Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TMDVNhóm 11 thương mại hàng hóa thế giới và việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.33 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
VIỆN KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
--------***--------

TIỂU LUẬN
THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CỦA THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA
TRÊN THẾ GIỚI VÀ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1995 – 2018
Nhóm: Nhóm 11
Thành viên: Đặng Công Vũ – 1711120186
Nguyễn Thị Khánh Linh – 1711120096
Nghiêm Viết Hiếu – 1711120063
Đỗ Thúy Nga - 1711120113
Bạch Ngọc Phương Trà - 1711120163
Lớp tín chỉ: TMA412.2
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Quang Minh

Hà Nội, tháng 11 năm 2019
MỤC LỤC


DANH MỤC HÌNH VẼ

2


DANH MỤC BẢNG BIỂU

3



MỞ ĐẦU
Ngày nay, thế giới đi theo xu hướng hội nhập để cùng phát triển, cùng tồn tại lớn
mạnh thay vì đi riêng lẻ. Các quốc gia trên thế giới hiện nay dù lớn hay nhỏ, sớm hay
muộn đều đi theo xu hướng tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác kinh tế
khu vực và thế giới, đa phương, đa chiều, đa lĩnh vực, trong đó thương mại là một
trong những lĩnh vực được coi là trọng tâm.
Thương mại quốc tế ra đời từ rất sớm. Đến nay, quá trình hội nhập và phát triển
luôn diễn ra liên tục cùng với sự lớn mạnh của các tổ chức, các hiệp hội cùng các hiệp
ước hợp tác giữa các quốc gia trên thế giới mà lớn nhất có thể kể đến đó chính là Tổ
chức Thương mại thế giới WTO. Quá trình tham gia vào thương mại quốc tế khiến
cho tất cả các quốc gia tham gia đều cùng có lợi, mặc dù còn tồn tại nhiều rủi ro.
Thương mại quốc tế bắt đầu phát triển từ thương mại hàng hóa. Đó là việc trao đổi
mua bán hàng hóa giữa các quốc gia trên thế giới, hay còn gọi là xuất nhập khẩu hàng
hóa. Với xu hướng hội nhập để cùng phát triển như hiện nay, xuất nhập khẩu đang
ngày càng đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế của rất nhiều quốc gia,
trong đó có Việt Nam. Đến nay, xuất nhập khẩu có thể đánh giá được sự phát triển, lớn
mạnh của từng quốc gia, cũng như hiệu quả mà các quốc gia ấy có được khi tham gia
vào các tổ chức thương mại thế giới hay khu vực.
Bài tiểu luận này sẽ nghiên cứu về quá trình phát triển của thương mại hàng hóa
trên thế giới giai đoạn 1995 – 2018. Cùng với đó bài tiểu luận cũng sẽ phân tích sâu
vào Việt Nam như một ví dụ điển hình để đánh giá được những điều mà chúng ta đã
làm được cũng như chưa làm được để có những cái nhìn tốt hơn cho quá trình hội
nhập sau này.

4


I. Tình hình phát triển thương mại hàng hóa thế giới
1. Quy mô kim ngạch xuất nhập khẩu
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của thế giới đạt mức gần 10 nghìn tỷ

USD vào năm 1995. Đến năm 2000 con số này đã tăng lên thành 12,6 nghìn tỷ USD
và vượt mốc 20 nghìn tỷ ở năm 2005. Đến năm 2009, do chịu ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới, tổng giá trị xuất nhập khẩu có sự giảm sút đáng kể, chỉ
đạt 24,3 nghìn tỷ USD, giảm 22,9% so với một năm trước đó. Đến năm 2010, tình
hình kinh tế thế giới phục hồi nên nhờ đó kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của thế
giới đạt 29,6 tỷ USD, tăng 21,8% so với cùng kỳ năm 2009.
Hình 1. Tổng kim ngạch Xuất nhập khẩu của thế giới giai đoạn 1995 - 2018

Nguồn: databank.worldbank.org
Nhìn chung, kể từ năm 1995 đến nay, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa
của toàn thế giới đạt tốc độ tăng trưởng tương đối ổn định. Năm 2018, kim ngạch xuất
nhập khẩu hàng hóa đạt 38,2 nghìn tỷ USD, tăng 10,4% so với năm 2017. So với năm
1995, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đã tăng gần 4 lần, tăng gần 2 lần so
với năm 2005 và so với năm 2015 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa trên thế
giới đã tăng 1,2 lần.
Sự gia tăng mang tính ổn định của này của nền thương mại hàng hóa thế giới là
nhờ có sự phát triển của tự do hóa thương mại. Các hiệp định thương mại tự do (FTA)
ra đời nhằm mục đích tự do hóa thương mại về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào
đó bằng việc cắt giảm thuế quan cũng như giảm bớt các hàng rào thương mại phi quan
thuế khác đối với hàng hóa, đồng thời có các quy định tạo thuận lợi cho trao đổi hàng
hóa, dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên.
Theo thông báo của WTO, từ khi Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
(GATT) ra đời cho đến năm 1994, mới có 123 FTA, từ năm 1995 đến nay, đã có hơn
400 FTA được ký kết, có thông báo tới WTO. Không ít quốc gia trước đây tập trung
hướng theo tự do hóa thương mại đa phương trong khuôn khổ của WTO, nhưng sau
đó cũng đã chuyển hướng trong chính sách tự do hóa thương mại. Chẳng hạn như,
Nhật Bản đã hoàn tất FTA với toàn khối ASEAN, song song với các FTA với một số
thành viên ASEAN.
Bên cạnh đó, toàn cầu hóa kinh tế cũng có tác động tới sự phát triển thương mại
hàng hóa thế giới. Toàn cầu hóa kinh tế về bản chất là sự gia tăng nhanh chóng các

hoạt động kinh tế vượt qua biên giới giữa các quốc gia và giữa các khu vực với nhau
nhằm hướng tới một nền kinh tế thế giới hội nhập thông qua các diễn đàn, các tổ chức
5


kinh tế khu vực và quốc tế. Điều này đã thúc đẩy sự phát triển của việc xuất nhập
khẩu hàng hóa giữa các nước với nhau, làm gia tăng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
hàng hóa trên thế giới. Điển hình cho điều đó là sự gia tăng số lượng thành viên của
WTO đã lên tới 165/204 nước vào năm 2019, chứng tỏ các nước đều đang rất tích cực
tham gia quá trình này.
Hình 2. Số lượng thành viên của GATT/WTO

Nguồn: wto.org
Có thể thấy, nền thương mại hàng hóa thế giới đã và đang phát triển theo chiều
hưởng hết sức ổn định, tỷ lệ thuận với xu hướng hội nhập của tất cả các quốc gia trên
thế giới. Trong thời gian tới, quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu hàng hóa
của thế giới được dự báo là sẽ tiếp tục duy trì mức độ tăng trưởng này do có những
yếu tố hỗ trợ như đã đề cập ở trên.
2. Xuất khẩu hàng hóa
2.1.

