Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận cao học, tìm hiểu về đảng dân chủ mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.36 KB, 23 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử chính trị của thế giới, đã ra đời rất nhiều đảng chính trị
lớn và lâu đời,hiện nay một số đảng đã ngừng hoạt động nhưng có rất nhiều
đảng vẫn tiếp tục phát triển và ngày càng lớn mạnh có tầm ảnh hưởng rất
lớn đến khu vực và trên thế giới,trong số đó không thể không kể đến Đảng
chính trị của nước Mỹ.Ở nước Mỹ thì có rất nhiều đảng phái chính trị khác
nhau,nhưng từ trước đến nay chỉ có hai đảng lớn nắm quyền là đảng Dân
chủ và Cộng hòa,hai đảng này luôn chiếm ưu thế về ở mọi cấp độ chính
quyền và luôn khống chế nền chính trị Mỹ thay nhau nắm quyền trong suốt
155 năm qua.Cuộc ganh đua giữa hai đảng Dân chủ và Cộng hòa là một
trong những đặc điểm nổi bật phản ánh đặc trưng về mặt cơ cấu của hệ
thống chính trị nước Mỹ và sự khác biệt về mặt đảng phái của Mỹ so với
các nước khác.
Trong lịch sử chính trị nước Mỹ, thì Đảng Dân chủ là một trong
những đảng chính trị lớn nhất,ra đời sớm và tồn tại lâu đời nhất,đảng từ khi
thành lập cho đến nay luôn là một nhân tố quan trọng hàng đầu cấu thành
nên hệ thống và thể chế chính trị của Mỹ và có một vai trò vô cùng quan
trọng hệ thống chính trị nước Mỹ. Với thắng lợi trong cuộc bầu cử vào cuối
năm 2008,Đảng Dân chủ với ứng cử viên tổng thống là Barack Obama
giành lại quyên kiểm soát nhà trắng sau 8 năm rơi vào tay Đảng Cộng
hòa,đồng thời giành quyền kiểm soát ở cơ quan lập pháp cả ở Thượng viện
và Hạ viện,và đến năm 2012 vừa qua,tổng thống barack Obama đã tái đắc
cử tổng thống trong cuộc bầu cử đầy kịch tính,khẳng định uy thế lớn mạnh
của Đảng Dân chủ.
Chính vì lý do trên,để hiểu rõ hơn về Đảng Dân chủ Mỹ, tôi lựa chọn
đề tài “ Tìm hiểu về Đảng Dân chủ Mỹ”.

1



2. Mục đích –yêu cầu:
 Mục đích: Giúp mọi người hiểu rõ về Đảng Dân chủ mỹ,từ đấy sẽ quan
tâm hơn đến tình hình chính trị thế giới hơn.
 Yêu cầu: Nắm vững được những vấn đề cốt lõi về Đảng Dân chủ Mỹ.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Tìm hiểu về Đảng Dân chủ Mỹ.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Kết hợp phương pháp logic với tổng hợp,phân tích,chứng minh,so
sánh.
5. Phạm vi nghiên cứu:
Những tài liệu cùng hệ thống tư liệu về Đảng Dân chủ Mỹ.
6. Kết cấu tiểu luận:





Gồm có 3 chương:
Chương I: Giới thiệu chung
Chương II: Những nét cơ bản về Đảng Dân chủ Mỹ
Chương III: Vai trò của Đảng Dân chủ Mỹ

2


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CHUNG
Hợp chúng quốc Hoa Kỳ là tên đầy đủ của Hoa Kỳ hay còn gọi là
nước Mỹ,được thành lập khi 13 nước thuộc địa cũ của Anh tại Bắc Mỹ
tuyên bố vào năm 1776 rằng họ là những bang tự do và độc lập.Từ giữa thế

kỉ XX,quốc gia náy đã vượt qua tất cả các nước khác về lĩnh vực kinh
tế,chính trị,quân sự và ảnh hưởng về văn hóa.
Hoa Kỳ được thành lập theo truyền thống chính phủ dân cư kiểu dân
chủ đại nghị (có tổng thống và quốc hội).Từ đó ở nhiều quốc gia,phần
nhiều ở Trung Mỹ và Nam Mỹ đã chịu ảnh hưởng của hệ thống này.Sau
tuyên ngôn độc lập,13 thuộc địa đầu tiên trở thành quốc gia theo kiểu các
quốc gia châu Âu vào thời đó.Trong các năm sau đó tiểu bang ở Hoa Kỳ
dần dần tăng lên hiện nay số bang lên tới 50.Các tiểu bang đều được chia
thánh nhiều khu vực hành chính nhỏ hơn,kể cả quận và thành phố.
Về hệ thống chính trị,Mỹ là một khối liên hiệp của nhiều bang (50
bang) lập nên theo Hiến pháp năm 1789.Thủ đô của Mỹ là Washington D.C
không phải là một bang hay một phần của bang nào,mà là một khu vực đặc
biệt dàng riêng cho chính phủ quốc gia.Ở Mỹ,mỗi bang có một chính phủ
riêng,thủ phủ riêng và trong mỗi bang lại có nhiều cơ quan chính quyền địa
phương nhỏ hơn nữa như: quận,hạt,tỉnh,thị trấn và xã.
Trong nền chính trị Mỹ đương đại, có hàng trăm đảng phái chính trị
đang tồn tại và hoạt động,nhưng thực tế chỉ có hai đảng lớn nắm vai trò chủ
chốt xuyên suốt chiều dài lịch sử là Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa thay
nhau cầm quyền ở hầu như tất cả các cấp từ liên bang,bang đến địa
phương.Các đảng nhỏ khác chỉ có thể tham gia vào đời sống chính trị ở mức
độ hạn chế,có thể thắng cử ở vài cấp chính quyền địa phương nhưng không
có khả năng làm thay đổi nền tảng chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa ở Mỹ.
3


