Tải bản đầy đủ (.docx) (112 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra, giám sát của ngân hàng nhà nước đối với các tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
__________________

HÀ THỊ LÊ THUẬN

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG
THANH TRA, GIÁM SÁT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP.Hồ Chí Minh – Năm 2011







LỜI MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài.

Trong những năm gần đây, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa đã
làm thay đổi khá lớn nền kinh tế nước ta nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Hoạt
động của hệ thống ngân hàng đã có nhiều chuyển biến tích cực, thực thi có hiệu quả
chính sách tiền tệ quốc gia, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.


Nền kinh tế thị trường đã làm các thành phần kinh tế phát triển đa dạng, phong
phú và tự do kinh doanh cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước nào cũng có
công cụ và áp dụng các biện pháp thích hợp để hạn chế những tiêu cực do chính cơ chế
thị trường đẻ ra. Một trong những công cụ thiết yếu đó là thanh tra, Ngân hàng nhà nước
thực hiện việc thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng. Đối với hoạt động ngân hàng của
các tổ chức tín dụng trong cơ chế thị trường, do có những đặc thù về quản lý tài sản nhằm
duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng, bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền nên thanh
tra, giám sát ngân hàng có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng và chức năng, phương thức
hoạt động cũng mang tính đặc thù.
Ngày 01/8/2009 theo Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ,
Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng chính thức hoạt động. Cơ quan thanh tra, giám sát
ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt nam đã phát huy hiệu quả từ hoạt động
thực tiễn thời gian vừa qua, có đóng góp to lớn vào thành tựu chung của ngành. Tuy
nhiên, trước thực trạng số lượng các tổ chức tín dụng ngày càng gia tăng, hoạt động và
dịch vụ ngày càng phong phú và hiện đại thì hoạt động thanh tra, giám sát của Ngân hàng
Nhà nước đã tỏ ra còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản lý hệ thống ngân
hàng hiện đại. Để công tác thanh tra, giám sát đạt hiệu quả cao hơn, Cơ quan thanh tra,
giám sát phải tiếp tục kiện toàn bộ máy tổ chức, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật,
đánh giá thực tiễn hoạt động, ... nhằm góp phần đảm bảo an toàn hệ thống, từng bước áp
dụng phương pháp thanh tra theo thông lệ quốc tế.
Tương tự như vậy, Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng nhà nước Chi
nhánh thành phố Hồ Chí Minh cũng còn nhiều bất cập, bộ máy tổ chức chưa kiện toàn,
lực lượng cán bộ thanh tra còn thiếu, kém…. Bài viết nhằm đánh giá công tác thanh tra,
1


giám sát của ngân hàng nhà nước đối với các tổ chức tín dụng hiện nay, từ đó đề xuất một
số giải pháp. Trong khuôn khổ nghiên cứu này, tôi xin đề cập đến các giải pháp để nâng
cao chất lượng thanh tra, giám sát của ngân hàng nhà nước đối với các các tổ chức tín
dụng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh với tên đề tài:

“Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra, giám sát
của ngân hàng nhà nước đối với các tổ chức tín dụng
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Một số vấn đề cơ sở lý luận về hoạt động thanh tra, giám sát của ngân hàng
nhà
nước đối với các tổ chức tín dụng.
-

Đánh giá, phân tích và làm rõ thực trạng về hoạt động thanh tra, giám sát của

ngân hàng nhà nước đối với các tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra, giám
sát
của ngân hàng nhà nước đối với các tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng nhà nước đối
với các tổ chức tín dụng.
- Phạm vi nghiên cứu:
+
Hoạt động thanh tra, giám sát đối với các tổ chức tín dụng của Ngân
hàng nhà
nước;
+ Đánh giá thực trạng chất lượng hoạt động thanh tra, giám sát đối với các tổ
chức tín dụng của Ngân hàng nhà nước trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm 2009,
2010, 2011.
+ Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra, giám sát đối
với tổ chức tín dụng của Ngân hàng nhà nước trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
4.


Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, nghiên cứu những nguyên lý cơ
bản của khoa học kinh tế, những vấn đề lý luận liên quan đến chất lượng hoạt động thanh
tra, giám sát đối với các tổ chức tín dụng của Ngân hàng nhà nước. Đồng thời, vận dụng


2


các phương pháp quan sát, phân tích, tổng kết kinh nghiệm, tổng hợp và so sánh để phân
tích thực tiễn chất lượng hoạt động thanh tra, giám sát đối với các tổ chức tín dụng của
Ngân hàng nhà nước trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đề xuất các giải pháp
giải quyết những bất cập một cách tốt nhất.
5. Ý nghĩa của đề tài
- Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về thanh tra, giám sát ngân hàng.
- Hoàn thiện quy trình, nội dung, phương pháp thanh tra thanh tra, giám sát
ngân
hàng.
- Góp phần nâng cao chất lượng công tác thanh tra, giám sát của Ngân hàng nhà
nước đối với các tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hướng tới mục
tiêu đảm bảo an toàn cho hoạt động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh một cách hiệu quả nhất và nâng cao chất lượng công tác thanh tra, giám sát phù
hợp với xu hướng phát triển của đất nước trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới hiện
nay.
6.

Kết cấu luận văn :


Lời mở đầu
Chương 1: Lý luận chung về hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng chất lượng thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước Chi
nhánh Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra, giám sát của
Ngân hàng nhà nước đối với các tổ chức tín dụng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết luận

3


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TRA, GIÁM SÁT NGÂN HÀNG

1.1. KHÁI NIỆM VÀ MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH
TRA, GIÁM SÁT NGÂN HÀNG THUỘC NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC.
1.1.1 Khái niệm về thanh tra, giám sát ngân hàng.
1.1.1.1 Khái niệm về thanh tra, giám sát.
-

Thanh tra (inspect) xuất phát từ gốc La tinh (inspectorate) có nghĩa là “nhìn vào

bên trong”, chỉ một sự kiểm tra, xem xét từ bên ngoài đối với hoạt động của một số đối
tượng nhất định. Theo từ điển pháp luật Anh - Việt, thanh tra “là sự kiểm soát, kiểm kê
đối với đối tượng bị thanh tra”(1). Từ điển Luật học (tiếng Đức) giải thích thanh tra “là sự
tác động của chủ thể đến đối tượng đã và đang thực hiện thẩm quyền được giao nhằm đạt
được mục đích nhất định - sự tác động có tính trực thuộc” (2). Theo Từ điển tiếng Việt:
“Thanh tra là kiểm soát xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp” (3).
Với nghĩa này, thanh tra bao hàm nghĩa kiểm soát nhằm: “xem xét và phát hiện ngăn chặn
những gì trái với quy định”(4). Thanh tra thường đi kèm với một chủ để nhất định: “Người

làm nhiệm vụ thanh tra” “đoàn thanh tra của bộ” (5) và: “đặt trong phạm vi quyền hành
của một chủ thể nhất định”(6).
Trong cuốn “Kỷ yếu Bác Hồ với thanh tra”, thanh tra được hiểu là “sự xem xét,
kiểm tra thường xuyên, định kỳ nhằm rút ra những nhận xét, kết luận cần thiết để kiến
nghị với các cơ quan nhà nước khắc phục những nhược điểm, phát huy ưu điểm, góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước”.
Trong Pháp lệnh Thanh tra năm 1990, thanh tra, hoạt động của các tổ chức,
Thanh tra được xác định là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước. Điều
8 Pháp lệnh thanh tra năm 1990 quy định: “thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá nhân, trừ hoạt động điều tra,

1
2
3
4
5
6

Từ điển Pháp luật Anh - Việt. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, Tr.203
Từ điển Luật học. NXB Orbis Bonn 1990 (tiếng Đức). Tr.528
Từ điển tiếng Việt . NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1994, Tr.882
Từ điển tiếng Việt. S.đ.đ. Tr.504 Từ điển tiếng Việt. S.đ.đ.
Tr.882
Từ điển tiếng Việt. S.đ.đ. Tr.504

4


truy tố, xét xử của các cơ quan Điều tra, Kiểm sát, Toà án và việc giải quyết tranh chấp
hợp đồng kinh tế, xử lý vi phạm hợp đồng kinh tế của cơ quan trọng tài kinh tế”.