Kim ngạch xuất khẩu

Về quy mô tăng trưởng xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa thế giới năm
1995 vượt mốc 5 nghìn tỷ USD. Con số này tăng lên thành 6,3 nghìn tỷ USD ở năm
2000 và đến năm 2005 là hơn 10 nghìn tỷ USD, gần gấp đôi so với 5 năm trước. Cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2009 đã làm cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa giữa
các nước có sự giảm sút đáng kể, chỉ đạt 12,3 nghìn tỷ USD, giảm 22,6% so với một
năm trước đó. Đến năm 2010, tình hình xuất khẩu hàng hóa khởi sắc trở lại nhờ vào
sự phục hồi của nền kinh tế thế giới và kim ngạch xuất khẩu đạt gần 15 nghìn tỷ USD,

tăng khoảng 22% so với cùng kỳ năm 2009.
Tuy có một vài lần sụt giảm nhẹ nhưng nhìn chung thì từ năm 1995 đến nay, kim
ngạch xuất khẩu hàng hóa thế giới tăng trưởng tương đối ổn định. Năm 2018, kim
ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 19,2 nghìn tỷ USD, tăng 9,7% so với năm 2017. So với
năm 1995, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đã tăng gần 4 lần, tăng hơn 3 lần so với năm
2005 và so với năm 2015 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trên thế giới đã tăng 1,2
lần.
Hình 3. Tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới giai đoạn 1995 - 2018

Nguồn: data.worldbank
Nguyên nhân của việc tăng trưởng này đầu tiên phải kể đến sự hình thành và phát
triển của các tổ chức liên kết kinh tế quốc tế như Tổ chức thương mại thế giới (WTO),
6


Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Liên minh châu Âu
(EU),... Các tổ chức kinh tế quốc tế đã tạo ra một môi trường thuận lợi, khuyến khích
các quốc gia và các vùng lãnh thổ tăng cường trao đổi mua bán hàng hóa với nhau,
làm tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa chung của toàn thế giới. Ngoài ra, việc các
nước tham gia ký kết các thỏa thuận FTA nhằm cắt giảm thuế quan hay loại bỏ các
hàng rào phi thuế cũng đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi để các nước có thể xuất khẩu
hàng hóa sang các quốc gia khác trên thế giới, thúc đẩy quá trình tăng trưởng của nền
thương mại hàng hóa toàn cầu.
Hình 4. Số lượng FTA có hiệu lực trên thế giới (1994 – 2018)

Nguồn: wto.org
Đến năm 2018, tức là chỉ sau 24 năm, số lượng các FTA đã gấp gần 8 lần so với
năm 1994. Có thể thấy rằng khi những lợi ích mà các tổ chức kinh tế thế giới cũng
như các hiệp định mang lại rất lớn, trở thành một xu hướng cho tất cả các quốc gia
trên toàn thế giới.

Nguyên nhân tiếp theo dẫn đến sự tăng trưởng có thể kể đến là sự phân chia sản
xuất trên thế giới. Với nền tảng là sự hợp tác, hội nhập và tạo điều kiện để cùng nhau
phát triển, các nước trên thế giới cùng nhau tạo ra các lợi thế so sánh, sản xuất những
mặt hàng là thế mạnh của quốc gia mình và xuất khẩu sang các quốc gia khác có nhu
cầu. Với những cam kết mở cửa, hàng hóa xuất khẩu sẽ dễ dàng di chuyển hơn, vì thế
kim ngạch xuất khẩu cũng vì thế mà tăng trưởng nhanh hơn.
2.2.

Cơ cấu xuất khẩu

Dễ thấy, trong giai đoạn từ năm 2000 – 2018, nhóm hàng thuộc lĩnh vực công
nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất trong 3 nhóm, đạt mức xấp xỉ 70%. Tiếp đến là khai
khoáng và nhiên liệu với mức dao động từ khoảng 15 - 20%, xếp sau cùng là nhóm
hàng nông sản với tỷ trọng trung bình khoảng 10%.

Bảng 1. Sự biến động cơ cấu thương mại hàng hóa thế giới giai đoạn 2000 - 2018
Tỷ trọng

Nông sản

Công nghiệp

Nhiên liệu,
khai khoáng

2000

8.91

74.87


16.22

2001

9.17

74.78

16.05

2002

9.37

76.21

14.42

2003

9.33

76.02

14.65

Năm

7



2004

8.91

75.74

15.35

2005

8.49

74.48

17.03

2006

8.17

73.39

18.43

2007

8.40


72.70

18.90

2008

8.71

70.78

20.50

2009

9.84

71.88

18.28

2010

9.61

70.28

20.11

2011


9.91

68.91

21.18

2012

10.03

69.46

20.51

2013

10.11

68.47

21.41

2014

10.29

69.30

20.41


2015

11.04

72.40

16.55

2016

11.31

72.96

15.73

2017

10.56

73.99

15.44

2018

10.82

71.74


17.43
Nguồn: world-statistic.org

Từ bảng số liệu ở trên có thể thấy được rằng giai đoạn từ năm 2000 – 2018, tuy
biến động không nhiều nhưng nhìn chung tỷ trọng nhóm hàng nông sản có xu hướng
tăng nhẹ, từ 8.91% đến 10.82%, trong khi với nhóm hàng công nghiệp thì có xu
hướng giảm xuống, từ 74.87% xuống còn 71.74%. Đối với nhóm hàng nhiên liệu,
khoáng sản, có thể thấy đã có lúc tỷ trọng nhóm hàng này tăng cao nhất đến 21.41%
vào năm 2013, nhưng giảm chỉ còn 17.43 vào năm 2018. Sự biến động cơ cấu 3 nhóm
ngành thương mại hàng hóa này chủ yếu là do nhu cầu của người dân theo thời kỳ
biến động của xã hội.
Nguyên nhân cơ cấu nhóm hàng nông sản có xu hướng tăng là do ngày nay diện
tích đất phục vụ nuôi trồng nông sản giảm, nhường chỗ cho các cơ sở hạ tầng hiện đại
phục vụ con người. Vì vậy sản xuất hàng nông sản trở nên khó khăn hơn, mà nhu cầu
của con người lại càng ngày càng cao, nhất là tại các nước phát triển. Xuất khẩu hàng
nông sản cũng dần tăng tỷ trọng theo nhu cầu của con người.
Nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu có xu hướng giảm bởi đây là những tài nguyên
thuộc về tự nhiên không thể tái tạo được. Việc khai thác quá mức trong quá khứ khiến
cho nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt, bắt buộc các nước cần phải có thêm những
giải pháp hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa này để bảo vệ tài nguyên, bảo vệ
môi trường.
8


