Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Luận văn tất nghiệp quản lý nhà nước đối vói luật sư và nghề luật sư ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.95 KB, 94 trang )

NHẶN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẰN THƠ
KHỎA LUẬT
Bộ MÔN HÀNH CHÍNH
cgQĩo

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP cử NHÂN LUẬT
KHÓA 33(2007-2011)

Đề tài:
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI LUẬT sư
VÀ NGHỀ LUẬT Sư Ở VIỆT NAM

Giảng viên hướng dân:
Th.s Võ Duy Nam
Bộ môn hành chính

Sinh viên thực hiện:
Trần Vũ Nguyên
MSSV: 5075050
Lóp luật thương mại 1

Cần Thơ, tháng 04/2011


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐÀU............................................................................................................... 1


1. Tính cấp thiết của đề tài...................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài................................................................................... 1
3. Mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ...................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................2

CHƯƠNG 1............................................................................................................... 4

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÈ LUẬT SƯ VÀ

NGHỀ LUẶT SƯ ......................................................................................................4

1.1. Khái quát chung về luật sư và nghề luật sư................................................4
1.1.1. Khái niệm về luật sư............................................................................... 4
1.1.2. Khái niệm về nghề luật sư.......................................................................5

1.2. Vai trò, đặc điểm và tính chất của nghề luật sư..........................................7

1.2.1. Vai trò của luật sư.................................................................................7
1.2.1.1. Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền của bị can, bị cáo và
các đương sự trước Toà.................................................................................. 7
1.2.1.2. Vai trò của luật sư trong hoạt động tư vấn pháp luật góp phần bảo
vệ quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức.......................................................... 8
1.2.1.3. Vai trò của luật sư trong việc tham gia tuyên truyền, phổ biến,


CHƯƠNG II............................................................................................................. 22

NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÈ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI LUẬT Sư VÀ NGHỀ LUẬT sư - THựC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN......................................................................................................... 22


2.1. Thẩm quyền quản lý Nhà nước và điều kiện, tiêu chuẩn hành nghề đối

vói luật sư ở Việt Nam...................................................................................................22

2.1.1. Thẩm quyền quản lý và nội dung quản lý về nghề luật sư..............22

2.1.2. Tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề luật sư.......................................... 24
2.1.2.1.......................................................................................................... Tiê
u chuẩn trở thành luật sư.............................................................................. 24
2.1.2.2. Miễn đào tạo nghề luật sư............................................................. 26
2.1.2.3. Điều kiện hành nghề và phạm vi hành nghề luật sư..................... 27

2.2. Pháp luật về những nội dung Ctf bản Nhà nước quản lý về nghề luật sư

ở Việt Nam......................................................................................................................28

2.2.1. Quản lý Nhà nước đối vói nghề luật sư ở Việt Nam thông qua việc

quyết định chiến lược, chính sách hỗ trự phát triển nghề luật sư trong


2.2.5. Phối họp ban hành Quy chế tập sự hành nghề luật sư và kiểm tra

kết quả tập sự hành..........................................................................................50
2.2.5.1. Gia nhập Đoàn luật sư................................................................... 51
2.2.5.2........................................................................................................... Tậ
p sự hành nghề luật sư.................................................................................. 52
2.2.5.3 Kiểm ưa kết quả tập sự hành nghề luật sư....................................... 54
2.2.6.2. Cấp, giấy đăng ký hoạt động, giấy đăng ký hành nghề luật sư.... 58


2.2.7. Quy định về kiểm tra, thanh tra về tổ chức luật sư và hành nghề
luật sư; xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm giải quyết khiếu nại về luật sư
60
2.2.7.1........................................................................................................... Ki
ểm ưa, thanh ưa tổ chức luật sư và hành nghề luật sư................................. 60
2.2.7.2. Xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại về luật sư....... 66

2.3. Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước
đối

vổỉ

nghề

luật





Việt

Nam

73
2.3.1. Tình hình tổ chức và hoạt động hành nghề của luật sư.........................73
2.3.2. Những thành tựu đạt được ưong công tác quản lý đối với nghề luật sư
ở Việt Nam..........................................................................................................75
2.3.3. Những hạn chế còn tồn tại ưong công tác quản lý Nhà nước đối với

nghề luật sư ở Việt Nam......................................................................................77


Luận văn tất nghiệp Quản lý Nhà nước đối vói luật sư và nghề luật sư ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐÀU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ thực tế khách quan của một quốc gia đang không ngừng phát triển, của
một đất nước luôn hướng đến nền dân chủ vững mạnh và của một dân tộc ngày
ngày vươn mình ra với bè bạn năm châu, thì sứ mệnh bảo vệ công lý, đảm bảo công
bằng xã hội được đề cao là tất yếu và chính đáng. Không có giai đoạn nào trong lịch
sử phát triển của đất nước trước đây, vị thế và vai trò của nghề luật sư lại được coi
trọng như hiện nay. Có thể nói, đây là thời điểm mà xã hội Việt Nam đã dần nhìn
nhận sát gần hơn đối với vai trò của nghề luật sư theo đúng chỗ đứng mà nghề này
xứng đáng có được. Người dân ngày càng tìm đến luật sư như một nhu cầu thiết
thân, số lượng luật sư, tổ chức hành nghề luật sư ngày một phát triển, nền tư pháp
nước nhà đã tạo điều kiện nhiều hơn để luật sư thể hiện tầm quan trọng của mình.
Nghề luật sư với một vị thế và tầm quan trọng như thế thì quản lý Nhà nước
đối với nghề luật sư là một điều rất cần thiết và không kém phần quan trọng trong
việc định hướng và phát triển bền vững nghề luật sư ở Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập như hiện nay. Đây chính là lý do mà người viết chọn đề tài “ Quản lý Nhà
nước đối với luật sư và nghề luật sư ở Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp cử nhân
luật.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Chủ đề về “ luật sư” và “ nghề luật sư” đã được nghiên cứu rất nhiều bõi các
nhà nghiên cứu luật học nói chung và cũng như của sinh viên nói riêng, như là tác
phẩm “Vấn đề hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam” của Tiến sĩ Phan Trung
Hoài được nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 2009. Nội dung
của tác phẩm này xoay quanh vấn đề vai trò của pháp luật đối với nghề luật sư,
những hạn chế và tồn tại trong pháp luật thực định về nghề luật sư đồng thời cũng

nêu lên phương hướng hoàn thiện pháp luật về nghề luật sư.... Bên cạnh đó cũng có
một số tác phẩm nghiên cứu của sinh viên như là Luận văn cử nhân luật “Luật sư và
hành nghề luật sư ở Việt Nam” của sinh viên Nguyễn Ngọc Huệ lớp luật hành chính
khóa 32 của trường Đại học càn Thơ. Nội dung của luận văn này bàn về điều kiện,
tiêu chuẩn để hành nghề luật sư và những vấn đề pháp lý cơ bản về hành nghề luật
sư ở Việt Nam hiện nay...Tuy nhiên với đề tài Luận văn tốt nghiệp
SVTH:“Quản
Trần lý
VũNhà
Nguyên
1
GVHD: Th.s Võ Duy Nam