Luật thanh tra năm 2010 quy định: “hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở
trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật;
giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố
tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
Từ những phân tích trên có thể khái quát khái niệm thanh tra như sau: Thanh tra
là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, là hoạt động tự kiểm tra, xem xét của
các cơ quan hành chính nhà nước, được thực hiện bởi chủ thế quản lý có thẩm quyền,
nhằm đánh giá ưu khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý các vi
phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
-

Theo từ điển tiếng Việt, giám sát là “Theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện

đúng những điều quy định không. Giám sát việc thi hành hiệp nghị. Hội đồng nhân dân
giám sát mọi hoạt động của uỷ ban nhân dân cấp mình.”
Giám sát là hoạt động của chủ thể ngoài hệ thống đối với đối tượng thuộc hệ
thống khác (trong những trường hợp cụ thể, có thể là không trực thuộc) tức là giữa cơ
quan giám sát và cơ quan chịu giám sát đó không nằm trong một hệ thống trực thuộc
nhau theo chiều dọc. Do vậy, trong bộ máy nhà nước ta, giám sát thường thể hiện là chức
năng của các cơ quan quyền lực nhà nước, Toà án nhân dân và các tổ chức xã hội và công
dân nhằm đảm bảo sự tuân thủ pháp luật, kỷ luật trong quản lý nhà nước.
Tóm lại, thanh tra có những điểm giống với hoạt động giám sát ở chỗ: đều là
những phương thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý nhà nước, đều có khách
thể chung là hoạt động quản lý. Nhưng chúng có những điểm khác nhau ở tính chất quan
hệ giữa chủ thể thực hiện với những đối tượng bị giám sát, thanh tra và do đó, chúng khác
nhau ở cách thức và biện pháp tác động. Thanh tra thông thường được hiểu là hoạt động
của bộ máy hành pháp tự kiểm tra, thanh tra chính mình. Do vậy, ở các cơ quan hành

pháp thường tồn tại hình thức thanh tra, kiểm tra theo cấp, thanh tra của thủ trưởng (thanh
tra nội bộ), Thanh tra nhà nước chuyên ngành. Xác định phạm vi hoạt động của
5


thanh là xác định ranh giới của việc sử dụng pháp luật thanh tra vào việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội, vào sự phát triển của các quan hệ xã hội. Đồng thời, nó tạo điều kiện cho
các hoạt động thanh tra đi đúng hướng, tránh sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ với
các cơ quan nhà nước khác.
1.1.1.2 Khái niệm về thanh tra, giám sát ngân hàng.
Cũng như các ngành, lĩnh vực khác, bất kỳ một hoạt động quản lý nào, để đảm
bảo cho những mục tiêu đạt được kết quả cao, nhất thiết phải tiến hành công tác thanh tra,
kiểm tra. Mục đích hoạt động thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản
lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp
khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ
chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Luật Thanh tra số 56/2010/QH12 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2010 qui định:
“Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật
chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực
đó”.
Trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác hoạt động có những đặc thù riêng, là lĩnh vực kinh tế hết sức nhạy
cảm tác động vào tăng trưởng và ổn định kinh tế… Đặc biệt khi chuyển sang giai đoạn
hội nhập kinh tế quốc tế ngành ngân hàng, hệ thống các tổ chức tín dụng có bước phát
triển rất nhanh về quy mô và phạm vi hoạt động. Vì vậy, rủi ro đối với các tổ chức tín
dụng trở nên đa dạng hơn. Hoạt động ngân hàng luôn gắn liền với rủi ro và chấp nhận rủi

ro, rủi ro cao lợi nhuận cao, rủi ro thấp lợi nhuận thấp, thậm chí lợi nhuận thấp tổ chức
tín dụng vẫn có nguy cơ vấp phải rủi ro cao do quản trị rủi ro kém. Rủi ro trong hoạt
động luôn là mối đe dọa đến sự an toàn và phát triển bền vững của hệ thống các tổ chức
tín dụng. Vì vậy, ngân hàng nhà nước thực hiện thanh tra, giám sát chuyên ngành về lĩnh
vực ngân hàng.

6


Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của Ngân
hàng Nhà nước, thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giám sát ngân hàng, phòng, chống rửa tiền.
Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan
Thanh tra, giám sát ngân hàng. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định trình tự, thủ tục
thanh tra, giám sát ngân hàng.
1.1.2 Mục đích thanh tra, giám sát ngân hàng.
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt nam số: 46/2010/QH12 được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16 tháng 6
năm 2010 qui định: “Thanh tra, giám sát ngân hàng nhằm góp phần bảo đảm sự phát triển
an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng và hệ thống tài chính; bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của tổ chức tín dụng; duy trì và
nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm việc
chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; góp phần nâng cao hiệu quả và
hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.”
1.1.3 Đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng.
Là tổ chức, hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các
tổ chức khác.
1.1.3.1 Đối tượng thanh tra ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước thanh tra các đối tượng sau:
1.
Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện

của tổ
chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng. Trong
trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thanh tra hoặc phối hợp thanh tra công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng;
2.