Với nhóm hàng công nghiệp, hiện nay tỷ trọng nhóm hàng này vẫn chiếm rất cao,
tuy nhiên có xu hướng giảm nhẹ. Nền sản xuất công nghiệp hiện nay đi theo hướng
sản xuất công nghiệp sạch, an toàn, thân thiện với môi trường, tối ưu nguồn nguyên
nhiên vật liệu. Do đó các công ty đầu tư hơn vào việc nghiên cứu, phát triển các sản
phẩm của mình để chúng hoàn thiện hơn, đáp ứng được nhu cầu và xu hướng của
người dùng.

Hình 5. Cơ cấu thương mại hàng hóa thế giới năm 2018

Nguồn: data.worldbank
Năm 2018, nhóm hàng công nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng hàng
hóa xuất khẩu còn nhóm hàng nông sản xếp cuối cùng. Sự khác nhau về tỷ trọng giữa
các nhóm hàng là do xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới chú trọng vào phát
triển các ngành công nghiệp với những nguyên nhân sau:
Sản xuất công nghiệp đang có xu hướng dịch chuyển từ các nước phát triển sang
các nước đang phát triển.
Nếu nửa đầu giai đoạn trước công nghiệp của các nước đang phát triển chỉ chiếm
20%/tổng chung của công nghiệp thế giới thì nay đã là trên 30%. Xu hướng này vẫn
đang tiếp tục trong hiện tại và cả tương lai. Chính phủ các nước đang phát triển nhận
ra được những tiềm năng lớn mà ngành khoa học công nghiệp đem lại cho nền kinh tế
đất nước. Cùng với đó, các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo được tập trung nhiều hơn
để mở rộng hơn thị trường tại các quốc gia có tiềm năng.
Tại các nước đang phát triển trị giá gia tăng của sản xuất công nghiệp có xu
hướng tăng
Hiện nay đang diễn ra khuynh hướng các ngành mới có tính chất công nghệ như
công nghệ thông tin xâm nhập vào sản xuất công nghiệp. Tại các nước phát triển
khuynh hướng này rất dễ nhận thấy bởi vì tại đây các nhà máy sản xuất quần áo và
giày dép gần như không còn. Còn tại các nước đang phát triển, hầu hết các ngành sản
xuất đều nở rộ: dệt may, luyện kim, máy móc thiết bị. Các sản phẩm này vừa để đáp
ứng nhu cầu trong nước, vừa để xuất khẩu.
Có thể thấy, thế giới vẫn tập trung rất nhiều nguồn lực cho ngành công nghiệp, tập
trung phát triển khoa học công nghệ, kỹ thuật hiện đại để dần thay thế cho những điều
trong tự nhiên, phục vụ những nhu cầu ngày càng cao của con người. Xu hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, tập trung cho khoa học, cho công nghệ vẫn sẽ được tiếp diễn
trong tương lai gần, vì thế có thể dự đoán được trong vài năm tới, cơ cấu các nhóm

9



hàng hóa xuất khẩu được dự báo là sẽ không có nhiều thay đổi và gần như sẽ vẫn giữ
nguyên xu hướng phát triển của các năm trước.
2.3.

Top 10 nước xuất khẩu lớn nhất thế giới năm 2018
Hình 6. Top 10 nước xuất khẩu lớn nhất thế giới năm 2018

Nguồn: trademap.org
Dẫn đầu danh sách nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới năm 2018 là Trung Quốc, với
2,494 tỷ USD hàng hóa xuất ra nước ngoài, chiếm 12,97% tổng kim ngạch xuất khẩu
trên toàn thế giới. Quay trở lại những năm 1960 – 1970, nền kinh tế của Trung Quốc
còn bé hơn rất nhiều so với Mỹ. Thế nhưng từ năm 1970, khi chính phủ Trung Quốc
chịu mở cửa thị trường, bước vào quá trình hội nhập quốc tế, vị thế của Trung Quốc
cũng dần dần được khẳng định. Một động lực chính phía sau sự trỗi dậy mạnh mẽ của
kinh tế Trung Quốc là mạng lưới nhà máy sản xuất được mọi thứ, từ đồ chơi tới điện
thoại di động, cho người tiêu dùng ở khắp nơi trên thế giới. Việc gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới vào năm 2001 giúp Trung Quốc càng củng cố vững chắc vị thế
là công xưởng và nhà thương mại lớn nhất thế giới.
Tính đến năm 2016, Trung Quốc tham gia vào 22 các hiệp định FTA, nhưng
thương mại của quốc gia này với các FTA chỉ chiếm lượng thiểu số trong tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu của cả nước, chứng tỏ rằng tiềm lực của Trung Quốc là vô cùng
lớn, cũng chứng minh rằng Trung Quốc là một quốc gia tiềm năng trong việc hợp tác
thương mại quốc tế.
Nếu tính gộp số liệu của Hồng Kông, Trung Quốc sẽ nắm giữ 15,9% tổng xuất
khẩu toàn cầu, tương đương giá trị xuất khẩu của Nhật Bản, Hà Lan, Hàn Quốc, Pháp
và Anh cộng lại.
Tiếp đến trong danh sách là Mỹ, với 1,666 tỷ USD hàng hóa xuất khẩu ra nước
ngoài trong năm 2018. Nước cuối cùng nằm trong top ba quốc gia xuất khẩu hơn

1,556 tỷ USD hàng hóa mỗi năm là Đức.
Có thể dễ dàng nhận thấy tất cả những nước có tỷ trọng xuất khẩu lớn nhất thế
giới đều là những nước phát triển. Những quốc gia này nắm giữ những công nghệ, dây
chuyền sản xuất hiện đại, tiên tiến. Do vậy sản phẩm của những quốc gia này đều có
chất lượng rất tốt, được thế giới ưa chuộng và tiêu dùng.
Bên cạnh những cường quốc kinh tế vẫn thường nằm trong top thì sự xuất hiện
của những cái tên như Hàn Quốc hay Hồng Kông đã cho thấy được tiềm năng phát
triển mạnh mẽ trong ngành xuất khẩu của các quốc gia Châu Á. Trong tương lai gần,
10


khu vực Châu Á hứa hẹn sẽ trở thành một thị trường đầy năng động trong lĩnh vực
này.
3. Nhập khẩu hàng hóa
3.1.