Giữa hai đảng này có rất ít khác biệt về ý thức hệ,cả hai đảng đều bảo
vệ chế độ tự do kinh doanh,một chế độ mà hầu hết mà hầu hết người Mỹ
chấp nhận và xem đó như nền tảng của xã hộ Mỹ. Hai đảng này thực chất
là những đảng bầu cử, do đó không có cương lĩnh chính trị cố định và nhất
quán, ít có cam kết công khai về lý tưởng chính trị-tư tưởng; khi bầu cử kết

thúc thì, về cơ bản, hoạt động của các đảng cũng chững lại. Đảng có tổ
chức lỏng lẻo, quyền lực phân tán, không có nội quy, kỷ luật đảng, không
có chế định đảng viên. Đảng và đảng viên không có mối liên hệ chặt chẽ về
tổ chức, mà chỉ có quan hệ được thiết lập trong bầu cử. Ai bầu cho Đảng thì
là đảng viên của Đảng, cơ cấu đảng được tổ chức theo khu vực bầu cử.
Không giống như người cộng hòa,người dân chủ có khuynh hướng
ủng hộ sự can thiệp của Chính phủ nhưng cả hai Đảng đều có cánh tự do và
cánh bảo thủ.Trong Quốc hội,đôi khi cánh tự do và cánh bảo thủ của hai
đảng cùng đứng về một phía để chống lại cánh kia.
Tư cách đảng viên chỉ được củng cố khi một thành viên quyết định
dành một vị trí trong tổ chức của đảng.Ở phần lớn các bang,điều này có
nghĩa thành viên đó ghi danh ứng cử vào một vị trí trong tổ chức của đảng
và tham gia cuộc bầu chọn nội bộ đảng để giành vị trí đó.Khi đó phụ thuộc
vào số phiếu bầu của những người ủng hộ,thành viên này có thể chiếm
được vị trí trong tổ chức của đảng cho dù các nhà lãnh đạo cấp cao hơn
trong đảng không đồng ý.
Ở mức Liên bang,mỗi đảng có ủy ban quốc gia chịu trách nhiệm về
các chiến dịch vận động và kêu gọi xây dựng quỹ ủng hộ.Các ủy ban này
thường bao gồm đại diện từ các bang,tổ chức hoặc cá nhân có liên quan đặc
biệt tới đảng.Ủy ban quốc gia không có quyền chỉ thị cho các thành viên
của đảng,do vậy người đứng đầu ủy ban không phải là người đứng đầu của
đảng.Thường thì người đứng đầu của một đảng là người trong đảng có vị
trí cao nhất trong Chính phủ,chẳng hạn Tổng thống hoặc chủ tịch Thượng
viện hay Hạ viện.
4


CHƯƠNG II. NHỮNG NÉT CƠ BẢN VỀ ĐẢNG DÂN CHỦ MỸ
Đảng Dân chủ là một đảng chính trị của Mỹ,tiền thân là đảng Dân chủ
-Cộng hòa do Thomas Jefferson thành lập vào năm 1791.

Đảng này xuất phát nguồn là một đảng phản cách mạng và chống lại
việc thành lập Liên bang Hoa Kỳ,sau đó đảng dần dần trở thành đảng theo
xu hướng trung tả trên bàn cờ chính trị nước Mỹ từ những năm 90 của thế
kỷ XIX và đặc biệt rõ nét hơn vào những năm 30 của thế kỷ XX,dưới
nhiệm kì của tổng thống Franklin Roosevelt.Những năm 60 và 70 của thế
kỷ XX,nghiêng về phía cánh tả dưới sự thúc đẩy của các Thượng sĩ Hubert
Humphrey, George McGovern hay Edward Kennedy; trong những năm 90
của thế kỷ XX,Đảng Dân chủ đã nghiêng rõ rệt về cánh hữu dưới thời Tổng
thống Bill Clinton.
Về mặt điạ phương cục bộ,Đảng Dân chủ có nhiều người bảo thủ và
gần gũi với đối thủ Đảng Cộng hòa,đặc biệt tập trung ở các khu vực miền
Tây.miền Trung và miền Nam đất nước.Ngược lại,rất nhiều chi bộ của
Đảng Dân chủ,chủ yếu trong các vùng San Francisco thuộc California,
Seattle, quận King ở Washington,miền trung của Oregon,các vùng thuộc
phía Tây khu vự Hồ lớn lại nghiêng về cánh tả.
1. Lịch sử hình thành
Sau khi Đảng Liên bang biến mất,Đảng Dân chủ Cộng hòa (rất nổi
tiếng ở thời kỳ đó dưới tên gọi duy nhất là Đảng Cộng hòa) đã trở thành
đảng chính trị duy nhất quan trọng ở Mỹ.Trong nhiệm kỳ của Tổng thống
Andrew Jackson,sự chia rẽ đã xuất hiện trong nội bộ Đảng,những người
ủng hộ Jackson thành lập Đảng Cộng hòa - Dân chủ,những người chống
đối Tổng thống thì tập hợp lại dưới cái tên Đảng Quốc gia cộng hòa,dưới
sự lãnh đạo của John Quincy Adams.Đảng Cộng hòa – Dân chủ đã nhanh
chóng đổi tên thành Đảng Dân chủ.Từ năm 1833 đến năm 1856,Đảng Dân
chủ đối lập với Đảng Whig,là một đảng có xu hướng tự do và liên bang gần
gũi với giới doanh nhân và đặc biệt đây là một đảng của phía bắc.
5


Từ năm 1856,đối thủ chính của Đảng Dân chủ là Đảng Cộng

hòa,Đảng đã thay thế Đảng Whig vốn đã trở nên yếu kém bởi vấn đề nô
lệ.Đảng Dân chủ trước hết là một đảng ủng hộ các bang chống lại sự lấn
quyền của Nhà nước Liên bang.Một cách gián tiếp,Đảng mày ủng hộ việc
duy trì chế độ nô lệ,chính điều này đã làm cho Đảng Dân chủ được lòng
dân trong cuộc bầu cử ở miền Nam
Trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1860,Đảng Dân chủ bị phân chia
nội bộ giữa những người dân chủ phía bắc (ôn hòa) và những người dân
chủ ở phía nam (ủng hộ chế độ nô lệ).Mỗi phe đều đưa ra một ứng cử viên
tổng thống để tranh cử và ứng củ viên của Đảng Cộng hòa là Abraham
Lincoln,người đã giành chiến thắng sau cùng trong cuộc bầu cử này.
Sự thất bại của Đảng Dân chủ đã kéo theo sự li khai của các bang và
các cử tri ở miền nam đã bầu người của Đảng Dân chủ là Jefferson Davis là
tổng thống mới của họ.Chiến tranh li khai kéo dài đến năm 1865,năm thắng
lợi của miền Bắc.Thất bại của miền nam đã khiến Đảng Dân chủ mất đi bệ
đỡ trong cuộc bầu cử,hơn thế nữa các bang nổi dậy ở miền Nam còn bị
tước quyền bỏ phiếu bầu cử trong những năm đầu tiên của thời kì tái thiết
đất nước.Năm 1877,sau khi tất cả các hợp bang cũ được khôi phục lại các
quyền lợi và quân miền Bắc chấm dứt việc chiếm đóng quân miền
Nam,Đảng Dân chủ lại trở thành nơi ẩn náu của tất cả những người trước
đây chủ trương ủng hộ chế độ nô lệ và chủ trương li khai
Đến năm 1968,phía Nam vẫn luôn là một pháo đài vững chắc của
Đảng Dân chủ trong các cuộc bầu cử,nơi mà Đảng Dân chủ là Đảng duy
nhất,mọi bất đồng chính trị được giải quyết trong nội bộ Đảng.Trong các
bang ở miền Bắc,Đảng Dân chủ tìm sự ủng hộ ở những người nhập cư
trong vùng New England,đặc biệt là những tín đồ Công giáo gố Ailen;
trong các bang miền Tây là những người nhập cư đến từ các nước châu
Âu,những người này thường phải đương đầu với chính quyền cộng hòa về
các vấn đề thuế hải quan.
6