Tổ chức có hoạt động ngoại hối, hoạt động kinh doanh vàng; tổ chức hoạt

động thông tin tín dụng; tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán không phải là
ngân hàng;
3.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam và cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài

tại Việt Nam trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng
thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước.

7


1.1.3.2 Đối tượng giám sát ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước thực hiện việc giám sát ngân hàng đối với mọi hoạt động
của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Trong trường hợp cần thiết, Ngân
hàng Nhà nước yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát hoặc phối hợp giám
sát công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng.
1.1.4 Nguyên tắc hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng.
Thanh tra, giám sát ngân hàng được thực hiện theo nguyên tắc thanh tra toàn bộ
hoạt động của tổ chức tín dụng theo quy định của Luật ngân hàng nhà nước và các quy
định khác của pháp luật có liên quan; trường hợp có sự khác nhau giữa quy định về thanh
tra, giám sát ngân hàng của Luật ngân hàng nhà nước với quy định của luật khác thì thực

hiện theo quy định của Luật ngân hàng nhà nước. Thống đốc ngân hàng nhà nước quy
định trình tự, thủ tục thanh tra, giám sát ngân hàng. Có thể nói thanh tra, giám sát ngân
hàng chính là công cụ hữu hiệu giúp ngân hàng nhà nước hoàn thành tốt chức năng quản
lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
1.1.5 Các phương thức thanh tra, giám sát ngân hàng.
1.1.5.1 Giám sát từ xa.
Giám sát từ xa là việc gián tiếp kiểm tra thông qua tổng hợp và phân tích các báo
cáo để đánh giá các nội dung hoạt động của ngân hàng và tổ chức tín dụng. Về cơ bản,
giám sát từ xa là việc thanh tra, giám sát ngân hàng tổ chức phân tích, đánh giá tình hình
của tổ chức tín dụng dựa trên cơ sở bảng cân đối kế toán, các chỉ tiêu thống kê định kỳ do
tổ chức tín dụng gửi đến thanh tra, giám sát ngân hàng theo quy định, từ đó có thể cảnh
báo sớm những vấn đề cần thiết và kiến nghị biện pháp khắc phục kịp thời; “chỉ điểm”
cho thanh tra tại chỗ những vấn đề trọng tâm, trọng điểm cần tiến hành kiểm tra.
*

Quy trình giám sát từ xa gồm các nội dung công việc sau đây:

-Tiếp nhận thông tin từ tổ chức tín dụng qua mạng truyền tin của Ngân hàng
nhà nước;
- Xử lý thông tin theo chương trình đã được cài đặt về giám sát từ xa;
-

Vận hành chương trình giám sát để cho các mẫu biểu phân tích, biểu phân tổ và

các thông tin cần thiết khác theo yêu cầu;

8


kinh


Tiến hành phân tích để đánh giá sự biến động về tình hình hoạt động

doanh và tài chính theo các nội dung sau:
Diễn biến về cơ cấu tài sản Nợ và tài sản Có;
Chất lượng tín dụng và bảo lãnh trong đó phân tích những món tín
dụng và bảo lãnh lớn; tình hình hùn vốn, liên doanh, góp cổ phần đầu tư…
Việc bảo đảm khả năng thanh toán;
Tình hình thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh;
Việc thực hiện các quy chế an toàn của Ngân hàng nhà nước;
Đánh giá chung.
-Xác định những vấn đề cần chú trọng qua giám sát và thực hiện các yêu cầu
khắc phục qua giám sát;
Chuyển kết quả phân tích, giám sát cho thanh tra tại chỗ để sử dụng
trong
thanh tra tại chỗ định kỳ, hoặc có thể tổ chức thanh tra đột xuất nếu cần.
*

Mục tiêu của giám sát từ xa.

Mục tiêu của giám sát từ xa là đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của các tổ chức tín
dụng, cảnh báo sớm, ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra. Hoạt động giám sát từ xa là
định hướng cho hoạt động thanh tra tại chỗ. Phương thức giám sát từ xa cần một số điều
kiện như: khuôn khổ luật pháp, quy chế an toàn, hạ tầng công nghệ, nhân lực, hệ thống
kiểm toán, chế độ hạch toán, kỷ luật thông tin báo cáo…
*

Hạn chế của phương thức giám sát từ xa.

- Không kiểm chứng được tính đầy đủ và trung thực của thông tin.