Kim ngạch nhập khẩu

Về quy mô tăng trưởng nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa thế giới năm
1995 xấp xỉ 5 nghìn tỷ USD. Con số này tăng lên thành 6,3 nghìn tỷ USD ở năm 2000
và đến năm 2005 là hơn 10 nghìn tỷ USD, gần gấp đôi so với 5 năm trước. Cũng do
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2009, các nước đi đến xu hướng bảo hộ mậu
dịch để giảm thiểu tối đa tác động xấu đến từ cuộc khủng hoảng này. Đến năm 2010,
vấn đề khủng hoảng cơ bản được giải quyết, các nước quay trở lại mở cửa thị trường,
tăng lượng nhập khẩu hàng hóa quốc tế. Từ đó trở đi cũng là thời kỳ hội nhập nền
kinh tế chung phát triển, kim ngạch nhập khẩu thế giới bắt đầu tăng đều và nhanh hơn.
Với nhu cầu ngày càng tăng từ các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển
trong nền kinh tế thế giới chung, giai đoạn hội nhập từ 1995 – 2018 chứng kiến sự
tăng mạnh về tổng kim ngạch nhập khẩu của thế giới, với kết quả là cuối năm 2018
tổng kim ngạch nhập khẩu gấp gần 4 lần so với năm 1995. Có thể thấy rằng các nước

đang bắt nhịp nhanh chóng xu hướng hội nhập và khai thác được lợi ích mà xu hướng
này đem lại cho chính quốc gia của mình.
Hình 7. Tổng kim ngạch nhập khẩu của thế giới giai đoạn 1995 - 2018

Nguồn: data.worldbank.org
Như đã phân tích ở phần kim ngạch xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu cũng chịu
ảnh hưởng rất lớn từ quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Khi các chính phủ trên thế giới
lần lượt mở cửa thị trường nước mình, cùng bước chân vào các tổ chức, các hiệp định
Thương mại tự do để đạt được lợi ích từ nguồn lợi xuất khẩu, thì các nước đồng nghĩa
với việc mình phải chấp nhận tuân thủ tất cả những điều lệ, những cam kết, quy định
của các tổ chức, hiệp định mà mình tham gia. Trong đó, việc tuân thủ những cam kết
mở cửa thị trường là một cơ hội cũng như một thách thức đến các quốc gia. Cơ hội
nhập khẩu những mặt hàng cần thiết cho người dân nhưng cũng là thách thức bảo hộ
thị trường trong nước. Vì vậy, các quốc gia luôn tuân thủ các điều luật của WTO hay
các cam kết từ các hiệp định, các FTA, nhưng mặt khác cũng dựng nên hàng rào phi
thuế để bảo hộ thị trường của chính mình.
Một nguyên nhân của việc nhập khẩu tăng cũng đã đề cập tại mục 2, đó là sự hợp
tác giữa các quốc gia giúp cho mỗi nước có thể có một lợi thế so sánh cho riêng mình.
Các nước sẽ tập trung chuyên môn hóa sản xuất những mặt hàng mà mình có lợi thế
11


về công nghệ, chi phí, dây chuyền sản xuất,… đồng thời cũng nhập các hàng hóa mà
điều kiện sản xuất trong nước không có lợi. Tuy vậy, các quốc gia vẫn cố gắng tìm cho
mình nhiều những mặt hàng có lợi thế nhất để tránh bị hiện tượng nhập siêu, cán cân
thương mại quốc gia bị âm.
Cũng chính vì nguyên nhân này mà chúng ta có thể thấy trên biểu đồ, sự tăng
trưởng của kim ngạch nhập khẩu thế giới là biến động không lớn và nhìn chung, tổng
kim ngạch nhập khẩu và xuất khẩu của toàn thế giới cũng không chênh lệch quá lớn.
Điều đó thể hiện một sự khôn ngoan, tỉnh táo của tất cả chính phủ trên thế giới trước

quá trình hội nhập. Các chính phủ luôn tìm cách tham gia ký kết các hiệp định hợp tác
với các chính phủ khác để nhận được những quyền lợi tốt nhất, nhưng đồng thời cũng
giải được bài toán khó đó là bảo hộ thị trường sản xuất trong nước, cố gắng giảm thiểu
đến mức tối đa những hàng hóa mà trong nước có thể tự đáp ứng được.
3.2.

Top 5 nước nhập khẩu lớn nhất thế giới 2018

Như nhận xét ở trên, kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu gần như có sự chênh lệch
không lớn. Do vậy, không có gì lấy làm lạ khi top 3 những nước xuất khẩu lớn nhất
thế giới năm 2018 cũng chính là những nước nhập khẩu lớn nhất thế giới cùng kỳ.
Hình 8. Top 5 nước nhập khẩu lớn nhất thế giới năm 2018

Nguồn: trademap.org
Mỹ giành vị trí số 1 với tổng giá trị nhập khẩu 2,61 nghìn tỷ USD trong năm
2018, chiếm 13,27% nhập khẩu toàn cầu. Nguyên nhân khiến cho siêu cường quốc về
kinh tế này có kim ngạch nhập khẩu lớn nhất thế giới là do sự lợi dụng lợi thế so sánh.
Mặc dù Mỹ có thể sản xuất tất cả những gì người dân cần, Trung Quốc, Mexico và
các nước thị trường mới nổi khác có thể sản xuất không bằng nước Mỹ, tuy
nhiên chi phí của những nước này thấp hơn, điều này dẫn đến chi phí nhân công của
cũng vì thế mà thấp hơn so với nhân công thuê tại Mỹ. Điều đó khiến cho các nước
đối tác có lợi thế hơn về mặt chi phí trong việc sản xuất những hàng hóa mà người
tiêu dùng Mỹ mong muốn hơn các công ty Mỹ. Chẳng hạn như, các công ty công nghệ
Ấn Độ có thể trả cho công nhân của họ chỉ 7.000 đô la một năm, thấp hơn nhiều so
với mức lương tối thiểu của Mỹ.
Điều đó giải thích cho việc các công ty của Mỹ luôn tìm kiếm những khu vực, thị
trường tiềm năng cho các sản phẩm của mình, đặc biệt là tại các nước đang phát triển
bởi không chỉ gần nguồn nguyên nhiên liệu mà chi phí thuê lao động cũng rẻ hơn rất
nhiều. Cũng vì thế, để đáp ứng được đủ nhu cầu trong nước, Mỹ buộc phải nhập khẩu
nguyên nhiên liệu và hàng hóa từ bên ngoài lãnh thổ, dẫn đến sự gia tăng kim ngạch

