Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

V11 rèn luyện kĩ năng chọn và phân tích dẫn chứng trong bài nghị luận văn học dành cho học sinh giỏi ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.33 KB, 83 trang )

MỤC LỤC


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Mục tiêu của các lớp chuyên Văn là trên cơ sở học vấn phổ thông, bồi
dưỡng sâu thêm những năng lực về Ngữ văn, tạo cho học sinh có được những
điều kiện thuận lợi để học lên và làm việc một cách sáng tạo, có hiệu quả trong
các lĩnh vực Khoa học xã hội và nhân văn” (Báo cáo trong Hội nghị tập huấn
giáo viên dạy giỏi môn Văn THPT-HN 09/2002).Công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi quốc gia là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của các trường THPT
chuyên. Học sinh giỏi nói đúng nghĩa là học sinh có năng khiếu và năng lực văn
chương.
Từ việc xác định rõ mục tiêu đối với học sinh chuyên Văn trong đội tuyển
học sinh giỏi. Bồi dưỡng học sinh giỏi không chỉ đơn thuần là cung cấp kiến
thức, hay lắp ghép kiến thức lý luận văn học và kiến thức tác phẩm. Mà nó là sự
tỏng hòa của cả năng lực, năng khiếu của học sinh giỏi bộ môn Ngữ văn. Kiến
thức lí luận văn học giữ một vai trò quan trọng như những kết luận có tính khoa
học. Nhưng nói như N.Séc-nư-sép-xki: “Những kết luận khoa học như những
thỏi vàng, chỉ lưu hành trong phạm vinhỏ hẹp, còn tri thức từ tác phẩm văn học
như những đồng tiền nhỏ”, có nghĩa kiến thức về tác giả, tác phẩm để soi sáng
vào tác phẩm cũng rất quan trọng trong đề văn thi chọn HSG quốc gia.
Thực tế trong các cuộc thi chọn HSG từ cấp tỉnh, khu vực đến cấp quốc gia,
chúng ta đều nhận thấy trong trong đáp án, biểu điểm thường thang điểm của
phần chứng minh chiếm số điểm nhiều nhất (thường là 6/12 điểm phần chứng
minh). Và thực tế dạy học, nhiều học sinh rất chắc kiến thức lý luận văn học,
phần bàn luận rất sâu, song đến phần chứng minh thì “muôn nẻo lỗi”, từ những
lỗi không nhận thấy mối quan hệ giữa lý luận và dẫn chứng không khớp nhau,
không soi tỏ cho nhau, cho đến lỗi chọn dẫn chứng không hay, không tiêu biểu.
GS. TS. Trần Nho Thìn trong nhiều cuộc trao đổi ở Hội thảo dành cho giáo viên
chuyên Văn THPT cũng đã nhấn mạnh: “Quan trọng nhất trong bài làm văn của


học sinh giỏi là học sinh phải biết chọn và phân tích dẫn chứng”. Như thế, đủ
thấy tầm quan trọng của dẫn chứng trong bài làm văn của HSG. Việc rèn kĩ năng
2