-

Cần có thông tin bổ sung từ bên ngoài không nhất thiết phải thể hiện qua báo

cáo như trao đổi trực tiếp với các các tổ chức tín dụng hay qua công ty kiểm toán…
1.1.5.2 Thanh tra tại chỗ.
Thanh tra tại chỗ là việc tổ chức thanh tra trực tiếp tại nơi làm việc của các đối
tượng thanh tra, trên cơ sở kiểm tra, xem xét tài liệu liên quan như các báo cáo kế toán,
chứng từ sổ sách, tài liệu, hợp đồng, cam kết… của tổ chức tín dụng và các đơn vị liên
quan. Thanh tra tại chỗ có thể tiến hành định kỳ hoặc đột xuất. Thời gian tiến hành một
cuộc thanh tra tại chỗ khoảng 15 ngày đến 30 ngày làm việc, nếu có vấn đề phức tạp có


9


thể kéo dài thời gian thanh tra theo quy định của pháp luật. Hoạt động thanh tra tại chỗ có
thể thực hiện theo chương trình kế hoạch được duyệt hàng năm hoặc thanh tra đột xuất
khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
*

Quy trình tiến hành một cuộc thanh tra tại chỗ:

- Chuẩn bị thanh tra.
Khảo sát, nắm tình hình để ra quyết định thanh tra;
Ra quyết định thanh tra;
Xây dựng và phê duyệt kế hoạch tiến hành thanh tra;
Phổ biến kế hoạch thanh tra;
Xây dựng đề cương yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo;
Thông báo về việc công bố quyết định thanh tra.

- Tiến hành thanh tra.
Công bố quyết định thanh tra;
Thu thập thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra;
Kiểm tra, xác minh thông tin, tài liệu;
Báo cáo tiến độ thực hiện nhiệm vụ thanh tra;
Sửa đổi, bổ sung kế hoạch tiến hành thanh tra trong quá trình thanh
tra (nếu có);
Thay đổi Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra; bổ sung
thành viên Đoàn thanh tra (nếu có);
Gia hạn thời gian thanh tra (nếu có);
Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ của thành viên Đoàn thanh tra;
Nhật ký Đoàn thanh tra;
Kết thúc việc thanh tra tại nơi được thanh tra.
- Kết thúc thanh tra.
Xây dựng báo cáo kết quả thanh tra;
Đánh giá chứng cứ ở Đoàn thanh tra;
Xem xét báo cáo kết quả thanh tra;
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của người ra quyết định thanh tra;
10


Xây dựng dự thảo kết luận thanh tra;
Ký ban hành và công bố kết luận thanh tra;
Giao trả hồ sơ, tài liệu;
Tổng kết hoạt động của Đoàn thanh tra;
Lập, bàn giao hồ sơ thanh tra.
*
-

Mục tiêu của thanh tra tại chỗ.


Đánh giá mức độ tin cậy của những thông tin, tài liệu kế toán, tài chính mà cho

các tổ chức tín dụng cung cấp cho cơ quan thanh tra, giám sát;
-

Đánh giá tình hình chấp hành chính sách, pháp luật, các quy trình, chế độ của

Ngân hàng nhà nước, phát hiện những vi phạm, sai sót và kiến nghị những biện pháp
chấn chỉnh, xử lý kịp thời;
-

Đánh giá chất lượng quản trị, điều hành của Hội đồng quản trị, ban kiểm soát,

ban điều hành;
- Đánh giá sự lành mạnh và triển vọng phát triển của các tổ chức tín dụng;
- Đánh giá, đo lường mức độ rủi ro và khả năng chống đỡ rủi ro của các tổ chức
tín dụng;
- Phát hiện những quy trình, quy định chưa hợp lý để kiến nghị sửa đổi, bổ sung
và hoàn thiện.
*

Hạn chế của phương thức thanh tra tại chỗ.

- Bị giới hạn về thời gian.
- Kiểm tra, đánh giá xu hướng rủi ro trong khoảng thời gian nhất định.
- Thông tin được phân tích trong phạm vi mục tiêu của cuộc thanh tra.
*

Các nội dung chủ yếu về nghiệp vụ thanh tra tại chỗ (Phụ lục 01).


a)

Kiểm tra, đánh giá về mặt tổ chức của các tổ chức tín dụng.

b)

Kiểm tra kế toán và phân tích tài sản.

c)Kiểm tra, đánh giá chất lượng tài sản Có.
d)Kiểm tra kết quả tài chính.
e)

Kiểm tra sự tuân thủ luật pháp.

g)