Luận văn tất nghiệp Quản lý Nhà nước đối vói luật sư và nghề luật sư ở Việt
Nam
nước đối với luật sư và nghề luật sư” tác giả sẽ nghiên cứu ở một góc độ, khía cạnh
khác góp phần bổ sung và hoàn thiện hơn mảng chủ đề về “Luật sư” và “Nghề luật
sư”.
3. Mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Mục đích của tác giả trong việc nghiên cứu đề tài “Quản lý Nhà nước đối với
nghề luật sư ở Việt Nam” là tìm hiểu một cách có hệ thống những nội dung pháp lý
cơ bản, những thành tựu cũng như những vướng mắc khó khăn còn tồn tại trong
công tác quản lý Nhà nước đối với nghề luật sư nhằm kiến nghị một số giải pháp
hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý của Nhà nước đối với nghề luật sư.
Với đề tài này tác giả tập trung đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề pháp lý
cơ bản trong công tác quản lý của Nhà nước đối với nghề luật sư ở Việt Nam như là
quyết định chiến lược, chính sách phát triển nghề luật sư; ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật về luật sư; đào tạo nghề luật sư; cấp, thu hồi Chứng chỉ hành nghề
luật sư, Giấy đãng ký hoạt động, Giấy phép hành nghề; phê duyệt Điều lệ của Đoàn

luật sư, Tổ chức luật sư toàn quốc; kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết
khiếu nại, về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này người viết dựa trên quan điểm biện chứng Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp những tài liệu,
tư liệu từ sách vở, báo chí liên quan đến vấn đề quản lý Nhà nước đối với nghề luật
sư. Mặt khác, tác giả cũng sử sựng phương pháp phân tích, so sánh đối chiếu những
quy phạm pháp luật cũ và mới nhằm rút ra những điểm tiến bộ ,bên cạnh đó tác giả
cũng liên hệ thực tế để đối chiếu với những quy phạm pháp luật thực định để tìm
những bất cập còn tồn tại đồng thời nêu lên quan điểm của bản thân.
Bố cục luận văn
Mục lục
Lời nói đầu
Nội dung của Luận văn được chia thành hai chương chính như sau:
+ Chương I: Những vấn đề lý luận chung về luật sư và nghề luật sư
+ Chương II Những quy định pháp luật về quản lý Nhà nước đối với luật sư
và nghề luật sư - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện
GVHD: Th.s Võ Duy Nam

2

SVTH: Trần Vũ Nguyên


Luận văn tất nghiệp Quản lý Nhà nước đối vói luật sư và nghề luật sư ở Việt
Nam
Tài liệu tham khảo
Phục lục

GVHD: Th.s Võ Duy Nam


3

SVTH: Trần Vũ Nguyên


Luận văn tất nghiệp Quản lý Nhà nước đối vói luật sư và nghề luật sư ở Việt Nam

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐÈ LÝ LUẬN CHUNG VÈ LUẬT SƯ VÀ
NGHÈ LUẬT
• SƯ
1.1. Khái quát chung về luật sư và nghề luật sư
1.1.1. Khái niệm về luật sư
Pháp luật thực định ở nước ta hiện nay đang tồn tại nhiều tên gọi khác nhau
cho những người hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý và bào chữa trước Tòa
án. Đó là “luật gia”, “luật sư”, “người bào chữa”, “bào chữa viên nhân dân”, “người
đại diện quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo, các đương sự, người có quyền và
nghĩa vụ liên quan”, “đại diện theo ủy quyền”,...Trong Từ điển tiếng Việt, cách giải
nghĩa các từ “luật sư”, “luật gia” cũng rất khác nhau. Các tác giả của Trung tâm
Ngôn ngữ và Văn học Việt Nam thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo giải nghĩa từ “luật
sư” là “ người có chức trách dùng pháp luật bào chữa cho bị can, bị cáo trước Tòa
án”, còn “luật gia” là “nhà nghiên cứu pháp luật”1. Trong khi đó, có một nhóm tác
giả khác lại giải nghĩa từ “luật sư” là “trạng sư, người bên vực cho một can phạm
trước Tòa án”, còn “luật gia” dùng để chỉ “người nghiên cứu giỏi pháp luật”2. Theo
điều lệ của Hội luật gia Việt Nam thông qua ngày 26/05/1993, “luật gia” được hiểu
là những người “đã hoặc đang làm công tác pháp luật trong các cơ quan nhà nước,
các đoàn thể nhân dân, các tổ chức kinh tế xã hội, trong lực lượng vũ trang nhân
dân, tán thành điều lệ của Hội, tự nguyện và tích cực tham gia các hoạt động cho
Hội”3

Mặc dù Hiến pháp năm 1980, 1992 và Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987
đã chính thức dùng từ “luật sư” để chỉ những hoạt động tư vấn pháp luật và bào
chữa trước Tòa án, nhưng hoạt động bào chữa trước Tòa án không chỉ có các luật
sư. Trong Bộ luật tố tụng hình sự, khái niệm “người bào chữa” dung để chỉ: Luật
sư; Người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, đương sự; Bào chữa viên nhân dân.
Theo giải thích của tác giả trong cuồn sách Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình
sự, luật sư là người hoạt động bào chữa chuyên nghiệp hoạt động trong nghành luật
Nguyễn Như Ý (chủ biên): Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa thông
tin, Hà Nội, 1999, tr. 1059
SVTH: Trần Vũ Nguyên
4
2 Ngôn ngữ học Việt Nam: Từ điển tiếng Việt, Nxb. Thanh niên, Hà Nội,
1


4 Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp): Bình luật khoa học Bộ luật tổ tụng hình sự, Nxb. TP Hồ
Chí Minh,Luận văn tất nghiệp Quản lý Nhà nước đối vói luật sư và nghề luật sư ở Việt
1999, tr. 79
5 Trường Nam
Đào tạo các
chức danhsư; Người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo là cha, mẹ, anh, chị em ruột, người tư pháp: Tập
bài giảng
đào tạo luật sư,

Nội,đỡ đầu của họ; còn bào chữa viên nhân dân là người tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra 2001, tr. 40
để bào chữa cho bị cáo4.
Cho đến Pháp lệnh luật sư năm 2001, vẫn chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh
về luật sư. Trong cuốn Tập bài giảng đào tạo luật sư, tác giả cho rằng luật sư “ là
thành viên của tổ chức luật sư, luật sư là người có kiến thức và hiểu biết trong lĩnh
vực luật pháp, bằng kiến thức này, luật sư trở thành người trợ giúp, tư vấn pháp luật

cho tất cả các công dân trong xã hội trong việc thực hiện và bảo vệ các quyền công
dân của mình”5.
Tuy nhiên, hiện nay chúng ta có thể hiếu với nhau rằng: luật sư là chỉ những
người có đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật nhằm
thực hiện việc tranh tụng, tư vấn pháp luật, đại diện theo ủy quyền, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà nước trước tòa án và thực hiện các
dịch vụ pháp lý khác. Điều 2 Luật luật sư 2006 quy định: Luật sư là người có đủ
tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật luật sư, thực hiện dịch vụ
pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tiêu chuẩn luật sư được quy
định tại Điều 10 Luật Luật sư như sau: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ
quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng Cử nhân
Luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có
sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể hở thành Luật sư. Lưu ý rằng, người
có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 10 của Luật luật sư muốn được hành nghề luật
sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư.
1.1.2. Khái niệm về nghề luật sư
Rất nhiều người tự hào giới thiệu mình làm nghề luật. Khi suy nghĩ về nghề
luật chúng ta cần phải xác định rõ nghề luật là gì? Hiện nay trên thực tế có nhiều
cách hiểu về nghề luật.
Ở nghĩa rộng nhất, nói đến những người làm nghề luật là chúng ta nói đến
thẩm phán, luật sư, kiểm sát viên, công chứng viên...
Thẩm phán được hiểu là những người làm việc tại Toà án, được quyền nhân
danh Nhà nước để xét xử các vụ án. Thẩm phán - ở nghĩa lý tưởng được hiểu là

GVHD: Th.s Võ Duy Nam
Nguyên

5

SVTH:


Trần




Luận văn tất nghiệp Quản lý Nhà nước đối vói luật sư và nghề luật sư ở Việt
Nam
người được quyền ra quyết định cuối cùng để mang lại sự công bằng cho mọi
người, cứu người vô tội và trừng phạt kẻ ác. Kiểm sát viên là người buộc tội tại
phiên toà (ở nước ngoài thường được gọi là công tố viên). Họ được quyền đưa một
vụ phạm pháp ra xem xét để xử lý, ra lệnh bắt giữ, tham gia điều ưa vụ án, truy tố
người phạm tội. Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy
định của pháp luật của mỗi quốc gia, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá
nhân, cơ quan, tổ chức. Luật sư là những người hành nghề ưong Văn phòng hoặc
Công ty luật. Thu nhập của luật sư là từ các khoản thù lao do khách hàng trả. Công
chứng viên là người làm việc tại các Phòng công chứng, có quyền xác nhận tính
hợp pháp của các giao dịch, hợp đồng...
Nếu hiểu nghề luật là bao gồm tất cả những nghề có liên quan đến luật, có
thể kể ra nhiều công việc khác cũng được gọi là nghề luật như: chấp hành viên, điều
ưa viên, giám định viên, chuyên viên pháp lý, cố vấn pháp lý, giáo viên dạy luật,
cán bộ nghiên cứu pháp luật, cán bộ ưong các cơ quan thi hành án dân sự, cơ quan
công an, cơ quan hành chính Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp, trường
học, viện nghiên cứu... . Ở nghĩa rộng, chúng ta thấy nghề luật thật phong phú và đa
dạng và ưong xã hội pháp quyền, tất cả các nghề luậtt đều cần được tôn vinh một
cách xứng đáng.
Ở nghĩa hẹp hơn, nói đến nghề luật là chúng ta nói đến nghề luật sư. Nghề
luật sư là nghề luật tiêu biểu nhất, nghề luật sư thể hiện đầy đủ nhất những đặc
trưng của nghề luật. Nghề luật sư không giống như những nghề bình thường khác vì
ngoài những yêu càu về kiến thức và trình độ chuyên môn thì yêu càu về việc hành

nghề luật sư còn phải tuân thủ theo quy chế đạo đức nghề nghiệp. Đây là một nét
đặc thù riêng của nghề luật sư và nét đặc thù này tác động sâu sắc đến kỹ năng hành
nghề, đặc biệt là kỹ năng tranh tụng của luật sư.
Từ những phân tích, kiến giải nêu ưên, ta có thể hiểu một cách khái quát khái
niệm nghề luật sư như sau: “Nghề luật sư là một nghề luật, ưong đó các luật sư
bằng kiến thức pháp luật của mình, độc lập thực hiện các hoạt động tư vấn pháp lý
và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật và
quy chế trách nhiệm nghề nghiệp, nhằm mục đích phụng sự công lý, góp phần tích
cực bảo vệ pháp chế và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa”.
GVHD: Th.s Võ Duy Nam

6

SVTH: Trần Vũ Nguyên


Luận văn tất nghiệp Quản lý Nhà nước đối vói luật sư và nghề luật sư ở Việt
Nam

1.2. Vai trò, đặc điểm và tính chất của nghề luật sư
1.2.1. Vai trò của luật sư
1.2.1.1, Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền của bị can, bị cáo và

các đương sự trước Toà
Trong lịch sử, vai trò của luật sư bong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của bị can, bị cáo và các đưomg sự trước Toà không phải ở mọi lúc, mọi noi được
tôn trọng. Ở những nước mà mối quan hệ giữa con người với con người bị ảnh
hưởng của tâm linh, thần cảm thì nghề luật sư chậm phát triển. Ví dụ như ở các
nước Hồi giáo nghề luật sư ít phát triển thậm chí không có nghề luật sư. Nghề luật

sư được phát triển và giữ vai trò quan trọng bong các nước dân chủ, phát triển. Đe
bảo đảm công lý các bên khi tham gia tố tụng đều có sự giúp đỡ từ phía những nhà
chuyên nghiệp là luật sư. Theo quan điểm của luật sư phưomg Tây thì luật sư khi
tham gia bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, cho cá nhân, phải đặt quyền lợi của cá
nhân cao hom hoặc bằng quyền lợi của cộng đồng xã hội.
Vai trò của luật sư có sự khác nhau trong các nền văn minh khác nhau. Ở
Nhật Bản trước đây các quan hệ trong xã hội được điều chỉnh bằng tập quán, đề cao
sự hoà thuận, tránh cưỡng ép. Các quy phạm với chế tài là sự hổ thẹn và trách cứ đủ
để duy trì trật tự xã hội ở Nhật Bản. Tuy nhiên ở Nhật Bản vào cuối thế kỷ 19 và
đặc biệt là sau đại chiến thế giới lần thứ n vai trò của pháp luật đã được thừa nhận
trong xã hội Nhật Bản, nghề luật sư đã được hình thành và ngày càng phát triển.
Tuỳ theo quốc gia khác nhau mà pháp luật có vai trò quan trọng khác nhau.
Ở Pháp trong một thời gian dài pháp luật chỉ đóng vai trò thứ yếu. Pháp luật chỉ tồn
tại ở khía cạnh luật nội dung mà không có luật hình thức, luật nội dung không có
bảo đảm của luật tố tụng, pháp luật tồn tại bên ngoài Toà án, bên ngoài các vụ kiện.
Cái mà được gọi là pháp luật lại đối lập với tư pháp và không được mọi người quan
tâm. Các nhà doanh nghiệp chỉ quan tâm đến khía cạnh thưcmg mại của một hợp
đồng mà không quan tâm đến khía cạnh pháp lý của nó. Pháp luật chưa được xã hội
tôn trọng.
Trên thế giới, nghề luật sư được tổ chức theo nhiều hình thức và rất đa dạng.
Sự đa dạng này xuất phát từ đặc thù lịch sử, văn hóa, cách suy nghĩ cũng như hệ
thống pháp luật của mỗi nước. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về nghề luật
GVHD: Th.s Võ Duy Nam

7

SVTH: Trần Vũ Nguyên


6 Đặc san tuyên truyền pháp luật số 04: Chủ đề luật sư và pháp luật về luật sư, Hà Nội 2010, tr 9 - 1 0

Luận văn tất nghiệp Quản lý Nhà nước đối vói luật sư và nghề luật sư ở Việt
Nam
cụ hữu hiệu góp phần đảm bảo công lý. Nghề luật sư rất chú ý đến vai trò cá nhân,
uy tín nghề nghiệp của luật sư và tính chất của nghề tự do trong tổ chức hành nghề
luật sư.
Tại Việt Nam, luật sư có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức và gốp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc
sống hàng ngày công dân thường có nhiều mối quan hệ với nhau và với cơ quan, tổ
chức. Những mối quan hệ này nhiều khi phát sinh những mâu thuẫn, động chạm
đến quyền lợi của mỗi bên. Đặc biệt là những vấn đề phải giải quyết bằng con
đường Tòa án mà ở đây những quyền cơ bản của công dân dễ bị đụng chạm nhất.
Thường công dân bị hạn chế bởi trình độ văn hóa, sự hiểu biết pháp luật nên khó có
thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách đầy đủ và toàn diện. Tổ
chức luật sư được thành lập để giúp cho công dân về mặt pháp lý. Luật sư là người
am hiểu pháp luật có kinh nghiệm trong hoạt động pháp luật, là người giúp cho
công dân về mặt pháp lý có hiệu quả nhất khi có những vụ việc xảy ra liên quan đến
pháp luật, nhất là những vụ việc ở Tòa án.
Trong thòi gian qua, hoạt động tham gia tố tụng của luật sư đã bảo đảm thực
hiện tốt nguyên tắc hanh tụng tại phiên toà, góp phần quan trọng trong việc thực
hiện nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp. Thực tiễn thời gian qua cho thấy,
việc tham gia tố tụng của các luật sư không những bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa
của bị can, bị cáo, các đương sự khác, mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng
phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, làm rõ sự thật khách quan, xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thông qua hoạt động
bào chữa, tranh tụng tại Tòa án, luật sư đã góp phần làm giảm thiểu các vụ án oan,
sai, đã xuất hiện nhiều tấm gương luật sư xuất sắc hên diễn đàn “Pháp đình”, vị thế
của luật sư trong xã hội cũng ngày càng được nâng cao.6
I.2.I.2. Vai trò của luật sư trong hoạt động tư vấn pháp luật góp phần
bảo vệ quyền, lọi ích của cá nhân, tổ chức
Luật sư trước hết là một chuyên gia pháp luật, là một cố vấn pháp luật mà ở

họ có những kỹ năng nghề nghiệp thực thụ. Để công chúng, các nhà kinh doanh
tuân thủ pháp luật và tin tưởng vào sự công bằng, bình đẳng của pháp luật thì những
người hành nghề luật sư phải tự mình tôn trọng pháp luật. Đó là lý do vì sao nghề