Tóm lại,Đảng Dân chủ thường giành được lá phiếu của những người
da trắng miền Nam.những người Do thái và Công giáo,các tầng lớp bình
dân và những người vừa mới nhập cư ở vùng Đông – Bắc.Thời kì từ năm
1865 đến năm 1932,sự thống trị của Đảng Cộng hòa là rõ ràng nhưng
không hoàn toàn là tất cả bởi cũng có những Tổng thống là người Đảng
Dân chủ được bầu trong thời kì này như : Grover Cleveland(1884-1888;
1892-1896) hay Woodrow Wilson( 1912-1916).
Khuynh hướng tiến bộ (1880-1890)
Trong những năm 1880-1890,Đảng Dân chủ do William Jenings
Bryan nắm quyền,đã thông qua cương lĩnh Phong trào bình dân,và hướng
quan điểm kinh tế theo cánh tả,mặc dù về mặt xã hội còn rất bảo thủ.Tuy
nhiên, dưới sự thôi thúc của những người theo khuynh hướng tiến
bộ,những người hoạt động theo hai trường phái chính trị khác nhau,một số
người trong Đảng Dân chủ đã tham gia đấu tranh chống tham nhũng và
hành động theo ý chí của người dân.Franklin Roosevelt và chính sách New
Dealcủa ông đã đưa những người dân chủ trở lại cơ quan quyền lực một
cách bề vững nhờ vào chương trình cấp tiến tự nguyện và chương trình
kinh tế Keynes.
Vấn đề chủng tộc
Ngay từ thời kì cuối những năm 40 của thế kỉ XX,những người dân
chủ ở phía Bắc,dưới tác động của Tổng thống Harry Truman và Thượng
nghị sĩ Hubert Humphrey,tuyên vố ủng hộ chấm dứt việc phân biệt đối sử
giữa người da trắng và người da đen,trước hết là trong quân đội và sau đó
là người trong xã hội dân sự
Tại miền Nam phân biệt chủng tộc,đó là một tin tức làm rụng rời
những người theo Đảng Dân chủ ở miền Nam,những người thành lập một
đảng ly khai để chuẩn bị cho cuộc bầu cử tổng thống vào năm 1948.Strom
Thurmond,đại diện cho Đảng Dân chủ,trong cuộc bầu cử tổng thống với
với ứng cử viên của Đảng Cộng hòa là Harry Truman,chỉ giành được 2,7%

7


số phổ thông đầu phiếu,nhưng lại đạt được tất cả sự ủng hộ về đa số của
bốn bang miền Nam,tức là đạt được 39 phiếu của đại cử tri.
Việc đánh mất sự ủng hộ của cử tri miền Nam
Năm 1964,phần lớn các bang miền Nam đã bỏ phiếu lần đầu tiên cho
một ứng cử viên của Đảng Cộng hòa,một người cực kì bảo thủ - Barry
Goldwater,trong khi đó Tổng thống Johnson được thông qua với đa số
phiếu áp đảo ở phần còn lại của đất nước.Năm 1968,những người dân chủ
miền Nam đã thành lập Đảng (American Independent Party,viết tắt là
AIP).Ứng cử viên tổng thống của Đảng AIP cho cuộc bầu cử năm 1968 là
Thống đốc bang Alabama, đạt được 13,5% số phổ thông đầu phiếu và được
đa số phiếu của các đại cử tri các bang miền Nam.Chính điều này đã tước
đi cơ hội thắng cử viên Đảng Dân chủ là Hubert Humphrey trước ứng cử
viên của Đảng Cộng hòa là Richard Nixon.
Trong cùng thời gian này,do sự ly khai của các đảng viên bảo
thủ,Đảng Dân chủ đã cấp tiến hóa vào năm 1972 đã giới thiệu George Mc
Govern ra ứng cử viên tổng thống ,ông này bị tố cáo ủng hộ chủ nghĩa cộng
sản nên đã bị thất bại trước Nixon.
Sự đổi hướng mới
Năm 1976,Jimmy Cater,một thống đốc ít tên tuổi của bang Georgia,
đã thành công trong việc hợp nhất những người tự do miền Bắc với những
người bảo thủ ở miền Nam, mà không cần tới chương trình cấp tiến của
Đảng Dân chủ.
Làn sóng bảo thủ của năm 1980 (đã đưa Regan lên nắm quyền ở Nhà
Trắng và cho phép Đảng Cộng hòa,lần đầu tiên sau 30 năm,đạt được đa số
ghế ở Thượng Viện) là một lời cảnh cáo nghiêm khắc đối với Đảng Dân
chủ.Nếu như đầu những năm 70 của thế kỷ XX,Đảng Dân chủ chủ trương
cải cách thành đảng thiên về chủ nghĩa tự do,ví dụ như giới thiệu về chủ

nghĩa tự do,ví dụ như giới thiệu Walter Mondale ra ứng cử chức Tổng thống
vào năm 1984,thì phong trào Những người Dân chủ mới lại hướng Đảng về
8