Kiểm tra hoạt động quản lý, điều hành của Ban lãnh đạo…

11


1.1.5.3 So sánh sự khác nhau giữa Thanh tra tại chỗ và Giám sát từ xa.
Nội dung
Vai trò,
đích

Phương
thực hiện


Trình
chuyên môn
Phạm vi hoạt
động
Thời
thực hiện
Thời hạn báo
cáo
12


1.1.6 Sự cần thiết của hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng.
1.1.6.1 Tăng cường quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng
nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia
Trên cơ sở thanh tra, giám sát tổ chức, hoạt động các đối tượng thanh tra, giám
sát ngân hàng giúp Ngân hàng nhà nước tăng cường quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền
tệ và hoạt động ngân hàng, giúp các đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng hoạt động an
toàn và hiệu quả, góp phần quan trọng tạo môi trường thực thi chính sách tiền tệ quốc gia
hữu hiệu. Ngân hàng nhà nước sử dụng các công cụ của mình để điều hành thị trường
tiền tệ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở… để kiểm soát và điều tiết
khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đảm bảo
công ăn việc làm, giảm thất nghiệp, kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị tiền tệ và cân bằng
cán cân thanh toán. Trên cơ sở đó, Ngân hàng nhà nước khẳng định và nâng cao vai trò
và vị trí của mình, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
1.1.6.2 Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của tổ
chức tín dụng.
Tín dụng là một hoạt động nghiệp vụ quan trọng, chủ chốt trong hoạt động ngân
hàng nhưng cũng là nghiệp vụ có tính rủi ro cao. Trong quá trình tiến hành kiểm tra các
tổ chức tín dụng, khi phát hiện các sai phạm của tổ chức tín dụng sẽ tiến hành xử lý các
vi

phạm đó. Việc phát hiện và xử lý các vi phạm, kiến nghị khắc phục các tồn
tại, sai
phạm trong hoạt động của tổ chức tín dụng sẽ bảo đảm hoạt động của các tổ chức tín
dụng được an toàn và hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và
khách hàng của tổ chức tín dụng. Quyền và lợi ích của người gửi tiền bị ảnh hưởng do
các tổ chức tín dụng trong tình trạng mất khả năng chi trả và có nguy cơ phá sản. Thanh
tra, giám sát ngân hàng phải tiến hành kiểm tra, phân tích, đánh giá chất lượng, rủi ro các
khoản tín dụng của các tổ chức tín dụng, phòng ngừa có hiệu quả và đảm bảo an toàn cho
những khoản cho vay đầu tư.
1.1.6.3 Duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống các tổ chức tín
dụng.
Trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và ngân hàng, lòng tin đóng một vai trò cực kỳ
quan trọng quyết định sự tồn tại của hệ thống tổ chức tín dụng. Việc duy trì và nâng cao
lòng tin của công chúng đối với hệ thống các tổ chức tín dụng là một việc làm cần thiết
13


nhằm thu hút vốn phục vụ cho hoạt động kinh tế, tài chính của đất nước. Năng lực thu hút
vốn của các tổ chức tín dụng đi đôi với việc đảm bảo khả năng chi trả cho người gửi tiền.
Nếu một tổ chức tín dụng mất khả năng chi trả thì người gửi tiền sẽ mất lòng tin vào tổ
chức tín dụng đó dẫn đến tình trạng rút tiền ồ ạt, tạo nên một phản ứng dây chuyền, gây
ảnh hưởng xấu đến các tổ chức tín dụng khác vì công chúng không còn tin tưởng để gửi
tiền vào hệ thống các tổ chức tín dụng. Họ sẽ đồng loạt rút và làm các tổ chức tín dụng
mất khả năng thanh toán đồng bộ, không thu hút được vốn để hoạt động kinh doanh, dẫn
đến nguy cơ đối mặt với tình trạng phá sản, từ đó sẽ ảnh hưởng đến hệ thống tài chính
tiền tệ quốc gia.
Vì vậy, các tổ chức tín dụng phải được thanh tra, kiểm tra, giám sát thường
xuyên để giảm thiểu rủi ro cho khách hàng, bảo đảm sự an toàn trong hoạt động của tổ
chức tín dụng, tránh tình trạng tổ chức tín dụng mất khả năng thanh toán, không trả được
nợ, dẫn đến nguy cơ phá sản.