GVHD: Th.s Võ Duy Nam

8

SVTH: Trần Vũ Nguyên


7 Đặc san tuyên truyền pháp luật số 04: Chủ đề luật sư và pháp luật về luật sư, Hà Nội .2010, tr 11
Luận văn tất nghiệp Quản lý Nhà nước đối vói luật sư và nghề luật sư ở Việt
Nam
luật sư phải được pháp luật điều chỉnh chặt chẽ để duy trì lòng tin của xã hội và giới
kinh doanh. Ngoài những quy định trên còn có những quy tắc nghề nghiệp bổ sung
cho các quy định của pháp luật. Bên cạnh hoạt động tranh tụng, luật sư còn nhận
làm tư vấn pháp luật cho cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước bằng hình thức ký
kết hợp đồng dịch vụ pháp lý. Luật sư thực hiện tư vấn trong nhiều lĩnh vực pháp
luật, soạn thảo các văn bản pháp luật, soạn thảo di chúc, hợp đồng mua bán tài sản,
hợp đồng kinh tế, hợp đồng mua bán bất động sản, soạn thảo giấy tờ pháp lý của
công ty... Lĩnh vực hoạt động soạn thảo văn bản có liên quan đến pháp luật là một
lĩnh vực hoạt động quan trọng trong hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư. Luật sư
còn hướng dẫn khách hàng về những vấn đề có liên quan đến pháp luật, quyền của
họ được pháp luật quy định và cách xử sự theo đúng pháp luật. Việc tư vấn pháp
luật cho khách hàng của luật sư góp phần không nhỏ trong việc giải quyết những
tranh chấp xảy ra trong đời sống xã hội, ngăn chặn được những hành vi vi phạm
pháp luật, giảm bớt phiền hà cho cơ quan nhà nước khi người dân thiếu hiểu biết
pháp luật đi khiếu nại không đúng cơ quan có thẩm quyền.
Hoạt động tư vấn pháp luật và dịch vụ pháp lý khác của luật sư là một trong

những yếu tố quan trọng góp phần tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh minh
bạch, lành mạnh theo đúng pháp luật, đồng thời hỗ trợ tích cực trong việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, phát triển thị trường dịch vụ, tăng thu ngân sách, giải quyết việc
làm; góp phàn bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp cả ở nước ngoài. Sự tham gia tích
cực của các luật sư trong dự án đầu tư, các giao dịch kinh doanh, thương mại không
chỉ góp phàn phát huy nội lực mà còn thu hút ngoại lực, thúc đẩy hoạt động đàu tư
nước ngoài tại Việt Nam.7
I.2.I.3. Vai trò của luật sư trong việc tham gia tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Là người hiểu biết pháp luật, thông qua việc hành nghề, luật sư góp phần
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho cộng đồng xã hội. Thông qua tổ chức
xã hội nghề nghiệp của mình, luật sư có trách nhiệm tham gia tham gia xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Luật sư đóng một vai trò quan trọng trong việc góp phần bảo vệ quyền cơ
bản của công dân và phát triển xã hội. Cùng với thời gian, đội ngũ luật sư Việt Nam

GVHD: Th.s Võ Duy Nam

9

SVTH: Trần Vũ Nguyên


Luận văn tất nghiệp Quản lý Nhà nước đối vói luật sư và nghề luật sư ở Việt
Nam
dần dàn khẳng định rõ vị trí, vai trò của mình trong xã hội. Luật sư với tư cách là
người có kiến thức sâu, rộng về pháp luật có chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức, tham gia tích cực trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, cần phải khẳng định mình hơn nữa trong công cuộc xây dựng một xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh ở Việt Nam.8

1.2.2. Đặc điểm và tính chất của nghề luật sư
I.2.2.I. Đặc điểm của nghề luật sư
Nghề luật sư rất chú ý đến vai trò cá nhân, uy tín nghề nghiệp của luật sư và
phương thức tự do trong hành nghề luật sư . Nhiều ý kiến quan niệm nghề luật sư có
những điểm tương đồng với nghề bác sỹ9. Nghề luật sư cần có kiến thức pháp luật,
thông thạo nghề nghiệp để chăm sóc những “con bệnh pháp luật” của mình10. Có
quan niệm cho rằng: “Nghề luật sư đòi hỏi tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cao,
tương tự như nghề y. Luật sư mang trên vai gánh nặng niềm tin mà xã hội và khách
hàng ủy thác cho họ. Nếu như người bệnh tin tưởng, phó thác sức khỏe và cuộc
sống của mình vào người bác sỹ vì người bệnh hy vọng rằng chính bác sỹ mới là
người có đủ khả năng cứu giúp họ thì cũng tương tự như vậy, khách hàng đặt quyền
lợi vật chất hoặc cao hơn nữa là sinh mạng chính trị, tự do, danh dự, nhân
phẩm...của mình vào người luật sư”. Cách nhìn và so sánh như trên được nhiều
người tán đồng. Đã có một số tác giả đề cập đến các đặc trưng của nghề luật nói
chung, nhưng đối với nghề luật sư, việc xác định các đặc điểm riêng có cần phải
xuất phát từ bản chất, vị trí, vai trò của nghề luật sư trong toàn bộ các định chế
chính trị và tư pháp ở thượng tàng kiến trúc và các quan niệm mang tính phổ biến
được hình thành trong lịch sử thế giới và ở Việt Nam. Theo quan niệm đó, ta có thể
hiểu đặc điểm của nghề luật sư ưên các bình diện sau đây:
- Nghề luật sư trước hết là một nghề luật: Nói nghề luật sư là một nghề
luật trước hết nhằm để phân biệt vói các nghề khác trong xã hội. Như vậy, nói tới
nghề luật là nói tới công việc chuyên môn của những người hoạt động liên quan đến
pháp luật, như nghề thẩm phán, công tố, công an, công chứng... Tuy nhiên, nghề
luật sư có những khác biệt với những nghề liên quan đến pháp luật nói hên không
chỉ ở chức năng, theo sự phân công của xã hội, mà còn ở chỗ nó được thể hiện qua
Đặc san tuyên truyền pháp luật số 04: Chủ đề luật sư và pháp luật về luật sư,
Hà Nội. 2010, tr 12
GVHD: Th.s Võ Duy Nam
10
9 Tạp chí Dân chù và Pháp luật: số chuyên đề về Pháp lệnh luật sư năm 2001,

8


11 Phan Trung Hoài (chủ biên): vấn đề hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia,

Luận văn tất nghiệp Quản lý Nhà nước đối vói luật sư và nghề luật sư ở Việt Nội.20047tr 85
- 86
Nam
12 Phan
Trung
Hoài
(chủ biên):các phương thức hành nghề một cách tự do. Luật sư không phải là một công chức, vấn đề hoàn
thiện phápkhông phải là một chức vụ được đề cử hoặc đề bạt, mà là một danh xưng được đặt luật về luật sư

Việt
Nam,
Nxb.
Chính trịra theo sự phát triển của lịch sử và được pháp lý hóa. Nghề luật sư bao hàm ý nghĩa quốc
gia,