phía trung lập,và điều đó đã dẫn tới thắng lợi của Bill Clinton,Thống đốc
bang Arkansas,trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1992.
Đảng Dân chủ luôn chiếm đa số ghế trong Thượng nghị viện (ngoại trừ
Thượng nghị viện các năm 1980 đến năm 1986).Tuy nhiên ,vào năm
1994,Đảng này đã chịu một sự thất bại lịch sử khi đánh mất đa số ghế trong
cả Thượng viện và Hạ viện,đồng thời mất đi đa số vị trí thống đốc các bang.
Đảng Dân chủ từ năm 2000
Năm 2005,Đảng Dân chủ chiếm thiểu số trong Thượng viện Mỹ, chỉ
với 44 ghế trong tổng số 44 ghế trên tổng số 100,ở Hạ viện với 202 ghế
trên tổng số 435 ghế, và 22 vị trí thống đốc bang trên tổng số 50 bang
.Đảng đã thất bại 7 trong số 10 cuộc bầu cử tổng thống gần đây nhất.
Trở thành đảng của những người thành thị,Đảng Dân chủ có nguy cơ
thất bại ở các bang Illionis , Michigan,Washington và Wisconsin nếu họ
không tận dụng được sự ủng hộ đa số ở Chicago, Detroit, Seattle hay
Milwaukee.Các khu đô thị tạo thành nền tảng vững chắc của Đảng Dân chủ
nhờ vào việc những người Mỹ gốc Phi ,công nhân trong các nghiệp đoàn ,
những người đồng tính luyến ái nam và nữ sinh sống tại đó (những người
này thường chọn sống ở các thành phố để trốn tránh sự cô lập).
Cựu Tổng thống Vermont , Howard Dean đã trở thành Chủ tịch mới
của Ủy ban quốc gia dân chủ ,Đảng Dân chủ cũng đang tìm kiếm một chiến
lược mới nhưng đang bị giằng co giữa: cánh tả cải cách đại diện bởi Nancy
Pelosi và Edward Kennedy và cánh hữu bảo thủ hơn đại diện bởi Bill
Clinton, Bill Richardson ,Joe Biden hay Joseph I. Lieberman.Những người
này đặc biệt mong muốn cạnh tranh với những người cộng hòa trên mọi
giá trị và hướng quan điểm, lập trường của Đảng về các vấn đề nạo thai,

phi tôn giáo …để giành thắng lợi ở miền Nam và miền Tây trước những
người bảo thủ.
Những đại diện chính của Đảng cho rằng kể từu năm 1964, chỉ những
ứng cử viên dân chủ xuất thân từ miền nam đất nước (Texas với Lyndon
9


Johnson, Georgia với Jimmy Carter và Arkansas với Bill Cinton) mới có
thể chiến thắng trong các cuộc bầu cử tổng thống; điều này đặc trưng cho
sức mạnh của miền Nam trong bất cứ chiến lược nào của Đảng Dân
chủ.Quả vậy,chưa từng có một ứng cử viên dân chủ nào giành đa số tuyệt
đối phổ thông đầu phiếu kể từ thời Jimmy Carter năm 1976.
2. Cơ cấu và thành phần.
Ủy ban quốc gia Đảng Dân chủ (DNC) chịu trách nhiệm cổ xuý các
mục tiêu của tổng thống (khi đảng kiểm soát Tòa Bạch Ốc) hoặc quảng bá
chính sách của đảng (trong trường hợp Đảng Cộng hòa cầm quyền). Trong
các cuộc bầu cử tổng thống, uỷ ban giám sát đại hội toàn quốc và, dưới sự
chỉ dạo của ứng cử viên tổng thống, vận động gây quỹ, tổ chức thăm dò dư
luận và phối hợp chiến lược vận động. Có những uỷ ban tương tự ở cấp tiểu
bang và tại các thành phố lớn, quận và hạt bầu cử, nhưng ngân quỹ và ảnh
hưởng của các uỷ ban này không nhiều bằng uỷ ban quốc gia. Chủ tịch của
DNC (Howard Dean là chủ tịch đương nhiệm) được tuyển chọn bởi Tổng
thống nếu đảng đang kiểm soát Tòa Bạch Ốc, nếu không, chức danh được
bầu chọn bởi thành viên các uỷ ban cấp tiểu bang; Dean dành được vị trí
này từ đầu năm 2005.
Đảng Dân chủ tại lưỡng viện Quốc hội đều thành lập các uỷ ban đầy
quyền lực chuyên trách chiến lược và ngân quỹ. Uỷ ban đảng Dân chủ về
Chiến dịch Quốc hội (DCC) hỗ trợ các ứng viên trong các cuộc đua vào Hạ
viện, trong khi Uỷ ban đảng Dân chủ về Chiến dịch Thượng viện lo cho các
ứng viên thượng viện. Các uỷ ban này thường vận động gây quỹ hơn 100

triệu đô la cho một vòng bầu cử, và thủ giữ vai trò quan trọng trong việc
tuyển chọn ứng cử viên.
Mỗi tiểu bang đều có một ủy ban, gồm có các thành viên được bầu
cũng như các cựu thành viên ủy ban (thường là các viên chức dân cử tại các
hạt bầu cử chính), những người này sẽ bầu ra một chủ tịch ủy ban. Ủy ban
cấp quận, thị trấn, thành phố, và phường thường bao gồm những viên chức
10


dân cử cấp địa phương. Các ủy ban cấp tiểu bang và địa phương các cấp
thường xuyên phối hợp với nhau cho các cuộc vận động tranh cử trong khu
vực, giám sát các hội nghị địa phương và các cuộc bầu cử sơ bộ (trong một
số trường hợp). Các ủy ban này cũng tham gia đề cử ứng viên cho các chức
vụ dân cử theo luật tiểu bang. Hiếm khi họ tham gia các hoạt động gây quỹ,
nhưng trong năm 2005, Chủ tịch DNC Howard Dean khởi động một
chương trình (gọi là “Chiến lược 50 Tiểu bang”) sử dụng ngân quỹ DNC
quốc gia để hỗ trợ các cơ sở đảng cấp tiểu bang, và trả lương cho các nhân
viên chuyên nghiệp làm việc trọn thời gian.
3. Tên và biểu tượng
Từ những năm 1790,Đảng Liên bang (Federalist) đã sử dụng tên "Đảng
Dân chủ" như một sự sỉ nhục để trêu chọc những người ủng hộ Jefferson.
Điển hình như năm 1798 , Geogre Washington nói "Nếu bạn cọ rửa một
người da đen để có thể trở nên trắng thì bạn cũng có thể thay đổi chính kiến
của một đảng viên Dân chủ". Tuy nhiên, trong thập niên 1830, biệt danh từng
được xem là một sự sỉ nhục này đã trở thành tên chính thức, và chính đảng
này gọi mình là "Đảng Dân chủ của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ".
Biểu tượng được biết đến nhiều nhất của đảng là chú lừa. Khởi thuỷ,
hình ảnh của chú lừa sản sinh từ những chế diễu, bôi bác trong cuộc bầu cử
tổng thống năm 1828, khi xuất hiện một vở kịch được đặt theo tên Tổng
thống Andrew Jackson, khi ấy là ứng viên của đảng Dân chủ. Jackson đã bị

gọi là "Andrew Jackass", và ông đã chấp nhận biệt danh này.
Ngày 15-1-1870,một chuyện trang về chính trị xuất hiện trong tuần
báo Harper ( Harper’s Weekly) ,được đặt tên là “Con lừa sống cho con sư
tử chết một cú đá” làm sống lại hình ảnh chú lừa,và đã gợi ý cho Đảng Dân
chủ chọn biểu tượng là con lừa là biểu tượng của Đảng mình.
Những họa sĩ biếm họa khác tiếp nối Nast và sử dụng hình ảnh chú
lừa cho các đảng viên Dân chủ, và chú voi cho GOP (Đảng Cộng hòa).
Biểu tượng chính thức của Uỷ ban Quốc gia Đảng Dân chủ (DNC), miêu tả
11