1.1.6.4 Phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật và hạn chế những
sai phạm trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Kết luận thanh tra, giám sát nhằm chỉ ra những tồn tại, sai phạm, rủi ro tiềm ẩn
trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Trên cơ sở đó thanh tra, giám sát ngân hàng đưa ra
những yêu cầu, cảnh báo cần thiết. Với việc triển khai áp dụng phương pháp thanh tra,
giám sát trên cơ sở rủi ro theo thông lệ quốc tế góp phần đảm bảo hoạt động của từng tổ
chức tín dụng và toàn hệ thống các tổ chức tín dụng nằm trong tầm kiểm soát của Ngân
hàng nhà nước.
1.1.6.5 Bảo đảm việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và ngân hàng.
Trong quá trình thực hiện việc kiểm tra tại các đối tượng, thanh tra, giám sát
ngân hàng sẽ phát hiện ra các tồn tại, sai phạm trong hoạt động của các đối tượng và đưa
ra các kiến nghị khắc phục, xử lý các hành vi vi phạm. Từ đó bảo đảm hoạt động của các
đối tượng thanh tra, giám sát thực hiện đúng quy định của pháp luật, chấp hành đúng
chính sách, pháp luật về lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.
1.1.6.6 Phát hiện sơ hở, vướng mắc trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật trong
lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền biện pháp khắc phục.

14


Trường hợp, trong quá trình hoạt động, các tổ chức tín dụng lợi dụng những sơ
hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân
hàng để trục lợi. Trên cơ sở kiểm tra, xem xét, phân tích, đánh giá hoạt động của các đối
tượng ngân hàng phát hiện được những việc làm sai trái của đối tượng thanh tra để xử lý;
phân tích nhằm tìm ra những sơ hở, những điểm chưa phù hợp trong việc điều hành chính
sách tiền tệ quốc gia và kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc
phục; phát hiện những bất hợp lý trong cơ chế, chính sách của Nhà nước liên quan đến
hoạt động ngân hàng, từ đó kiến nghị lên các cấp thẩm quyền có giải pháp điều chỉnh
thích hợp để bổ sung, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các đối tượng thanh tra.

1.1.7 Ý nghĩa của hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng.
1.1.7.1 Góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh và hiệu quả của hệ
thống các Tổ chức tín dụng.
Hoạt động của thanh tra, giám sát ngân hàng góp phần quan trọng vào việc đẩy
nhanh quá trình chấn chỉnh, củng cố và cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng; cảnh
báo, ngăn ngừa, hạn chế những sai phạm, đảm bảo hoạt động của hệ thống các tổ chức tín
dụng và hệ thống tài chính được an toàn, lành mạnh và hiệu quả. Điều này sẽ góp phần
tạo sân chơi bình đẳng bảo đảm cho hệ thống các tổ chức tín dụng hoạt động hiệu quả và
mang tính cạnh tranh hơn dưới tác động của mở cửa thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng.
1.1.7.2 Góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước về lĩnh vực tiền tệ
và ngân hàng.
Các kiến nghị của thanh tra, giám sát ngân hàng với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền về cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng giúp cho việc điều
hành chính sách tiền tệ đạt được hiệu quả, góp phần quan trọng để thực hiện các mục tiêu
kinh tế vĩ mô. Từ đó vai trò quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân
hàng nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia sẽ được nâng cao hơn.
1.1.7.3 Góp phần vào việc đảm bảo kỷ cương, kỷ luật và tuân thủ pháp luật trong
lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Việc thanh tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng và các cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng góp phần đưa các đối
tượng thanh tra, giám sát ngân hàng này đi vào hoạt động theo đúng quy định của Nhà
15


nước và của Ngành, đảm bảo sự cạnh tranh công bằng, lành mạnh giữa các tổ chức tín
dụng. Kỷ cương, kỷ luật và sự tuân thủ pháp luật của các đối tượng thanh tra ngân hàng
sẽ được chấp hành nghiêm chỉnh dưới sự quản lý của NHNN thông qua công tác thanh
tra, giám sát của thanh tra ngân hàng.
1.2 CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG THANH TRA, GIÁM SÁT NGÂN HÀNG.