12


xuất khẩu. Đây cũng là một chiến lược của Mỹ, khi phát triển nền kinh tế theo hướng
an toàn, bảo vệ môi trường, đưa các khâu sản xuất hàng hóa gây ô nhiễm, có hại nhiều
ra bên ngoài lãnh thổ, tập trung hoạt động công nghệ thông tin, điện tử, nghiên cứu,…
tại trong nước.
Mỹ cũng đã rút khỏi hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và có dự
định rút khỏi hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Điều này sẽ gây ảnh
hưởng không chỉ cho Mỹ mà còn cho cả rất nhiều quốc gia trên thế giới.
Trung Quốc và Đức lần lượt ở vị trí số 2 và 3 với giá trị nhập khẩu 2,13 nghìn tỷ
USD, tương đương 10,83% nhập khẩu toàn cầu, và 1,29 nghìn tỷ USD, tương đương
6,56% nhập khẩu toàn cầu. Xếp tiếp theo là Nhật Bản và Anh.
Thứ hạng của những nước có giá trị nhập khẩu lớn nhất thế giới không thay đổi
nhiều so với năm 2017. Nhu cầu của những quốc gia này luôn rất lớn bởi dân số đông,
sản xuất chủ yếu mang tính phân hóa cao, nhập khẩu lớn những nguyên vật liệu phục
vụ cho sản xuất. Do đó dù kim ngạch nhập khẩu lớn nhưng 5 quốc gia này cũng đều
đứng trong Top 10 các nước có kim ngạch xuất khẩu đứng đầu thế giới.
II. Xu hướng phát triển của thương mại hàng hóa thế giới trong thời gian tới
dưới tác động của xu thế toàn cầu hóa kinh tế và cuộc cách mạng 4.0
Toàn cầu hóa nền kinh tế ngày nay đã trở thành một xu thế chung của thời đại mà
các quốc gia không thể bỏ qua được. Quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế cùng với sự
phát triển của khoa học công nghệ trong thời đại 4.0, sự thay đổi trong các chính sách
quản lý của quốc gia với việc mở rộng thị trường cho giao thương quốc tế cũng như
gia nhập vào các tổ chức quốc tế và khu vực, việc hạn chế và dỡ bỏ các hàng rào
thương mại và hàng rào thuế quan,...đã làm gia tăng nhanh chóng của những giao dịch
thương mại mang tính toàn cầu vượt ra khỏi biên giới của mỗi quốc gia. Hiện nay các
hoạt động thương mại không còn bị bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ quốc gia như trước
mà thường mang tính quốc tế và thậm chí trên phạm vi toàn cầu.
Dưới tác động của của xu thế toàn cầu hóa kinh tế và cuộc cách mạng 4.0, thương

mại quốc tế nói chung và thương mại hàng hoá thế giới nói riêng đang tăng trưởng vô
cùng mạnh mẽ và không ngừng mở rộng, góp phần chuyển biến cơ cấu kinh tế thế
giới, thức đẩy sự xích lại gần nhau của các dân tộc, kích thích sự trao đổi, giao lưu
kinh tế cũng như văn hoá. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thế giới, có thể
nói thương mại hàng hoá có vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế thế giới
và các nền kinh tế quốc gia.
Trong xã hội hiện đại, nhu cầu của con người ngày càng gia tăng và đa dạng hơn.
Điều này đỏi hỏi sự tăng lên không ngừng của sản xuất hàng hoá, đồng thời cải tiến,
hoàn thiện sản phẩm, hàng hoá. Sự phát triển của sản xuất hàng hoá kéo theo sự phát
13


triển của thương mại hàng hoá về cả quy mỗ lẫn tốc độ. Dưới đây là một số xu hướng
phát triển của thương mại hàng hoá thế giới:
Quy mô thương mại hàng hoá càng ngày càng tăng trong thị trường nội địa và thị
trường xuất khẩu.
Sự tăng trưởng này là do nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất và đời sống càng ngày
càng tăng, sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển với trình độ khoa học và công nghệ
tiên tiến, chiến lược và các chính sách phát triển kinh tế, thương mại của các quốc gia
ngày càng phù hợp với quá trình tự do hoá thương mại và toàn cầu hoá kinh tế thế
giới.
Một vài biểu hiện của sự phát triển này có thể kể đến như sự gia tăng lượng hàng
hoá lưu chuyển trên thị trường nội địa, kim ngạch xuất nhập khẩu ngày càng gia tăng,
năm sau cao hơn năm trước về trị giá thương mại:


Có thể lấy ví dụ về sự tăng trưởng của kim ngạch xuất nhập khẩu trên thị
trường thế giới dựa vào biểu đồ Hình 1. Kể từ năm 1995 đến nay, tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của toàn thế giới đạt tốc độ tăng trưởng tương
đối ổn định. Năm 2018, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đạt 38,2 nghìn tỷ

USD, tăng 10,4% so với năm 2017.



Đối với thị trường Việt Nam nói riêng, trong giai đoạn 2011-2018, hàng hóa
Việt Nam đã tiếp tục khai thác các thị trường truyền thống và mở rộng tìm
kiếm, phát triển thêm nhiều thị trường mới. Tính đến nay, hàng hóa của Việt
Nam đã có mặt tại trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Kim ngạch xuất khẩu
sang các thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam là Hoa Kỳ, Liên minh
châu Âu (EU), các quốc gia Đông Nam Á, Nhật Bản và Hàn Quốc đều có tăng
trưởng cao.

Trong tương lai, các nước phát triển sẽ gia tăng thương mại đối với những hàng
hoá có yêu cầu đổi mới công nghệ và chuyển giao kỹ thuật.
Các quốc gia có nền kinh tế phát triển, trình độ công nghiệp hoá cao coi khoa học
công nghệ là cốt lõi của biến đổi nền kinh tế. Các nước này áp dụng nhiều biện pháp
để dành được các ưu thế trong sáng tạo kỹ thuật công nghệ.