cách điệu hình ảnh một chú lừa đang phóng chân tung một cú đá
hậu.Nhưng trái ngược với hình ảnh con voi của Đảng Cộng hòa,hình ảnh
con lừa của Đảng Dân chủ chưa bao giờ được chính thức thông qua như là
logo chính thức của Đảng.
Cả hai đảng chính (và nhiều đảng nhỏ) sử dụng những màu truyền
thống đỏ, trắng và lam trong biểu tượng và quảng cáo. Còn các phương tiện
truyền thông thường dùng màu đỏ và lam để hiển thị lập trường của các
tiểu bang trong bầu cử. Kể từ cuộc tuyển cử năm 2000, tiểu bang bầu cho
đảng Dân chủ được đánh dấu màu lam và màu đỏ dành cho bang bầu phiếu
cho Đảng Cộng hòa.
4. Nền tảng và ý thức hệ.
Lập trường chỉ đạo của Đảng Dân chủ kể từ thập niên 1930 vẫn được
xem là khuynh hướng tự do.Trên trường quốc tế,quan điểm của Đảng Dân
chủ được xem như dân chủ xã hội vì chủ nghĩa tự do ở Mỹ có ý nghĩa khác
với những nước khác.Quan điểm chính trị của Đảng Dân bắt nguồn từ
phong trào tiến bộ ở Mỹ và từ hệ tư tưởng của những hệ tư tưởng của các
nhà tri thức như John Deway.
Đảng Dân chủ ủng hộ quyền tự do dân sự, tự do xã hội, bình đẳng, cơ
hội đồng đều, và hệ thống doanh nghiệp tự do được điều tiết bởi sự can

thiệp của chính quyền. Đảng Dân chủ tin rằng chính quyền nên thủ giữ một
vai trò trong nỗ lực giảm nghèo và xoá bỏ những bất công xã hội, ngay cả
khi điều này có nghĩa là phải dành cho chính quyền nhiều quyền lực hơn
cũng như phải tăng thuế để chi trả cho các dịch vụ xã hội.
Không dễ dàng gì để định nghĩa những nguyên tắc và giá trị của bất
cứ đảng phái chính trị nào, và cũng không cần phải áp dụng chúng cho tất
cả thành viên của đảng. Một số thành viên có thể bất đồng với một vài điều
khoản hoặc nhiều hơn nữa trong cương lĩnh của đảng. Cương lĩnh đảng
thường chỉ thể hiện quan điểm của đa số đại biểu đến dự đại hội cấp quốc
12


gia và thường chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi ứng viên tổng thống được đảng
đề cử vào lúc ấy.
5.Ý thức và hệ bầu cử.
Kể từ thập niên 1980, Đảng Dân chủ ủng hộ lập trường “tự do” (theo
nghĩa tự do xã hội, không phải tự do cổ điển). Trong các cuộc thăm dò tại
phòng phiếu, Đảng Dân chủ có sự ủng hộ rộng rãi từ các thành phần kinh
tế, chủng tộc, xã hội khác nhau. Hậu thuẫn cho Đảng Dân chủ gồm có
thành phần trung lưu học vấn cao chủ trương cấp tiến, cũng như tầng lớp
công nhân có khuynh hướng xã hội bảo thủ. Đảng Dân chủ hiện là chính
đảng lớn nhất của Mỹ . Năm 2004, có gần 72 triệu (42,6%) người Mỹ đăng
ký cho Đảng Dân chủ, so với 55 triệu (32,5%) cho Đảng Cộng hòa, và 42
triệu (24,8%) cho các ứng viên độc lập.
Trong lịch sử đảng từng ủng hộ thành phần nhân dân,người lao
động,ngiệp đoàn và các nhóm thiểu số sắc tộc và tôn giáo.Đảng chống lạo
các doanh nghiệp và các định chế tài chính ngoài doanh nghiệp,ủng hộ hệ
thống thuế lũy tiến. Về ngoại giao, chủ nghĩa quốc tế là chủ đề thống trị từ
năm 1913 đến giữa thập niên 1960. Từ thập niên 1930 Đảng Dân chủ khởi
sự vận động cho các chương trình phúc lợi hỗ trợ người nghèo. Trong đảng

cũng có cánh ủng hộ doanh nghiệp, nhưng cánh này bị thu hẹp dần trong
thập niên 1930, còn cánh bảo thủ miền Nam cũng mất dần ảnh hưởng sau
khi Tổng thống Lyndon B. Johnson ủng hộ Đạo luật Dân quyền năm 1964.
Các nghiệp đoàn có ảnh hưởng lớn trên thành phần tự do (đỉnh điểm là thời
kỳ 1936-52). Trong khi đó, ảnh hưởng của cộng đồng người Mỹ gốc
Phi tăng dần kể từ thập niên 1960. Từ thập niên 1970, những người chủ
trương bảo vệ môi trường cấu thành một nhóm quan trọng bên trong đảng.
Trong những thập niên gần đây, đảng chấp nhận một nghị trình chủ
trương trung tả về kinh tế và cấp tiến về xã hội, khiến thành phần cử tri ủng
hộ cũng thay đổi đáng kể. Từng được hậu thuẫn bởi đông đảo cử tri thuộc
các nghiệp đoàn và giai tầng công nhân, nay đảng dựa vào thành phần cấp
13


tiến xã hội có học thức với lợi tức trên mức trung bình, và tầng lớp lao
động có chủ trương bảo thủ trong các vấn đề xã hội. Ngày nay, đảng viên
Dân chủ vận động thêm quyền tự do xã hội, chương trình bảo trợ các sắc
dân thiểu số (affirmative action), cân đối ngân sách, và hệ thống doanh
nghiệp tự do có sự can thiệp của chính phủ khi cần thiết. Quyết sách kinh tế
của đảng thực hiện bởi chính phủ Clinton được mệnh danh “Lập trường
Trung dung” (Third Way).Đảng Dân chủ tin rằng chính quyền nên thủ giữ
một vai trò trong nỗ lực giảm nghèo và xoá bỏ những bất công xã hội, ngay
cả khi điều này có nghĩa là phải dành cho chính quyền nhiều quyền lực hơn
cũng như phải tăng thuế để chi trả cho các dịch vụ xã hội.
Đảng Dân chủ, từng là lực lượng thống trị vùng Đông Nam nước Mỹ,
nay hoạt động mạnh ở vùng Đông Bắc (Trung Đại Tây Dương và New
England), vùng Ngũ Đại Hồ, cũng như bờ biển Thái Bình Dương, kể
cả Hawai. Đảng Dân chủ cũng có nhiều ảnh hưởng tại các thành phố.
6. Hệ thống tổ chức và hoạt động
Đảng Dân chủ có 3 cấp: Uỷ ban toàn quốc, bang-quận, cơ sở địa