Nội.2004~ tr
86 - 87
chỉ những người hội đủ điều kiện theo quy định của pháp luật mới được phép hành
nghề luật sư. Điều này cũng phân biệt một số trường hợp được coi là người bào
chữa hoặc là người đại diện theo ủy quyền như quy định trong pháp luật tố tụng
(như bào chữa viên nhân dân, người thân thích của bị can, bị cáo...) nhưng không
phải là người hoạt động trong nghề luật sư nhằm giúp cho quá trình hành nghề được
hợp pháp11.
- Nghề luật sư mang tính chất dịch vụ: Tính chất dịch vụ của nghề luật sư
không phải đã được thừa nhận rộng rãi. Nhiều người quan niệm không nên đề cập

đến tính chất dịch vụ như một trong những đặc điểm của nghề luật sư bởi sự cao
quý của nghề nghiệp này. Hơn nữa, hiểu dịch vụ như là “đổi trao, mua bán” thứ
hàng hóa là “kiến thức - kỹ năng pháp luật” sẽ hạ thấp vai trò của luật sư trong việc
thúc đẩy sự phát triển dân chủ trong hoạt động tư pháp và xã hội nói chung.
Tính chất dịch vụ của nghề luật sư là một loại dịch vụ đặc biệt, khác với
quan niệm về dịch vụ thông thường. Trong Bộ luật dân sự Việt Nam, hợp đồng dịch
vụ được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên làm dịch vụ thực hiện một
công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ phải trả tiền công cho bên làm
dịch vụ. Đối tượng của hợp đồng dịch vụ phải là công việc có thể thực hiện được,
không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội. Theo Điều 527 Bộ luật dân sự,
“bên thuê dịch vụ phải trả tiền công theo thỏa thuận, khi công việc đã hoàn thành;
nếu không thỏa thuận về mức tiền công, thì mức tiền công là mức trung bình đối với
công việc cùng loại tại thời điểm và địa điểm hoàn thành công việc”. Vì vậy, khi coi
nghề luật sư mang tính chất dịch vụ, có nghĩa là nói đến khía cạnh dịch vụ pháp lý
hiểu theo nghĩa ở trên. Vì là dịch vụ nên Pháp lệnh luật sư cũng như Luật luật sư
quy định “khách hàng phải trả thù lao khi sử dụng dịch vụ pháp lý của Văn phòng
luật sư, Công ty luật hợp danh”, đồng thời quy định rõ căn cứ và phương pháp tính
thù lao12.

GVHD: Th.s Võ Duy Nam

11

SVTH: Trần Vũ Nguyên


13 Phan Trung Hoài (chủ biên): vấn đề hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia,

Nội.2004~ tr
Luận văn tất nghiệp Quản lý Nhà nước đối vói luật sư và nghề luật sư ở Việt

88 - 89
Nam
- Nghề luật sư gắn liền với số phận con người: Có thể nói, nghề luật sư,
cũng như các nghề luật khác, từ bao đời nay được coi là một nghề nghiệp gắn bó
với số phận của con người. Đồng chí Lê Duẩn từng căn dặn cán bộ ngành Kiểm sát,
Tòa án, Công an: “Lý tưởng của chúng ta là chống áp bức, bóc lột, một lòng một dạ
vì nhân dân mà phục vụ. Phải thấu suốt lý tưởng đó, kiên quyết không dung thứ
những điều oan ức và không làm điều oan cho bất cứ một ai. Một người bị tội oan,
chẳng những người ấy đau khổ, mà gia đình con cái họ càng đau khổ hom. Làm điều
oan cho một người nào đó thì chúng ta không còn lẽ sống nữa, bởi vì chúng ta là
những người cộng sản. Cán bộ các ngành Công an, Tòa án, Kiểm sát phải thấy hết
trách nhiệm cao cả và nặng nề của mình” (phát biểu tại Hội nghị toàn ngành Kiểm
sát tháng 3-1967). Phần nhiều các ý kiến đều quan niệm luật sư có nhiệm vụ bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo đồng thời với nhiệm vụ bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa, tôn trọng sự thật và pháp luật. Hai nhiệm vụ trên không
mâu thuẫn với nhau, trái lại gắn bó hữu cơ và mật thiết với nhau13.
- Nghề luật sư hoạt động dựa trên pháp luật và quy chế trách nhiệm
nghề nghiệp: Cũng như bất cứ hoạt động nghề nghiệp nào khác, nền tảng hoạt động
của nghề luật sư phải dựa trên pháp luật và các quy chế trách nhiệm nghề nghiệp.
Pháp luật về luật sư được coi là hệ thống các quy phạm pháp luật xác định vị trí, vai
trò của luật sư trong xã hội, quy định các quyền và nghĩa vụ của luật sư trong hành
nghề, phạm vi quản lý Nhà nước đối vói hoạt động luật sư và tính tự quản trong tổ
chức nghề nghiệp luật sư; xử lý vi phạm trong hoạt động nghề nghiệp...
Tuy đối tượng và phạm vi điều chỉnh của pháp luật và quy chế trách nhiệm
nghề nghiệp luật sư có khác nhau, nhưng giữa chúng có mối liên hệ mật thiết và chi
phối lẫn nhau. Pháp luật về luật sư có tác dụng như “hành lang”, “khuôn mẫu
chung” cho luật sư hoạt động với các quyền và nghĩa vụ cụ thể trước pháp luật, còn
quy chế trách nhiệm nghề nghiệp luật sư lại chủ yếu điều chỉnh hành vi ứng xử của
luật sư trong hoạt động nghề nghiệp và trong xã hội, tuy không hoàn toàn mang tính
bắt buộc nhưng cũng đòi hỏi phải được sự tôn trọng từ phía các luật sư. Trong nhiều

trường họp, đối với nghề nghiệp luật sư, các quy tắc ứng xử thuộc về phạm trù đạo
đức lại chi phối và có tác động lớn lao đến uy tín, danh dự của luật sư và ảnh hưởng
chi phối rất nhiều đến chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Sự cộng hưởng

GVHD: Th.s Võ Duy Nam

12

SVTH: Trần Vũ Nguyên


14 Phan Trung Hoài (chủ biên): vấn đề hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia,

Nội.2004~ tr
Luận văn tất nghiệp Quản lý Nhà nước đối vói luật sư và nghề luật sư ở Việt
89 - 90
Nam
qua lại giữa pháp luật và quy tắc trách nhiệm nghề nghiệp trong hoạt động của luật
sư là một trong những minh chứng cho mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức nói
chung. Cho nên khi xem xét mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức nói chung,
người ta không thể không đề cập đến một vấn đề lý luận rất quan trọng là với sự
trùng khớp về nội hàm của hai khái niệm này trong mục đích điều chỉnh hành vi của
xã hội, cần phải nhìn thấy “tính pháp lý” của các quy phạm đạo đức và “tính đạo
đức” của các quy phạm pháp luật. Nhìn lại lịch sử hình thành và phát triển của pháp
luật Việt Nam nói chung và pháp luật về bảo đảm quyền bào chữa của công dân, về
luật sư nói riêng, đã có một giai đoạn khá dài trong lịch sử, nhiều quan hệ xã hội
được điều chỉnh chủ yếu bằng các hương ước, luật tục và trong nhiều trường hợp,
tính “vượt trội” của thứ lệ làng này cao hơn phép nước. Các quy phạm xã hội như
hương ước, luật tục đã không chỉ tồn tại dưới dạng truyền khẩu, bất thành văn, mà
đã được nâng lên một bước với việc được in ấn dưới nhiều hình thức khác nhau.