14


Các nước đang phát triển và chậm phát triển phát triển thương mại theo hướng
khai thác quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tiếp nhận chuyển giao công nghệ
hiện đại.
Việc chuyển nhượng các kỹ thuật trung gian và truyền thống ở các nước phát triển
sang các nước kém phát triển hơn giúp các nước nghèo rút ngắn được chu kỳ đổi mới
kỹ thuật và thời gian hoàn vốn cho những kỹ thuật nhập khẩu, trên cơ sở đó nhanh
chóng bắt nhịp với trình độ hiện đại của nền sản xuất thế giới. Việc thu hút và sử dụng
đầu tư nước ngoài của các quốc gia đang và chậm phát triển góp phần tác động thúc
đẩy chuyển dịch, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng

lực cạnh tranh quốc gia, bổ sung nguồn vốn trong nước và cải thiện cán cân thanh toán
quốc tế giúp tăng cường quan hệ đối ngoại, hợp tác và hội nhập quốc tế.
Thương mại hàng hoá không chỉ tăng lên về quy mô mà còn có khả năng gia tăng
tốc độ.
Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng không đông đều, tỷ trọng có xu hướng giảm trong
tổng thương mại. Theo số liệu tăng trưởng thương mại hàng quý của WTO, tăng
trưởng thương mại hàng hóa toàn cầu nhiều khả năng sẽ suy yếu, với chỉ số đứng ở
mức 95,7. Theo WTO, các rào cản thương mại cao hơn và bất ổn lớn hơn do những
căng thẳng tạo ra có thể dẫn đến những dự báo tiêu cực đối với tăng trưởng thương
mại. Tất cả các chỉ số thành phần đạt “dưới chuẩn” là nguyên nhân khiến chỉ số tăng
trưởng thương mại của WTO tiếp tục suy yếu.
Cơ cấu thương mại hàng hoá ngày càng thay đổi theo hướng đa dạng, phong phú
hơn, đáp ứng những nhu cầu biến đổi của thị trường nhanh hơn, tốt hơn.
Điều này có thể giải thích được là do sự phát triển ngày càng lớn của thị trường
người tiêu dùng, có yêu cầu cao đối với chất lượng hàng hoá, đa dạng về chủng loại,
điều kiện giao hàng, bao bì, mẫu mã, thời hạn thanh toán, các dịch vụ sau bán hàng
đều phải được nâng cao và chú trọng. Trong cuộc cách mạng công nghệ 4.0, nhờ
những tiến bộ của khoa học công nghệ chu kỳ sống của sản phẩm ngày càng rút ngắn
lại, hàng hóa có hàm lượng khoa học và công nghệ tăng cao. Ngoài ra, do cạnh tranh
ngày càng quyết liệt đòi hỏi phải nâng cao chất lượng và hiệu quả thương mại.
Hàng hoá đã qua chế biến cẩn thận, có hàm lượng lao động kỹ thuật, chất xám cao,
các loại hàng hoá cao cấp đắt tiền ngày càng gia tăng làm thay đổi cơ cấu, tỷ trọng
15


thương mại. Các loại hàng hoá có hàm lượng dinh dưỡng cao, an toàn vệ sinh thực
phẩm, đáp ứng được chất lượng cuốc sống hàng ngày sẽ càng được quan tâm và chiếm
vị trí quan trọng trong đời sống, xã hội. Hàng hoá có tính mốt sẽ luôn biến đổi, bắt kịp
với xu hướng trên thế giới. Hàng hoá sẽ không dậm chân tại chỗ, nó sẽ luôn được con
người cải tiến, sáng tạo để thoả mãn những yêu cầu ngày càng khắt khe của người tiêu

dùng.
Hàng hoá ngày càng đa dạng về nhãn hiệu, xuất xứ, được tiêu chuẩn hoá.
Cạnh tranh và hội nhập trong thương mại quốc tế thúc đẩy sự đa dạng của hàng
hoá, nâng cao uy tín của thương hiệu, nhãn hiệu. Hàng hoá lưu thông trên thị trường
hiện nay hết sức đa dạng và phong phú về chủng loại, mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc,
nguồn gốc xuất xứ… đã đáp ứng được phần nào thị hiếu, thoả mãn nhu cầu ngày càng
tăng cao của người tiêu dùng.Tuy vậy, ngày càng có nhiều thương hiệu mới ra đời,
cung cấp nhiều mặt hàng hơn, đáp ứng được nhu cầu của mọi phân khúc khách hàng.
Sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng, chứng nhận ISO ngày càng gia tăng. Những
sản phẩm có xuất xứ đa dạng khác nhau, nhưng đạt tiêu chuẩn về lao động, vệ sinh,
môi trường và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng là xu hướng mang tính phổ biến trong
thương mại hàng hoá quốc tế.
Tuy nhiên, thương mại hàng hoá toàn cầu hiện nay đang gặp phải một khó khăn trở
ngại rất lớn là vấn đề hàng giả, hàng nhái và buôn bán phi pháp, nhất là trong điều
kiện hội nhập quốc tế.
III.

Tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam 1995-2018

1. Kim ngạch xuất khẩu
Hình 9. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam giai đoạn 1995 - 2018

Nguồn: data.worldbank
Nhìn vào biểu đồ ta thấy:
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã đạt quy mô khá 5.5 tỷ USD vào năm 1995.
Đến năm 2000, kim ngach xuất khẩu của Việt Nam đạt 14.48 tỷ USD, tăng gần gấp 3
lần so với năm 1995. Trong khi con số này của năm 2005 đạt 32.44 tỷ USD.