phương, nhưng các cấp hoạt động tương đối độc lập với nhau, quan hệ trên
dưới không chặt chẽ. Trong hệ thống quyền lực ở nước Mỹ có sự phân
quyền cho chính quyền bang và chính quyền các địa phương khá mạnh, tổ
chức và hoạt động của chính quyền mỗi bang có nhiều nét đặc thù, cho nên
tổ chức và hoạt động của Đảng ở mỗi bang cũng không giống nhau. Do đó
nhiều người cho rằng, trên thực tế, không phải chỉ có một Đảng Dân chủ
trên toàn nước Mỹ, mà có tới 50 đảng dân chủ khác nhau ở 50 bang. Đảng
Dân chủ ở Mỹ thực chất chỉ là những liên minh 50 đảng dân chủ mỗi khi
đến kỳ bầu cử.
Từ hệ thống cơ cấu tổ chức của Đảng Dân chủ, có thể thấy, các tầng
bậc chủ yếu sau: các tổ chức đảng địa phương là cấp thấp nhất ở khu dân
cư, phường, thị trấn, các uỷ ban cấp hạt ở trên, tiếp theo là uỷ ban cấp bang.
Uỷ ban toàn quốc của Đảng là cấp cao nhất và đại hội đảng toàn quốc là cơ
14


quan quyền lực tối cao. Tuy nhiên, các tầng bậc tổ chức này lại không phản
ánh chính xác quyền hạn của mỗi cấp. Quyền lực ở mỗi cấp độc lập, có tính
tự trị rất cao.Ở địa phương, l đơn vị tổ chức đảng nhỏ nhất là khu dân cư,
đây đồng thời cũng là một khu vực bỏ phiếu. Những hoạt động tích cực của
cơ sở đảng tại các khu dân cư là một trong những nhân tố quan trọng góp
phần giành thắng lợi của Đảng trong các kỳ bầu cử.
Tiếp theo là uỷ ban cấp phường, thị trấn và cấp hạt.Ở cấp hạt có uỷ
ban đảng với một chức chủ tịch đảng. Hoạt động của đảng cấp địa phương
chủ yếu tập trung vào các cuộc vận động bầu cử bầu chính quyền địa
phương.
Tại 50 bang và các vùng lãnh thổ của nước Mỹ đều có tổ chức của
Đảng Dân chủ. Mỗi bang đều có một Ủy ban Trung ương bang, một chủ
tịch đảng bang và một bộ máy giúp việc chuyên nghiệp được trả lương.
Các uỷ viên của UBTƯ bang được lựa chọn từ các đại hội cấp hạt, từ các

cuộc bầu cử sơ bộ và từ các hội nghị của đảng. Ngoài ra, một bộ phận các
thành viên đại diện cho các khu vực bầu cử Quốc hội, Nghị viện bang.
Chức năng chính của Ủy ban Trung ương bang là đề cử ứng cử viên cho
các cơ quan chính quyền bang, đồng thời tiến hành vận động tranh cử cho
các ứng cử viên của Đảng. Uỷ ban có nhiệm vụ quảng bá, giới thiệu các
hoạt động của Đảng, quyên tiền, xây dựng đường lối chung của Đảng, đồng
thời thi hành các quyết định được thông qua tại Đại hội Đảng cấp bang.
Chủ tịch Đảng cấp bang là người hưởng lương và làm việc thường trực, chỉ
đạo trực tiếp việc hoạch định chính sách và các hoạt động của Đảng như:
tăng nguồn quỹ, xây dựng tổ chức đảng, xây dựng chiến lược cho chiến
dịch vận động tranh cử.
Tổ chức đảng cấp quốc gia là Uỷ ban toàn quốc của Đảng, bao gồm
những đại biểu được lựa chọn từ tổ chức đảng cấp bang và các nhóm khác
nhau của Đảng. Lãnh đạo uỷ ban là một Chủ tịch thường do ứng cử viên
tổng thống của Đảng lựa chọn với nhiệm kỳ 4 năm. Dưới cơ quan quyền
15


lực này là đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp của Đảng. Đây là những
chuyên gia nắm vững và hiểu biết công nghệ vận động tranh cử hiện đại và
các đạo luật phức tạp điều chỉnh việc quyên góp và chi tiêu tài chính. Hội
nghị toàn quốc của Đảng thường được tổ chức vào mùa hè trước khi diễn ra
cuộc bầu cử tổng thống. Các đại biểu được lựa chọn bằng nhiều cách khác
nhau từ các tổ chức đảng ở cấp bang. Các đại biểu dự Hội nghị thông qua
cương lĩnh của Đảng, bầu ra ứng cử viên tổng thống của Đảng. Hội nghị
đóng vai trò là cơ quan lãnh đạo tối cao của Đảng trên phạm vi toàn quốc.
Tổ chức đảng ở cấp bang, hạt và thành phố không chịu sự chỉ dẫn,
hoặc kiểm soát của Uỷ ban toàn quốc hoặc Chủ tịch Đảng cấp toàn quốc,
ủy ban đảng ở mỗi cấp có một chương trình hoạt động riêng, một chương
trình gây quỹ và gây dựng cơ sở của riêng mình. Về nguyên tắc, các uỷ ban

đảng của các địa phương không phải là cấp dưới của uỷ ban đảng ở cấp
bang và toàn quốc, không nhất thiết phải nghe theo mệnh lệnh của ủy ban
đảng cấp trên. Trong công việc hàng ngày, các đơn vị đảng ở các cấp này là
những đơn vị tự quản và độc lập.
Việc đăng ký trở thành đảng viên của Đảng là hoàn toàn dựa trên cơ sở
tự nguyện. Sau khi đã trở thành đảng viên, họ không phải đóng đảng phí và
thực hiện bất kỳ một nghĩa vụ nào đối với Đảng. Khi đảng viên cảm thấy
Đảng không đem lại lợi ích gì cho mình, họcó thể ra khỏi Đảng và có thể đăng
ký trở thành đảng viên một đảng khác, hoặc trở thành một cử tri độc lập.
Đảng Dân chủ cũng như Đảng Cộng hòa ở Mỹ có nhiều điểm khác
biệt so với các chính đảng ở phương Tây nói riêng và trên thế giới nói
chung. Trước hết, hai đảng này thực chất là những đảng bầu cử, do đó
không có cương lĩnh chính trị cố định và nhất quán, ít có cam kết công khai
về lý tưởng chính trị-tư tưởng; khi bầu cử kết thúc thì, về cơ bản, hoạt động
của các đảng cũng chững lại. Đảng có tổ chức lỏng lẻo, quyền lực phân tán,
không có nội quy, kỷ luật đảng, không có chế định đảng viên. Đảng và
đảng viên không có mối liên hệ chặt chẽ về tổ chức, mà chỉ có quan hệ
16