1.2.1 Chất lượng hoạt động thanh tra, giám sát của Ngân hàng nhà nước.
Mục đích thanh tra, giám sát ngân hàng “nhằm góp phần bảo đảm sự phát triển
an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng và hệ thống tài chính; bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của tổ chức tín dụng; duy trì và
nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm việc
chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; góp phần nâng cao hiệu quả và
hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng".
Tuy nhiên, hoạt động của các tổ chức tín dụng luôn có nhiều rủi ro ở các khâu,
các lĩnh vực trong suốt quá trình hoạt động. Việc tiếp nhận và có biện pháp phòng ngừa
trên cơ sở quản lý rủi ro hiệu quả sẽ giúp các tổ chức tín dụng đạt được kết quả hoạt động
tốt. Dưới giác độ quản lý nhà nước, mục tiêu hoạt động an toàn, lành mạnh của các tổ
chức tín dụng là vô cùng quan trọng, được coi là ưu tiên hàng đầu vì sự an toàn, lành
mạnh trong hoạt động của tổ chức tín dụng sẽ góp phần vào sự tăng trưởng và ổn định
kinh tế vĩ mô. Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng có chất lượng sẽ giúp Ngân hàng
nhà nước nâng cao vai trò quản lý nhà nước của mình đối với các tổ chức tín dụng nhằm
ngăn chặn và giảm thiểu tối đa rủi ro có thể xảy ra.
Chất lượng thanh tra, giám sát ngân hàng là hiệu quả hoạt động thanh tra, giám
sát của Ngân hàng nhà nước đối với các tổ chức tín dụng phù hợp theo đúng quy định,
chủ trương, chính sách pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nước của Ngân hàng nhà
nước đối với các tổ chức tín dụng, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về tiền tệ và ngân
hàng nhằm đảm bảo hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng được an toàn, hiệu quả, phát
triển bền vững, lành mạnh, góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước
trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.
Chất lượng hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng được thể hiện thông qua
như: việc phát hiện được những tồn tại, sai phạm của tổ chức tín dụng để có biện pháp xử
16


lý thích đáng và kiến nghị yêu cầu khắc phục, chỉnh sửa; kết quả khắc phục, chỉnh sửa
các tồn tại, sai phạm trong hoạt động của tổ chức tín dụng; kết quả chất lượng hoạt động

của các tổ chức tín dụng được thực hiện theo đúng quy định, chủ trương, chính sách pháp
luật của Nhà nước và của Ngành; kết quả những kiến nghị của thanh tra, giám sát ngân
hàng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về biện pháp khắc phục những sơ hở trong cơ
chế quản lý, chính sách, pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Trong giai đoạn hội nhập toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay, việc nâng cao chất
lượng thanh tra, giám sát ngân hàng là hết sức quan trọng và cần thiết.
1.2.2 Một số chỉ tiêu đánh giá về chất lượng thanh tra ngân hàng.
-Chỉ tiêu tài chính chủ yếu đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh của các tổ
chức tín dụng.
Tình trạng tài chính của tổ chức tín dụng sẽ cho thấy được hiệu quả hoạt động
của tổ chức tín dụng đó. Thanh tra ngân hàng cần tiến hành phân tích kết quả hoạt động
kinh doanh của các tổ chức tín dụng, giám sát liên tục và thường xuyên chất lượng tài sản
có, chất lượng tài sản nợ, tình hình nợ xấu, việc phân loại nợ và trích lập dự phòng của
các tổ chức tín dụng, tình hình thu nhập chi phí của các tổ chức tín dụng... nhằm đánh giá
khả năng trang trải về mặt tài chính của các tổ chức tín dụng, đánh giá hoạt động của các
tổ chức tín dụng có lãi thực hay lỗ vốn, có đảm bảo an toàn hoạt động hay không. Ngoài
ra, trong quá trình hoạt động, tổ chức tín dụng luôn đối mặt với nhiều loại rủi ro như rủi
ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất… trong đó rủi ro tín dụng là một trong
những loại rủi ro có khả năng xảy ra rất cao và gây thiệt hại lớn cho tổ chức tín dụng. Vì
vậy, thanh tra ngân hàng cần phải tập trung vào việc đánh giá chất lượng tín dụng, xem
xét tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng, phân tích nguyên nhân của việc tăng tỷ lệ nợ
xấu. Từ đó đưa ra những khuyến cáo kịp thời và yêu cầu các tổ chức tín dụng có biện
pháp trong việc thu hồi nợ, giúp nâng cao chất lượng tín dụng.
- Chỉ tiêu hoạt động của các tổ chức tín dụng trong việc chấp hành các quy định
của Ngân hàng Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng.
Việc chấp hành các quy định của Ngân hàng Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ
ngân hàng của các tổ chức tín dụng là rất quan trọng. Nó giúp cho các tổ chức tín dụng
hoạt động an toàn và hiệu quả. Khi tiến hành thanh tra tổ chức tín dụng, thanh tra ngân
hàng sẽ xem xét đánh giá việc chấp hành các quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn tối
17



×