16



Đến năm 2009, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, tổng trị
giá xuất khẩu giữa có sự giảm sút đáng kể, chỉ đạt 57.1 tỷ USD, giảm 8,9% so với một
năm trước đó.
Đến năm 2010, tình hình kinh tế thế giới hồi phục nên nhờ đó kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 72.24 tỷ USD, tăng 26.5% so với cùng kỳ năm 2009
và chiếm 69,72% tổng GDP của cả nước. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu
hàng hóa được xếp vào mức cao nhất khu vực Đông Nam Á, chỉ đứng sau Trung
Quốc. Từ chỗ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng thu nhập quốc dân 24% năm 1995,
đến năm 2007 xuất khẩu đã chiếm 64.9%- đứng thứ 5 so với các nước trong khu vực
Đông Nam Á, thứ 6 ở Châu Á, thứ 8 thế giới.
Nhìn chung kể từ năm 1995 đến nay kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt tốc
độ tăng trưởng ổn định. Năm 2018, kim ngạch xuất khẩu đạt 245.6 tỷ USD, tăng
14.6% so với năm 2017. So với năm 1995 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng
hơn 44 lần.
Nguyên nhân chính tạo nên sự tăng trưởng trong kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
của nước ta là việc phát triển, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả những thị trường
tiềm năng. Các thị trường xuất khẩu truyền thống vẫn được duy trì và phát triển, đồng
thời mở rộng một số thị trường mới theo các hiệp định thương mại được kí kết, là kết
quả của những hoạt động xúc tiến thương mại ngoài nước của các bộ, ngành, địa
phương, doanh nghiệp.
Trong thời gian tới, quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam được dự báo sẽ tiếp tục duy trì mức tăng trưởng ổn định do có những yếu tố hỗ
trợ như tiếp tục hưởng ưu đãi thuế quan với tổng số trên 99% dòng thuế của ASEAN
là 0% theo ATIGA; tự do hóa thuế quan, xóa bỏ hàng rào phi thuế, cải thiện yêu cầu
về quy tắc xuất xứ, thuận lợi hóa thương mại, đơn giản hóa, hiện đại hóa thủ tục hải
quan, hài hóa hóa tiêu chuẩn và chứng nhận sự phù hợp, áo dụng các biện pháp kiểm
dịch về sinh động thực vật phù hợp.
2. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu
Cơ cấu hàng xuất khẩu là tổng thể các bộ phận giá trị hàng hóa xuất khẩu hợp

thành tổng kim ngạch xuất khẩu của một quốc gia cùng với những mối quan hệ ổn
định và phát triển giữa các bộ phận trong một điều kiện kinh tế - xã hội cho trước
tương ứng với một thời kì xác định. Trong đó, chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu là
sự thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu từ trạng thái này sang trạng thái khác sao cho phù
hợp với yêu cầu phát triển.
Hình 10. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1995-2018
17


Biểu đồ cho thấy rõ cơ cấu xuất khẩu trong giai đoạn 1995-2005 của Việt Nam đã
có sự thay đổi rõ rệt với tỷ trọng nhóm hàng nông sản giảm từ 46.2% năm 1995 xuống
còn 23% năm 2005, nhóm hàng công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng (nhiên liệu,
khai khoáng) tăng mạnh và tỷ trọng luôn chiếm hơn 70% trong giai đoạn này. Để giải
thích cho sự chuyển dịch này, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của Chiến lược phát triển
kinh tế xã hội 1996-2000 và 5 năm đầu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội 20012010 là đẩy mạnh cộng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với phương hướng phát
triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ
sản và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đồng thời phát triển các ngành công nghiệp nhẹ, xây dựng có chọn lọc một số cơ sở
công nghiệp nặng về dầu khí, than, xi măng, cơ khí, điện tử, thép,...
Giai đoạn 2008‐2009, do bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu,
chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu giai đoạn này không đạt được hiểu quả như chính sách
đề ra, với tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp vẫn duy trì ở mức hơn 50% từ năm 2005
và chỉ giảm nhẹ ở nhóm hàng nhiên liệu, khai khoáng khoảng 5% còn nhóm hàng
nông sản gần như không thay đổi.
Trong giai đoạn từ 2010 đến nay, xuất khẩu của Việt Nam có sự chuyển dịch tích
cực hơn về cơ cấu nhóm hàng theo hướng tiếp tục giảm tỷ trọng của nhóm sản phẩm
thô và sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng của nhóm sản phẩm chế biến, chế tạo trong tổng
kim ngạch xuất khẩu. Cụ thể, tỷ trọng nhóm hàng khai thác nhiên liệu, khai khoáng
giảm xuống chỉ còn xấp xỉ 2% năm 2018. Nhóm hàng công nghiệp có tỷ trọng tăng
mạnh từ 67.9% lên hơn 80%; còn tỷ trọng nhóm ngành nông sản duy trì mức hơn

10%. Sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu này theo đúng mục tiêu tại Chiến lược
Xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030 cùng với sự
đóng góp tích cực của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), vì khu vực này đã
chiếm tỷ trọng cao hơn trong các sản phẩm chế biến hoặc tinh chế, đặc biệt là các mặt
hàng có kỹ thuật công nghệ cao.
Hình 11. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam năm 2018

Thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan cho biết, kim ngạch xuất khẩu năm 2018
đạt 243,5 tỷ USD. Xét theo nhóm hàng xuất khẩu, kim ngạch của nhóm hàng công
nghiệp chế biến năm 2018 đạt khoảng 201.7 tỷ USD, chiếm 82.8% tổng kim ngạch
xuất khẩu, tăng 15.7% so với năm 2017. Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản đạt 28.1 tỷ
USD, chiếm 10.9% và tăng 7.6%. Nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản đạt 4.7 tỷ USD,
chiếm 1.9% và giảm 1.5%.

18


Sự chuyển đổi cơ cấu xuất khẩu theo hướng tích cực đó là minh chứng thể hiện
những nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam đã bước đầu đạt kết quả và có sức lan tỏa, tạo thuận lợi cho sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp. Bên cạnh đó, Việt Nam
đã tận dụng tốt các ưu đãi về thuế quan trong các FTA (hiệp định thương mại tự do).
Doanh nghiệp không chỉ mở rộng được thị trường xuất khẩu mới là các nước trong
khối hiệp định mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng thị phần tại các thị
trường truyền thống lẫn thị trường mới.
3. Thị trường xuất khẩu
3.1.

Thị trường Hoa Kỳ


Hình 12. Trị giá xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ giai đoạn 2005-2015

Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất trong chiến lược phát triển kinh
tế-thương mại của Việt Nam. Đây là thị trường có nhu cầu nhập khẩu rất lớn và đa
dạng, nhất là đối với những mặt hàng mà ta đang và có tiềm năng xuất khẩu lớn như
dệt may, giày dép, đồ gỗ, thủy sản, điện tử, điện và gia công cơ khí.
Năm 2008, tuy chịu ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nhưng quan hệ
thương mại giữa hai nước vẫn có những dấu hiệu khả quan. Tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2008 là 12 tỷ USD, sang đến năm 2009, mặc dù tiếp
tục gặp nhiều khó khăn do suy thoái kinh tế nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt
11,36 tỷ USD, giảm nhẹ 4,3% so với 2008. Trải qua giai đoạn khủng hoảng kinh tế
toàn cầu, tốc độ tăng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong
giai đoạn từ năm 2010 đến 2018 bình quân đạt 16,3%/năm, từ mức 14,24 tỷ USD
trong năm 2010 thì đến 2018 đạt 47,53 tỷ USD. Nổi bật: trong năm 2011 tăng 18,9%,
năm 2013 tăng 21,3%; năm 2014 tăng 20,1%.
3.2.