được thiết lập trong bầu cử. Ai bầu cho Đảng thì là đảng viên của Đảng, cơ
cấu đảng được tổ chức theo khu vực bầu cử.
Hoạt động của Đảng Dân chủ vào dịp chuẩn bị bầu cử tổng thống trở
nên rất sôi động. Đảng chuẩn bị xây dựng cương lĩnh, trong đó thể hiện quan
điểm chung về chương trình tranh cử, lựa chọn các vấn đề đối nội và đối
ngoại bức xúc đang đặt ra, đưa ra những cam kết và lời hứa khi thắng cử,
chuẩn bị chương trình trong hội nghị đề cử ứng cử viên tổng thống của đảng.
Thông thường, các chính đảng ở Mỹ quan tâm hàng đầu tới việc phải chiến
thắng trong các cuộc bầu cử và giành được các vị trí trong Chính phủ.
Vào tháng 11/2012 vừa qua,một cuộc chạy đua vào nhà Trắng giữa cựu

Tổng thống Obama và ứng cử viên của Đảng Cộng hòa Mitt Romney và với
chiến thắng thuộc về Tổng thống Obama của Đảng Dân chủ. Kết quả cuộc
bầu cử Tổng thống Mỹ 2012 tiếp tục là cuộc chạy đua, giằng co nóng bỏng
giữa hai đối thủ, nhưng ở những phút cuối, tổng thống Obama có sự bứt phá
mạnh từ 188 phiếu, lên 248 và cuối cùng là 274 phiếu đại cử tri.
Mỹ là một quốc gia rộng lớn và đa dạng, nên để xây dựng được một
đảng đủ mạnh có thể giành được sự ủng hộ của đa số cử tri đòi hỏi phải có
một liên minh gồm rất nhiều tầng lớp, chủng tộc, tôn giáo… ở nhiều khu
vực khác nhau. Mặt khác, các đảng cũng rất chú trọng các đối tượng cử tri
truyền thống. Đảng Dân chủ thường bảo vệ quyền lợi giới lao động, chủ
trương phân phối lại sản phẩm quốc dân có lợi cho tầng lớp nghèo và trung
lưu, mở rộng hệ thống bảo hiểm và phúc lợi xã hội, nên thường nhận được
sự ủng hộ của những người Thiên chúa giáo, Do thái, những người da màu,
người lao động bình dân. Trong khi, Đảng Cộng hoà thường gắn với giới
kinh doanh, tài chính, công nghiệp; bảo thủ trong kinh tế; ủng hộ nguyên
tắc điều tiết nhà nước đối với kinh tế thị trường, nhưng lại đặt mục tiêu
nâng cao sức cạnh tranh của công nghiệp, phản đối vai trò phân phối lại
phúc lợi xã hội. Đảng này được nhiều người da trắng, tầng lớp trung lưu
theo đạo Tin lành và giới kinh doanh giàu có ủng hộ. Tuy nhiên, để giành
17


thắng lợi trong bầu cử, hai đảng đều có định hướng một cách thực dụng,
luôn đưa ra những quan điểm sao cho được đông đảo người Mỹ ủng hộ.
So với Đảng Cộng hòa, cách thức tiến hành bầu cử sơ bộ của Đảng
Dân chủ có những điểm khác biệt. Để củng cố tính thống nhất tổ chức đảng
của mình, Đảng Dân chủ đã đưa ra các nguyên tắc bầu cử áp dụng trên
phạm vi toàn quốc, theo đó Đảng này yêu cầu 75% số đại biểu của mỗi
bang phải được bầu ở những khu vực bầu cử có dân số tương đương với
khu vực bầu cử Quốc hội để tăng cường sự đại diện của các nhóm thiểu số.

Tại Hội nghị Đảng toàn quốc, Đảng Dân chủ cũng nêu ra những yêu cầu
bắt buộc về cơ cấu, về giới tính cho các ứng viên tổng thống và phó tổng
thống, đây là điều mà Đảng Cộng hòa không đặt ra.
Mặc dù về tổ chức và hoạt động, Đảng Dân chủ cũng như Đảng Cộng
hòa ở Mỹ đều không có sự gắn bó và kỷ luật chặt chẽ, không có cương lĩnh
chính trị nhất quán nhưnhiều chính đảng cầm quyền khác ở các nước tư bản
phát triển phương Tây, nhưng hai đảng này vẫn thay nhau cầm quyền. Tuy
nhiên cũng cần thấy rằng, xét về thực chất, đây là các chính đảng của giai
cấp tư sản nên cương lĩnh của họ chính là sự nhất quán với các cơ sở nền
tảng của xã hội TBCN, với những mục tiêu chung là: bảo vệ chế độ sở hữu
tư nhân, chế độ nhà nước cộng hoà, hiến pháp liên bang, thể chế chính trị
đương thời, chống cộng sản và coi bá chủ thế giới luôn là “sứ mệnh” của
nước Mỹ. Chính điều đó trở thành đặc điểm chủ yếu nhất của hệ thống hai
đảng cầm quyền ở Mỹ, nó đảm bảo sự thống trịcủa hai đảng trong gần suốt
lịch sử hơn 200 năm của nước Mỹ. Mặt khác, hệ thống bầu cử Mỹ phức
tạp, theo nguyên tắc đa số tương đối, “người thắng được tất cả”, các ứng cử
viên của đảng nào thu được đa số tương đối phiếu bầu ở một bang sẽ giành
được toàn bộ
số phiếu đại cử tri của bang đó. Cơ chế đó ngăn cản các đảng nhỏ và
người nghèo tham gia vào hệ thống quyền lực, đồng thời loại bỏ được các
đối thủ chính trị của cả Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa.
18


