ Nhận thầu công trình.
+ Xuất khẩu lao động theo tổ chức.
+ Hợp đồng giữa các doanh nghiệp.
+ XKLĐ phổ thông trong dân chúng.

Nhìn một cách khái quát, xu thế phát triển của thị trường lao động quốc
tế hiện nay có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, nhu cầu của thị trường lao động quốc tế đối với lao động phổ
thông giảm đi, nhu cầu đối với lao động kỹ thuật tăng lên. Đây là sự di
chuyển của dòng lao động chất lượng cao (lao động chuyên gia, kỹ thuật viên
cao cấp, các nhà quản lý,...) gắn liền với các hiệp định của Chính phủ, các
hoạt động đầu tư, các công trình thầu khoán của các công ty, tập đoàn xuyên
quốc gia của các nước phát triển.
Thứ hai, thị trường lao động quốc tế ngày càng có xu hướng đa nguyên
hóa. Không còn tập trung ở các nước phát triển như Bắc Mỹ và Tây Âu, hiện
nay mấy thị trường quan trọng thường được nhắc tới là Trung Đông, Bắc Mỹ,
Tây Âu, Bắc Phi, Nam Mỹ và Đông Nam Á.
Thứ ba, thị trường lao động quốc tế hiện nay đang tăng trưởng chậm lại
và cạnh tranh rất gay gắt. Đặc điểm này đem lại cho nước nhập khẩu lao động
điều kiện đấu thầu có lợi nhờ thuê lao động với giá rẻ đồng thời làm cho thu
nhập từ tiền công lao động của các nước xuất khẩu giảm mạnh. Theo thống kê
của Ngân hàng thế giới, tỷ lệ tăng trưởng bình quân hàng năm của mức tiền
công lao động từ năm 1960 - 1972 là 30%, nhưng từ năm 1972 - 1985 giảm
xuống 15% và trong 20 năm lại nay (1990 - 2010) chỉ còn 8 - 10%.
- Hoạt động XKLĐ góp phần thúc đẩy giao lưu văn hóa và hợp tác hữu
nghị giữa nước XKLĐ và nước nhập khẩu lao động. Là lĩnh vực liên quan
trực tiếp đến con người, nhiều quốc gia nhập khẩu lao động có chủ trương ưu

22


đãi hơn đối với lao động đến từ các nước tương đồng về văn hóa. Vì văn hóa
là con người, con người là văn hóa. Trong mỗi người lao động đều có tố chất
văn hóa, có thể học vấn cao, nhưng vẫn lấp lánh vẻ đẹp, mang đậm hồn cốt
nền văn hóa mà họ được nuôi dưỡng từ thưở ấu thơ. Đó là lẽ sống, là lối sống,

là đạo lý, là tình nghĩa, là lòng trắc ẩn, là sự ứng xử,... tóm lại là toàn bộ cuộc
sống tinh thần của người lao động. Đi XKLĐ là đi làm thuê, xét về công việc
thì vị thế của người lao động là phục tùng, người bị quản lý, bị sai bảo nhưng
về văn hóa, người lao động hoàn toàn bình đẳng với người sử dụng lao động.
Người lao động muốn sống và làm việc ở nước nhập khẩu lao động buộc phải
thích nghi, hòa nhập với phong tục tập quán, truyền thống văn hóa, pháp luật,
thói quen sinh hoạt và tác phong làm việc,... của nước sở tại. Quá trình thực
hiện hợp đồng lao động giữa chủ sử dụng lao động và người lao động là quá
trình tiếp xúc, giao lưu giữa hai nền văn hóa. Trong quá trình đó, nền văn hóa
nào ưu việt sẽ phát huy tính trội của nó, cảm hóa, chinh phục, lan tỏa giữa
những đối tác. XKLĐ là nhịp cầu giao lưu văn hóa và hợp tác hữu nghị giữa
các nước.
1.1.2. Các hình thức xuất khẩu lao động
Có nhiều cách thức phân loại các hình thức XKLĐ. Theo cách phân
loại truyền thống, có XKLĐ tại chỗ (các doanh nghiệp trong nước nhận
nguyên liệu, công nghệ, thiết bị nước ngoài và sản xuất sản phẩm theo đơn
đặt hàng của doanh nghiệp nước ngoài; các liên doanh sử dụng lao động trong
nước) và XKLĐ ra nước ngoài. Căn cứ vào các dạng và loại hình lao động
làm việc ở nước ngoài, có dạng cá nhân người lao động tự ký kết hợp đồng;
lao động đi làm việc theo doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu, đầu tư ra nước
ngoài; lao động đi làm việc dưới hình thức tu nghiệp, thực tập nâng cao tay
nghề và lao động được các tổ chức, các đơn vị sự nghiệp cử đi theo các chỉ
tiêu nhà nước phân bổ. Theo cách thức tổ chức thực hiện, XKLĐ có một số
hình thức chủ yếu sau đây:

23


1.1.2.1. Hợp đồng cung ứng
Hợp đồng cung ứng lao động có thể được ký giữa doanh nghiệp, tổ

chức kinh tế của nước XKLĐ với tổ chức thuê và sử dụng lao động ở nước
ngoài. Sau khi được ký kết, các doanh nghiệp, tổ chức làm dịch vụ cung ứng
lao động căn cứ vào nhu cầu của phía sử dụng lao động để tiến hành tuyển
chọn, giáo dục định hướng và đưa người lao động từ trong nước ra nước
ngoài làm việc.
Đây là một trong những hình thức quan trọng vì hiện nay và trong
những năm tiếp theo, việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài chủ
yếu vẫn thông qua các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Nhưng đây
là một loại dịch vụ nhạy cảm, có đối tượng tác động trực tiếp là người lao
động nên tất cả các nước đều có luật quy định rất chặt chẽ điều kiện để doanh
nghiệp được hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
thông qua cơ chế cấp phép, trong đó điều kiện về ký quỹ. Bên cạnh đó, do vị
trí đặc biệt của loại dịch vụ này, các nước đều có các quy định đặc thù như:
phải là doanh nghiệp có 100% vốn trong nước; doanh nghiệp không được ủy
quyền cho các tổ chức, cá nhân khác thực hiện hoạt động XKLĐ; chi nhánh
của doanh nghiệp cũng chỉ được thực hiện một số hoạt động nhất định như tư
vấn, đào tạo, không được trực tiếp ký hợp đồng cung ứng lao động, thu phí
hay tiền ký quỹ của người lao động,...
1.1.2.2. Nhận thầu hoặc đầu tư ra nước ngoài
Hình thức này được thực hiện chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng các
công trình thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội mà các chủ đầu tư của nước
XKLĐ trúng thầu ở nước ngoài. Ngoài việc đưa lực lượng lao động ở trong
nước ra nước ngoài làm việc, hình thức này thường phải đưa đồng bộ cả máy
móc và các phương tiện kỹ thuật.
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua doanh nghiệp nhận
thầu, đầu tư ra nước ngoài tuy còn mới ở nước ta nhưng đang có xu hướng

24



phát triển nhanh. Nhà nước cần khuyến khích các doanh nghiệp nhận thầu,
đầu tư ra nước ngoài có sử dụng nhiều lao động Việt Nam; đồng thời đưa ra
những quy định nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động, tạo điều kiện cho
công tác quản lý của nhà nước đối với XKLĐ.
1.1.2.3. Tu nghiệp, thực tập nâng cao tay nghề ở nước ngoài
Đây là chương trình nhằm đào tạo nguồn nhân lực. Đối tượng được
tuyển chọn là những lao động đang làm việc cho các nhà máy, xí nghiệp có nhu
cầu nâng cao tay nghề ở nước ngoài, sau đó sẽ trở lại làm việc tại nhà máy, xí
nghiệp trước sau khi đi. Để quản lý và bảo vệ quyền lợi cho người lao động,
các nước quy định cụ thể đối với doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp có vốn
nước ngoài) đưa người lao động đi nước ngoài dưới hình thức tu nghiệp, thực
tập nâng cao tay nghề mà thực chất người lao động có làm việc và nhận thù lao
dưới bất kỳ hình thức nào từ cơ sở tiếp nhận. Mặt khác, nhà nước định hướng
cho các doanh nghiệp tham gia chương trình này bằng các hình thức thường
xuyên trao đổi thông tin với các phía các tổ chức sở hữu quan cũng như các tổ
chức nghiệp đoàn, các công ty phái cử và tiếp nhận; hỗ trợ các doanh nghiệp
tìm kiếm, khai thác hợp đồng, giúp các doanh nghiệp thẩm định tư cách pháp
nhân và khả năng tiếp nhận của các nghiệp đoàn tiếp nhận cũng như năng lực
của các công ty phái cử.
1.1.2.4. Theo các hiệp định được ký kết
Theo quy định hiện hành, tổ chức sự nghiệp của các bộ, ngành được đưa
chuyên gia, người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao và người lao động đi
làm việc ở nước ngoài để thực hiện Hiệp định mà chính phủ đã ký kết. Căn cứ
vào các Hiệp định đã ký, nhà nước phân bổ chỉ tiêu cho các bộ, ngành, địa
phương tiến hành tuyển chọn và đưa người lao động đi làm việc ở các nước.
Người lao động làm việc ở nước ngoài được bố trí xen ghép với người lao động
của các nước khác, chịu sự quản lý thống nhất từ trên xuống dưới. Hiện nay,
lao động Việt Nam được đưa đi làm việc ở nước ngoài theo Hiệp định chủ yếu

25



×