Thị trường EU

Hình 13. Trị giá xuất khẩu của Việt Nam sang EU giai đoạn 2011-2015

Nguồn: Data.WorldBank
Thị trường EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam, sau Mỹ, luôn
chiếm khoảng 18% thị phần xuất khẩu của Việt Nam. Đồng thời, Một trong những thị
trường VN kỳ vọng có thể tăng xuất khẩu và nhập hàng tốt là EU, sau khi Hiệp định
thương mại tự do EU - VN (EVFTA) có hiệu lực.

19



Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang thị trường EU tăng đều qua từng năm với tốc
độ tăng trưởng bình quân qua các năm là 14.3% nhờ tận dụng tốt các ưu đãi về thuế
quan trong các FTA. Năm 2017, kim ngạch xuất khẩu là 38,18 tỷ USD, tăng 12,7%
(tương ứng tăng 4,33 tỷ USD) so với năm 2016. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường
EU tăng cao trong giai đoạn 2016-2018 là nhờ trị giá xuất khẩu của một số nhóm hàng
tăng cao như máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện; điện thoại các loại và linh
kiện (14,36 tỉ USD)…
Về các đối tác trong nội khối EU: Đức, Hà Lan và Anh là 3 đối tác thương mại lớn
nhất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong EU. Trong năm 2017, Đức có tổng trị
giá hàng hóa trao đổi đạt 9,57 tỷ USD, chiếm gần 19% trong tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu của Việt Nam với cả khối EU. Tiếp theo là Hà Lan đạt 7,77 tỷ USD (chiếm
tỷ trọng 15,4%), Anh đạt 6,15 tỷ USD (chiếm tỷ trọng 12,2%), Pháp đạt 4,61 tỷ USD
(tỷ trọng 9,1%); ...
3.3.

Thị trường ASEAN

Hình 14. Trị giá xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN giai đoạn 2005-2015

Nguồn: Data.WorldBank
ASEAN là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn thứ 3 của các doanh nghiệp Việt
Nam, chỉ sau thị trường Hoa Kỳ và thị trường các nước thành viên Liên minh châu Âu
- EU. Năm 2005, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu giữa Việt Nam - ASEAN đạt 5,031 tỷ
USD trong khi đó con số này của năm 2008 là 10,018 tỷ USD, tăng gần gấp đôi so với
năm 2005.
Đến năm 2009, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, tổng trị
giá xuất khẩu giữa Việt Nam với tất cả các quốc gia thành viên AEC có sự giảm sút
đáng kể, chỉ đạt 8,555 tỷ USD, giảm 14,4% so với một năm trước đó. Đến năm 2010,
tình hình kinh tế thế giới hồi phục nên nhờ đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam sang thị trường ASEAN đầu năm cũng đạt 10,351 tỷ USD, tăng 21% so với năm

2009. Xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN năm 2016 giảm 4% so với năm 2015
trước khi trở lại mạnh mẽ vào năm sau. Cụ thể, xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
sang thị trường ASEAN năm 2017 đạt 21,51 tỷ USD, tăng mạnh 23,9% và đạt con số
ấn tượng 24.5 tỷ vào năm 2018.
3.4.

Thị trường xuất khẩu Trung Quốc

Kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc tính đến tháng 8 năm 2019 đạt 23,89 tỷ
USD, giảm 2% so với năm 2018. Điều này do bối cảnh tình hình thị trường thế giới và
khu vực hiện nay đang có nhiều biến động như sự sụt giảm nhu cầu tiêu thụ nội địa
20


của Trung Quốc do tình hình kinh tế trong những tháng đầu năm 2019 của nước này
không khởi sắc. Ngoài ra, tác động từ cuộc xung đột thương mại Mỹ - Trung dẫn tới
xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm nhập khẩu nông sản làm nguyên liệu để
chế biến và tái xuất khẩu, đồng NDT giảm giá…Điều đó làm cho xuất khẩu nông sản,
thủy sản sang Trung Quốc gặp không ít khó khăn, thậm chí đang đối mặt nguy cơ suy
giảm.
Hình 15. Một số mặt hàng nông lâm thủy sản
xuất khẩu sang Trung Quốc (USD)

Nguồn: Data.WorldBank
3.5.

Thị trường xuất khẩu Nhật Bản

Hiện nay, Nhật Bản hiện là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 (sau Mỹ và Trung
Quốc). Sang năm 2019, cụ thể là 8 tháng đầu năm 2019 thương mại hai chiều giữa hai

nước đạt 29,16 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 13.33 tỷ USD, tăng 9,3% so với cùng
kỳ năm 2018, và chiếm tỷ trọng 7.8% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nước ta.
3.6.

Thị trường xuất khẩu Hàn Quốc

Sang năm 2019, cụ thể là 8 tháng đầu năm 2019, kim ngạch xuất khẩu đạt 12.85
tỷ USD, tăng 7.7% so với cùng kỳ năm 2018, và chiếm tỷ trọng 7.5% trong tổng kim
ngạch xuất khẩu nước ta.

21


Bảng 2. Kim ngạch xuất khẩu sang một số nước tháng 8/2019
Xuất khẩu
Thị trường

Kim ngạch
(tỷ USD)

So với năm 2018
(%)

Tỷ trọng (%)

Trung Quốc

23.89

-2.0


13.9

Nhật Bản

13.33

9.3

7.8

Hàn Quốc

12.85

7.7

7.5

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

8.
9.
10.
11.

12.

13.
14.

15.

16.

/>
/> /> />;
www.gso.gov.vn
/>Bộ Công thương (2017), Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam 2016
Nguyễn Trần Dũng (2011). Tác động của FATA tới thương mại Việt Nam. Tạp
chí Kinh tế và kinh doanh, số 27, ĐHQGHN: 226-227
Báo cáo XNK Việt Nam 2017 của Bộ Công Thương:
/>Báo cáo XNK Việt Nam 2018 của Bộ Công Thương:
/>+Nam+2018.pdf/7f1254e3-a1e3-4e90-b050-b8fd9c5b30f0
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 1991-2000:
/>Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010:
/>ThongTinTongHop/noidungvankiendaihoidang?
categoryId=10000714&articleId=10038387
Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 – 2020:
/>nkinhtexahoi?docid=1174&substract=&strutsAction=ViewDetailAction.do
Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam – Hoa Kỳ trên đà phát triển:

/>List=8443d105-ffda-415f-bbb24a0beab0593f&ID=59&ContentTypeId=0x010400F3E514DDA4ECE44F88D
2B706407334B1

23



×