CHƯƠNG III.VAI TRÒ CỦA ĐẢNG DÂN CHỦ MỸ.
Từ khi thành lập tới nay,Đảng Dân chủ luôn thể hiện sức mạnh to lớn
của mình.Ngày nay,Đảng kế thừa các đảng tiền nhiệm từ thế kỉ XVIII- XIX
,chi phối tiến trình chính trị,phản ánh những khía cạnh mang tính cấu trúc
của nền chính trị Mỹ cũng như những nét đặc thù của các đảng.
Đảng Dân chủ của Tổng thống Obama đại diện cho lập trường nới

rộng hoạt động của Chính phủ Liên bang ,có kế hoạch chăm sóc sức khỏe,
quy mô giúp đỡ những người không có bảo hiểm y tế,đồng thời tăng cường
các luật để điều tiết các hoạt động tài chính tại phố Wall.
Đảng Dân chủ vận động cho chính sách "chăm sóc sức khoẻ cho mọi
người", nhiều người ủng hộ biện pháp mở rộng sự can thiệp của chính phủ
vào lĩnh vực này. Nhiều thành viên đảng Dân chủ ủng hộ hệ thống chăm
sóc sức khoẻ quốc gia với nhiều loại hình khác nhau nhằm đáp ứng chi phí
bảo hiểm sức khoẻ ngày càng tăng cao. Năm 1951, Tổng thống Harry S.
Truman trình bày đề án bảo hiểm sức khoẻ quốc gia như là một phần trong
chương trình Fair Deal của ông, dù đề án này đã bị đánh bại bởi Hiệp hội Y
tế Mỹ. Gần đây, Thượng nghị sĩ Edward Kennedy vận động cho chương
trình "Chăm sóc Y tế cho mọi người".
Năm 2004, John Kerry khẳng định sự hậu thuẫn của ông dành cho chủ
trương chính phủ liên bang cấp ngân quỹ cho các công trình nghiên cứu tế
bào gốc, thực hiện theo những "hướng dẫn nghiêm nhặt nhất". Ông giải
thích "Chúng ta không thể bỏ qua cơ hội cứu sống sinh mạng và giảm bớt
nỗi đau của con người".
Đảng Dân chủ hậu thuẫn chính sách ưu đãi dành cho thành phần thiểu
số như là một cách sửa chữa sự kỳ thị trong quá khứ và bảo đảm sự tuyển
dụng công bằng mà không phận biệt chủng tộc hay giới tính, nhưng chống
lại việc sử dụng định mức trong thuê mướn nhân công. Đảng Dân chủ mạnh
mẽ ủng hộ Đạo luật Người Mỹ với người Khuyết tật nhằm cấm đoán sự kỳ
thị đối với người khác dựa trên sự khiếm khuyết về thể chất hoặc trí tuệ.
19


Quan điểm của Đảng Dân chủ về môi trường là sức khỏe của các gia
đình và sức mạnh của nền kinh tế phụ thuộc vào khả năng bảo vệ môi
trường sống. Họ cam kết đấu tranh để tăng cường luật lệ bảo đảm cho
người dân không khí trong lành để thở, và nước sạch để uống. Họ tin rằng

chính sách năng lượng thích hợp sẽ là chìa khóa cho sự phát triển kinh tế,
an ninh quốc gia, và môi trường trong lành.
Mối quan tâm lớn nhất của các đảng viên Dân chủ trong lĩnh vực môi
trường là tình trạng hâm nóng toàn cầu, nổi bật nhất là cựu Phó Tổng
thống Al Gore, người đang vận động thông qua các luật lệ hạn chế khí thải
nhà kính. Ngày 15 tháng 10 năm 2007, Gore được trao Giải Nobel Hòa
bình vì những nỗ lực xây dựng sự nhận thức về sự biến đổi khí hậu do con
người gây ra, cũng như lập nền cho các biện pháp cần thiết nhằm đối phó
với chúng. Ông khẳng định, “sự khủng hoảng khí hậu không phải là một
vấn đề chính trị, nó là một thách thức tâm linh và đạo đức đối với toàn thể
nhân loại.
Đảng Dân chủ ngày càng thể hiện vai trò của mình trong hệ thống
chính trị của nước Mỹ và có ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ.

20


PHẦN KẾT LUẬN
Với những sách lược đúng đắn của mình,Tổng thống Obama của đảng
Dân chủ đã vực dậy được nước Mỹ sau những khó khăn như: Đã có những
quyết định hợp lý và kịp thời để nước Mỹ thoát ra khỏi cơn khủng hoảng
tài chánh 1007-2008.
Đã thông qua được Obamacare, một tham vọng lớn mang lại cho mọi
người dân Mỹ sự an toàn về bảo hiểm sức khỏe.Đã ra lệnh giết Bin Laden,
chấm dứt được một chương quan trọng trong cuộc chiến chống khủng bố
toàn cầu…
Đảng Dân chủ hiện tại vẫn đang phải đối mặt với rất nhiều thách
thức.Cũng như các nước TBCN khác, thể chế chính trị Mỹ được xây dựng,
phát triển và ngày càng hoàn thiện trên cơ sở bảo vệ quyền lợi của giai cấp
tư sản. Những chỉ số về mức tăng trưởng kinh tế, về GDP bình quân đầu

người không thể che lấp tình trạng bi đát của bộ phận không nhỏ những
người dân nghèo trong quốc gia này. Đằng sau chế độ dân chủ có vẻ nhộn
nhịp qua các cuộc tranh cử giữa các đảng phái, vẫn là sự xiết chặt về chính
trị. Các lực lượng đối lập, đặc biệt là Đảng Cộng sản đều bị kiểm soát chặt
chẽ. Vì vậy khi nghiên cứu về các chính đảng, nhất là hai đảng cầm quyền
Dân chủ hay Cộng hòa, cũng như khía cạnh cấu trúc, kỹ thuật của thể chế
chính trị Mỹ, rất cần thiết chắt lọc những kinh nghiệm có thể tham khảo,
mặt khác cần nhận rõ bản chất giai cấp tư sản của thể chế chính trị đó để từ
đây có cách đánh giá một cách khách quan, đúng đắn.

21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Đảng cầm quyền : từ lý luận đến thực tiễn (Thông tin tư liệu chuyên
đề) (2006).Viện Thông tin khoa học Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh,số 4
2.JayM.Shafritz (2002): Từ điển về chính quyền và chính trị Hoa
Kỳ,Nxb CTQH,H.
3.A.Toflerr (2002): Thăng trầm quyền lực, Nxb. Thanh niên,H.
4.Thể chế chính trị thế giới đương đại. Khoa Chính trị học,Trường học
viện báo chí và tuyên truyền.
5. E.Marvin, Olsen: Quyền lực trong các xã hộ hiện đại,S.
Phrancisco,1993.(bản dịch)
6.Zoseph S.Nye: Quyền lực mềm,quyền lực cứng và việc lãnh
đạo,trong “Quyền lực mềm: các phương tiện để thành công trong nền chính
trị thế giới” (2004), (Tài liệu của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung
ương).
7.G.Wassrman (1997) : Những cơ sở của nền chính trị Mỹ,Nxb
Longman (Mỹ), (Bản dịch của khoa Chính trị học,Học viện báo chí và

tuyên truyền).

22


MỤC LỤC

23



×