Nói cách khác, các quyui phạm xã hội này được “luật hóa” thông qua việc thể hiện
bằng các văn bản mang tính chế ước, có tác dụng cưỡng chế nhất định, thứ cưỡng
chế không xuất phát từ quyền lực Nhà nước. Ở chiều ngược lại, nhiều quy phạm
pháp luật lại mang tính định hướng, giáo dục hơn là răn đe, trùng phạt14.
- Nghề luật sư là hoạt động mang tính quốc tế: Ngày nay, cùng với sự phát
triển kinh tế và chủ động hội nhập đời sống quốc tế, luật sư các nước trên thế giới
đã mở rộng phạm vi và lĩnh vực hoạt động ra khỏi biên giới quốc gia, đóng một vai
trò ngày càng quan trọng trong việc thúc đẩy các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội
giữa các nước. Người ta đã quen với hình ảnh bên cạnh các doanh nghiệp quốc tế
đến làm ăn tại Việt Nam có một đội ngũ luật sư giúp tư vấn và soạn thảo hợp đồng,
tham gia giải quyết tranh chấp. Các hiệp ước song phương và đa phương ký kết
giữa các nước có sự tham gia soạn thảo của các luật sư giàu kinh nghiệm. Trong
điều kiện đất nước chủ động tham gia tiến trình hội nhập quốc tế, Việt Nam đã ban
hành nhiều văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động hành nghề tư vấn pháp luật của
tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam, theo đó các luật sư nước ngoài chỉ được tư
vấn về pháp luật nước ngoài, pháp luật quốc tế trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh,
thương mại, không được tư vấn pháp luật Việt Nam, không tham gia tố tụng trước
Tòa án Việt Nam. Nhiều luật sư Việt Nam đã tham gia giải quyết các vụ kiện tranh

GVHD: Th.s Võ Duy Nam

13

SVTH: Trần Vũ Nguyên


15 15 Phan Trung Hoài (chủ biên): vấn đề hoàn thiện pháp luật về luật sư ờ Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc
gia,
HàLuận văn tất nghiệp Quản lý Nhà nước đối vói luật sư và nghề luật sư ở Việt
Nội.2004, tr 91 92

Nam
chấp có yếu tố nước ngoài tại các Tòa án, trọng tài quốc tế... Pháp lệnh luật sư năm
2001 cũng như Luật luật sư năm 2006 đã cho phép các Văn phòng luật sư, Công ty
luật hợp danh được thuê luật sư nước ngoài, hợp tác với tổ chức luật sư nước ngoài
theo quy định của pháp luật về hành nghề của luật sư nước ngoài tại Việt Nam; đặt
cơ sở hành nghề ở nước ngoài theo quy định của Chính phủ. Nghị định số
94/2001/NĐ-CP ngày 12-12-2001 cũng như Nghị định số 28/2007/NĐ-CP ngày 2602-2007 của Chính phủ đã quy định chi tiết các điều kiện mà tổ chức hành nghề luật
sư được đặt cơ sở hành nghề ở nước ngoài, cũng như cử luật sư thực hiện dịch vụ
pháp lý ở nước ngoài. Các quy định pháp lý nêu trên đã mở ra khả năng to lớn cho
việc nâng cao sức cạnh tranh của đội ngũ luật sư Việt Nam trên trường quốc tế15.
I.2.2.2. Tính chất của nghề luật sư
- Tính chất trợ giúp; Do sự phát triển không đồng đều cả về đời sống vật
chất lẫn tinh thần, bất kỳ xã hội nào trong cộng đồng dân cư cũng tồn tại những
người rơi vào vị thế thấp kém so với mặc bằng xã hội như người nghèo, người già
đơn côi, người chưa thành niên mà không có sự đùm bọc của gia đình. Những người
ở vào vị thế thấp kém này thường bị ức hiếp, bị đối xử bất công trái pháp luật và rất
cần sự giúp đỡ, bênh vực của những người khác và đặc biệt cần sự trợ giúp hoàn
toàn vô tư, không vụ lợi của luật sư. Ở thời kỳ cổ đại, những người dám đứng ra
bênh vực, trợ giúp các đối tượng bị ức hiếp được xã hội tôn vinh như là các “hiệp
sỹ”. Ngày nay, xã hội loài người đã phát triển nhưng ở nhiều nước, ở nhiều địa
phương vẫn tồn tại những người ở vào vị thế thấp kém, vẫn tồn tại sự ức hiếp, sự
đối xử bất công. Hoạt động trợ giúp của luật sư đối với những đối tượng này không
chỉ là bổn phận mà còn là thước đo lòng nhân ái và đạo đức của luật sư. Tuy nhiên
nếu xem xét ở góc độ quyền con người thì đối tượng trợ giúp của luật sư không chỉ
là những người ở vào vị thế thấp kém, nghèo khổ thường bị ức hiếp, bị đối xử bất
công trái pháp luật mà là tất cả mọi người có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm không kể giàu có hay sang hèn đều là đối tượng trợ giúp của luật sư.
- Tính chất hướng dẫn: Tính chất nghề nghiệp đòi hỏi luật sư không chỉ
thông hiểu pháp luật hiện hành mà còn hiểu biết cả tinh thần, nội dung những quy
định của pháp luật ở từng thời điểm của thời gian đã qua. Luật sư còn phải hiểu sâu

rộng cả tục lệ và bản sắc văn hoá của dân tộc. Mọi người hiểu và nghĩ về luật sư

GVHD: Th.s Võ Duy Nam

14

SVTH: Trần Vũ Nguyên


Luận văn tất nghiệp Quản lý Nhà nước đối vói luật sư và nghề luật sư ở Việt
Nam
như vậy, cho nên mỗi khi bản thân hoặc gia đình có điều gì vướng mắc có liên quan
đến pháp luật,cách cư xử... đều tìm đến luật sư, nhờ luật sư tư vấn. Vì vậy, hoạt
động của luật sư luôn luôn có tính chất hướng dẫn. Yêu cầu của hoạt động này là
hướng dẫn cho đưomg sự hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp luật để biết cách
xử sự tháo gỡ vướng mắc của họ phù hợp với pháp lý và đạo lý.
- Tính chất phản biện: Tính chất phản biện trong hoạt động của luật sư là
những biện luận nhằm phản bác lại lý lẽ, ý kiến quan điểm của người khác mà mình
cho là không phù hợp với pháp lý và đạo lý. Tính chất phản biện trong hoạt động
của luật sư, thông thường thể hiện ở lĩnh vực tố tụng, đặc biệt là trong tố tụng hình
sự. Điều 36, khoản 3 Bộ Luật tố tụng hình sự hiện hành quy định: “Người bào chữa
có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình
tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
bị can, bị cáo; giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ”. Phản biện là phải dựa trên sự thông hiểu tường tận về pháp lý và đạo
lý. Hoạt động phản biện của luật sư là lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn
mực để xem xét mọi khía cạnh của sự việc nhằm xác định rõ phải trái, đúng sai.. .từ
đó đề xuất những biện pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải,loại bỏ cái sai, bảo vệ công lý.
1.3. Quan điểm quản lý và nguyên tắc quản lý Nhà nước về nghề luật sư
1.3.1. Khái niệm về quản lý nhà nước

Trước khi đi vào tìm hiểu khái niệm “quản lý nhà nước” ta cần phải xác định
rõ khái niệm “quản lý” là gì? Rồi mới đi vào tìm hiểu thế nào là quản lý nhà nước.
Như vậy, quản lý nói chung là quá trình tổ chức, điều hành các hoạt động nhằm đạt
được những mục tiêu và yêu cầu nhất định dựa trên những quy luật khách quan.
Tuy nhiên hiện nay vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm “quản lý nhà
nước”.
Quản lý nhà nước theo nghĩa rộng : là hoạt động tổ chức, điều hành của cả
bộ máy nhà nước, nghĩa là bao hàm cả sự tác động, tổ chức của quyền lực nhà nước
trên các phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo cách hiểu này, quản lý
nhà nước được đặt trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm
chủ”.
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, thì quản lý nhà nước là quá trình tổ chức,điều hành
của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi
SVTH: Trần Vũ Nguyên
GVHD: Th.s Võ Duy Nam
15


Luận văn tất nghiệp Quản lý Nhà nước đối vói luật sư và nghề luật sư ở Việt
Nam
hoạt động của con người theo pháp luật nhằm đạt được những mục tiêu yêu cầu
nhiệm vụ quản lý nhà nước. Đồng thòi, các cơ quan nhà nước nói chung còn thực
hiện các hoạt động có tính chất chấp hành, điều hành, tính chất hành chính nhà nước
nhằm xây dựng tổ chức bộ máy và củng cố chế độ công tác nội bộ của mình. Neu
hiểu theo nghĩa hẹp thì khái niệm “quản lý nhà nước” sẽ đồng nghĩa với khái niệm
“quản lý hành chánh nhà nước”.
1.3.2. Quan điểm quản lý
Cũng như Pháp lệnh luật sư năm 2001, Luật Luật sư quy định nguyên tắc kết
hợp quản lý nhà nước với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp
của luật sư. Trên cơ sở phân định rõ trách nhiệm quản lý của Nhà nước và trách

nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, cơ quan quản lý nhà
nước chỉ thực hiện những công việc thuộc về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Nhà nước, còn những vấn đề về quản lý nghề nghiệp thì giao cho tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư thực hiện. Với mục đích tạo cơ sở pháp lý để phát huy chế
độ tự quản của tổ chức luật sư, Luật luật sư quy định hoàn chỉnh hệ thống tổ chức
xã hội - nghề nghiệp của luật sư bao gồm Tổ chức luật sư toàn quốc và Đoàn luật sư
ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cũng như chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của các tổ chức này. Quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư thể hiện
chức năng định hướng, điều tiết và hỗ trợ phát triển của Nhà nước đối với nghề luật
sư, chứ không mang tính chất hành chính, không can thiệp vào hoạt động nghề
nghiệp của luật sư. Tính chất của quản lý nhà nước, về cơ bản, là phù hợp với thực
tiễn nghề luật sư ở nước ta, cũng như thông lệ mà một số nước trên thế giới áp
dụng.
Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư thực hiện các công việc thể hiện
vai trò tự quản của mình như: đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư
thành viên trong hành nghề; giám sát việc tuân theo pháp luật, Quy tắc đạo đức và
ứng xử nghề nghiệp luật sư, Quy chế tập sự hành nghề luật sư của luật sư, người tập
sự hành nghề luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
cho các luật sư thành viên; tập hợp, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của các luật sư;
hoà giải tranh chấp, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền.
Trong hoạt động quản lý luật sư và hành nghề luật sư, giữa cơ quan quản lý
nhà nước và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư có sự phối hợp trong việc thực
GVHD: Th.s Võ Duy Nam

16

SVTH: Trần Vũ Nguyên


Luận văn tất nghiệp Quản lý Nhà nước đối vói luật sư và nghề luật sư ở Việt
Nam

hiện một số công việc như: đào tạo nghề luật sư; soạn thảo và ban hành Quy chế tập
sự hành nghề luật sư; tổ chức kiểm ha kết quả tập sự hành nghề luật sư; giải quyết
khiếu nại về kỷ luật của luật sư.
1.3.3. Nguyên tác quản lý
- Quản lý bằng pháp luật: Nhà nước thực hiện chức năng quản lý thông qua
việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về tổ chức và hành nghề
luật sư; hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó; xử lý theo thẩm quyền và
hình thức đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm các văn bản đó.
- Bảo đảm tính độc lập và tự trách nhiệm của luật sư: Nhà nước không can
thiệp vào công việc hành nghề của luật sư bằng mệnh lệnh, quyết định hành chính
hoặc tác động bằng các hình thức khác làm ảnh hưởng đến độc lập và khách quan
của luật sư khi hành nghề.
- Tuân theo các nguyên tắc, yêu cầu cải cách hành chính: Nhà nước chỉ nắm
những vấn đề quan trọng, không bao biện làm thay luật sư và tổ chức luật sư.
Cương quyết cắt bỏ những thủ tục hành chính rườm rà, cho luật sư và tổ chức luật
sư, gây khó khăn,cản trở cho việc hành nghề chính đáng của họ.
- Ket hợp quản lý Nhà nước với phát huy vai trò tự quản của tổ chức luật sư:
Cùng với việc tăng cường quản lý Nhà nước, cần phát huy tốt vai trò tự quản của
các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. cần phải có cơ chế, phương thức kết
hợp quản lý Nhà nước với vai trò tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sư,
nhằm hướng tói mục tiêu chung là phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ pháp lý
của luật sư cho nhân dân, góp phàn bảo về công lý, phát triển kinh tế và xây dựng
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tóm lại, Luật luật sư đã chuyển giao một số nhiệm vụ, quyền hạn mà từ
trước tới nay do cơ quan quản lý nhà nước thực hiện sang cho Tổ chức luật sư toàn
quốc hoặc các Đoàn luật sư và quy định cụ thể sự phối hợp giữa cơ quan quản lý
nhà nước và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư trong một số công việc cụ thể.
Điều này tạo điều kiện để tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư có thể phát huy
tốt nhất vai trò tự quản của mình, từng bước chuyên nghiệp hoá tổ chức và hoạt
động hành nghề luật sư.

1.4. Lịch sử hình thành và phát triển nghề luật sư
GVHD: Th.s Võ Duy Nam

17

SVTH: Trần Vũ Nguyên


Luận văn tất nghiệp Quản lý Nhà nước đối vói luật sư và nghề luật sư ở Việt
Nam
Ở châu Âu vào thời Hy Lạp, La Mã cổ đại, nghề luật sư đã xuất hiện trong
đời sống xã hội. Sử sách kể lại rằng, vào khoảng thế kỷ thứ V trước Công nguyên,
trong nhà nước Hy Lạp cổ, tổ chức toà án đã được hình thành và việc xét xử có sự
tham gia của người dân. Nguyên cáo hoặc bị cáo có thể tự trình bày ý kiến, lý lẽ của
mình trước Toà hoặc nhờ người khác có tài hùng biện trình bày hộ ý kiến, lý lẽ bảo
vệ hoặc bào chữa. Vào thời đó, việc bào chữa xuất phát tự nhiên nhằm minh oan
cho bạn bè hoặc người thân bị chính quyền bắt giam, trừng phạt một cách độc đoán
và vô cớ. Còn ở La Mã cổ đại, phiên toà thường có sự tham gia của các nhà chuyên
môn, người am hiểu pháp luật để nhắc nhỡ những quy tắc tôn giáo để tránh việc
viện dẫn sai hoặc vi phạm thủ tục tố tụng; xã hội dần dần hình thành một nhóm
người chuyên sâu, am hiểu về pháp luật và việc diễn giải pháp luật của họ được xem
xét như hoạt động nghề nghiệp. Từ đó, hoạt động của luật sư được chấp nhận và uy
tín của họ trong xã hội ngày càng được nâng cao, nghề luật sư được xem như một
nghề vinh quang trong xã hội. Khi châu Âu chuyển sang thời kỳ Trung cổ với các
triều đại phong kiến phân quyền cát cứ, Toà án và chế độ luật sư ở các nước được
xây dựng dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm mục đích phục vụ tôn giáo và chế
độ phong kiến. Luật sư thời ký này không thể hiện rõ và đầy đủ các tính chất nghề
nghiệp của họ, vai trò của luật sư bị hạn chế và bóp nghẹt bởi chế độ xã hội chuyên
quyền hà khắc. Bước sang chế độ tư bản, nghề luật sư được tổ chức chặt chẽ với
những điều kiện khắt khe nhằm bảo vệ quyền lợi riêng cho một bộ phận người xuất

thân từ giai cấp tư sản. Dần dần, các cuộc đấu tranh vì dân chủ, bình đẳng diễn ra
thường xuyên đã buộc chính quyền các nước tư sản phải mở rộng quyền dân chủ
cho người dân, nhu cầu của người dân đối với việc được đảm bảo quyền và lợi ích
của mình trên cơ sở các quy định pháp luật luôn thường trực. Nghề luật sư thể hiện
vai trò to lớn của mình, dần hình thành một nghề tự do.
Nghề luật sư ở một số nước vẫn còn phân ra hai loại: luật sư biện hộ và luật
sư tư vấn. Điển hình là các nước Anh, úc, Hong Kong. Sự phân chia chức năng
giữa luật sư tư vấn và luật sư biện hộ đã tạo điều kiện cho luật sư tư vấn thực hiện
công việc theo yêu cầu của khách hàng mà phần lớn công việc này không liên quan
đến công việc tại tòa án. Đồng thời nó cũng giúp cho luật sư biện hộ có vị trí vững
chắc, ổn định tại Tòa, không bị xao lãng vì giải quyết những vụ thường của khách
hàng. Sự phân chia này xuất phát từ phạm vi công việc như chủ yếu là do thông lệ,
GVHD: Th.s Võ Duy Nam

18

SVTH: Trần Vũ Nguyên


Luận văn tất nghiệp Quản lý Nhà nước đối vói luật sư và nghề luật sư ở Việt
Nam
phong tục, tập quán. Nhưng hiện nay đa số các nước trên thế giới không có sự phân
chia luật sư thành hai loại luật sư biện hộ và luật sư tư vấn mà theo xu hướng sáp
nhập lại hai loại đó thành một hoặc có sự phân chia không rõ ràng. Có nghĩa là cho
phép một người có thể đồng thời được công nhận là luật sư tư vấn và luật sư biện
hộ, hoặc cho phép luật sư tư vấn tham gia biện hộ trước tòa án với phạm vi ngày
càng mở rộng. Pháp là một ví dụ điển hình về việc sáp nhập hai loại hình luật sư tư
vấn và luật sư biện hộ.
Hiện nay, ở các nước phát triển, nghề luật sư lại càng được trân trọng, và
thực sự nghề luật sư, bằng tính chất và đòi hỏi đặc thù của nghề nghiệp luôn là một

trong những nghề được yêu thích nhất. Ở Mỹ, rất nhiều vị tổng thống xuất thân là
luật sư, nhiều chính trị gia của nước này đã từng là luật sư trước khi bước vào chính
trường. Nói đến thu nhập, nghề luật sư luôn là nghề có thu nhập dẫn đầu ở các nước
phát triển như Mỹ và châu Âu. Theo thống kê trong năm 2009 của Tạp chí Fortune,
trong số 10 tập đoàn trả lưomg cho nhân viên cao nhất toàn cầu thì các công ty luật
đã chiếm đến con số 6, bao gồm: Baker Donelson, Bingham McCutchen, Alston &
Bữd, Perkins Coie, Amold & Porter và Orrick, Henington & Sutcliffe. Trong đó,
Baker Donelson đứng số một toàn cầu về việc trả lương cao nhất cho nhân viên của
mình.
1.4.2. Lịch sử hình thành và phát triển nghề luật sư ở Việt Nam
Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Sau khi xâm lược Nam kỳ, ngày 26/11/1876 người Pháp đã ban hành Nghị
định về việc biện hộ cho người Pháp hoặc người Việt mang quốc tịch Pháp tại Tòa
án Pháp. Từ đó nghề luật sư mới chính thức xuất hiện ở nước ta, còn trước đây, việc
xét xử của chính quyền phong kiến Việt Nam do vua, quan phong kiến thực hiện mà
không có sự bào chữa, bảo vệ. Năm 1884, sau khi thiết lập bộ máy cai trị trên toàn
lãnh thổ Việt Nam, Toàn quyền Pháp ký sắc lệnh thành lập Luật sư Đoàn tại Sài
Gòn và Hà Nội gồm các luật sư người Pháp và người Việt đã nhập quốc tịch Pháp.
Các luật sư chỉ biện hộ trước Tòa án Pháp cho người Pháp hoặc người có quốc tịch
Pháp. Sau đó, với sắc lệnh ngày 30/1/1911, nhà cầm quyền Pháp đã mở rộng cho
người Việt Nam không có quốc tịch Pháp được làm luật sư. Tiến thêm một bước,
nhà cầm quyền Pháp ký sắc lệnh ngày 25/5//930 về tổ chức Luật sư đoàn ở Hà Nội,
Sài Gòn và Đà Nang, sắc lệnh này đã mở rộng cho các luật sư không chỉ biện hộ ở
SVTH: Trần Vũ Nguyên
GVHD: Th.s Võ Duy Nam
19


Luận văn tất nghiệp Quản lý Nhà nước đối vói luật sư và nghề luật sư ở Việt
Nam

tòa án Pháp mà cả trước Toà án Việt Nam; không chỉ bào chữa cho người có quốc
tịch Pháp mà cả người không có quốc tịch Pháp. Có một chi tiết khá thú vị là, người
Việt Nam đầu tiên làm luật sư là ông Phan Văn Trường (1876 - 1933). Ông là người
Từ Liêm, Hà Nội, tốt nghiệp Đại học luật và làm luật sư tại Paris, một nhà yêu
nước. Con đường có trụ sở Học viện Tư pháp tọa lạc mang tên Phan Văn Trường.
Giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
Khi cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân dân thì bộ
máy tư pháp nước ta cũng được tổ chức lại. Hơn một tháng sau khi Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là người đứng
đầu chính quyền mới đã ký sắc lệnh số 46/SL ngày 10-10-1945 về tổ chức đoàn thể
luật sư. Sắc lệnh số 46/SL duy trì tổ chức luật sư cũ trong đó có sự vận dụng linh
hoạt các quy định pháp luật cũ về luật sư nhưng không trái với nguyên tắc độc lập
và chính thể dân chủ cộng hoà. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm
1946 khẳng định quyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân, cụ
thể Điều 67 của Hiến Pháp quy định "Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy
hoặc mượn luật sư”.
Sau ngày thống nhất đất nước, với yêu cầu khách quan, mang tính sống còn
là phải đổi mói, xoá bỏ cơ chế quan liêu-bao cấp và mở rộng dân chủ trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IV năm 1986 đã
mở đầu một thời kỳ lịch sử mới xây dựng đất nước, thời kỳ đổi mới. Đường lối đổi
mới do Đại hội vạch ra đã tác động sâu rộng đến mọi mặt hoạt động trong xã hội,
trong đó có hoạt động tư pháp. Các đạo luật về tố tụng được ban hành theo hướng
mở rộng dân chủ trong tố tụng, trong đó có việc tăng cường bảo đảm quyền bào
chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trước Toà án và các cơ
quan tố tụng khác. Đó cũng chính là tiền đề quan trọng để vực dậy mạnh mẽ hơn
nghề luật sư ở nước ta. Trong bối cảnh đó, Pháp lệnh tổ chức luật sư được ban hành
ngày 18/12/1987. Có thể nói, đây là văn bản pháp luật có ý nghĩa lịch sử trong việc
khôi phục nghề luật sư và mở đầu cho quá trình phát triển nghề luật sư ở nước ta
trong thời kỳ đổi mới. Pháp lệnh quy định rõ tiêu chuẩn được công nhận là luật sư,
chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực giúp đỡ pháp lý của luật sư và tổ chức các Đoàn

luật sư ở các tỉnh, thanh phố trực thuộc Trung ương.

GVHD: Th.s Võ Duy Nam

20

SVTH: Trần Vũ Nguyên


×