lựa chọn và phân tích dẫn chứng trong bài nghị luận văn học dành cho học sinh
giỏi là một nhu cầu thiết thực và mối quan tâm với nhiều GV đang trực tiếp bồi
dưỡng HSG quốc gia.
Có rất nhiều bài viết, sáng kiến Về kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi văn; Rèn kĩ năng cho học sinh giỏi văn của nhiều thầy cô giáo trên
các vùng miền; các cuốn sách Những bài văn đạt giải quốc gia, Bồi dưỡng học
sinh giỏi văn THPT, Tài liệu chuyên văn, Muốn viết bài văn hay,.. được xuất
bản, tái bản lại nhiều lần. Học sinh không chỉ học tập được kiến thức lý luận,
cách diễn đạt mà còn học được nhiều cách đưa dẫn chứng phù hợp. Với chuyên
đề “Rèn kĩ năng chọn và phân tích dẫn chứng trong bài nghị luận văn học
dành cho học sinh giỏi Ngữ văn”, chúng tôi mong muốn gớp thêm một phần
nhỏ trong việc chia sẻ kinh nghiệm với HSG và cũng là cơ hội học hỏi, trao đổi
thêm với đồng nghiệp trong công tác bồi dưỡng HSG môn Ngữ văn.
2. Mục đích của đề tài
Xuất phát từ đặc thù kiểu bài thi của học sinh giỏi, yêu cầu đổi mới
kiểm tra đánh giá; xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn dạy học, khi thực
hiện chuyên đề“Rèn kĩ năng chọn và phân tích dẫn chứng trong bài nghị luận
văn học dành cho học sinh giỏi Ngữ văn”, chúng tôi tập trung trình bày những
vấn đề sau:
- Những vấn đề cơ sở: Giới thiệu chung về dẫn chứng, yêu cầu của dẫn
chứng trong bài văn nghị luận HSG môn Ngữ văn, nhất là HSG quốc gia.
- Rèn kĩ năng chọn và tổ chức, phân tích dẫn chứng trong bài nghị luận
văn học dành cho học sinh giỏi Ngữ văn
- Bài tập thực hành lựa chọn, tổ chức, phân tích dẫn chứng trong bài nghị
luận văn học dành cho học sinh giỏi Ngữ văn

- Phần phụ lục giới thiệu thêm một số đoạn văn, bài làm của học sinh giỏi
để làm tư liệu cho học sinh.

3


B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Đề nghị luận văn học của học sinh giỏi môn Ngữ văn
Đọc một số đề văn nghị luận văn học những năm gần đây trong kĩ thi
chọn HSG quốc gia.
Năm
2001

Một số đề thi học sinh giỏi quốc gia
Nhà văn Bùi Hiển đã phát biểu khẳng định ý nghĩa đặc biệt của
tiếng nói tri âm trong văn chương: Ở nước nào cũng thế thôi, sự
4


cảm thông, sẻ chia giữa người đọc và người viết là trên hết" (báo
Văn nghệ, 10-2-2011)
Anh (chị) có suy nghĩ gì về vấn đề này? Hãy phân tích hai bài thơ
Độc Tiểu Thanh kí của thi hào Nguyễn Du và Kính gửi cụ Nguyễn
Du của nhà thơ Tố Hữu để làm rõ tiếng nói tri âm ở mỗi bài.
2007

Có ý kiến cho rằng: khi tác phẩm kết thúc, ấy là lúc cuộc sống
của nó mới thực sự bắt đầu.
Anh (chị) hãy bình luận ý kiến đó.


2010

Tác phẩm văn học chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con
người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo.
Bằng việc phân tích một tác phẩm đã học, anh (chị) hãy bình
luận nhận định trên.

2014

Văn học chân chính ngay cả khi nói về cái xấu, cái ác cũng chỉ
nhằm thể hiện khát vọng về cái đẹp, cái thiện.
Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên.

2017

Mỗi nhà văn chân chính bước lên văn đàn, về thực chất là sự
cất tiếng bằng nghệ thuật của một giá trị nhân văn nào đó được
chưng cất từ những trải nghiệm sâu sắc trong trường đời.
Bằng những hiểu biết về văn học, anh (chị) hãy bình luận ý
kiến trên

2018

Chế Lan Viên viết trong bài thơ Tổ quốc bao giờ đẹp thế này
chăng?: Hãy biết ơn vị muối của đời cho thơ chất mặn!
Trong bài Làm thế nào để có tác phẩm tốt?, Lưu Trọng Lư cho
rằng: Sự sống phải được chắt lọc, phải được trau chuốt, phải được
nâng lên, phải được "tập trung" cao độ, nó mới biến thành nghệ
thuật, cũng như dâu xanh phải biến thành kén vàng, gạo trắng phải

bốc thành men rượu. Sự thực phải được sáng tạo, phải nâng cao
5


lên đôi cánh của tư tưởng để lại tác động vào lòng người còn sâu
mạnh hơn cả sự sống.
Bằng những hiểu biết về văn học, anh chị hãy bình luận những
quan niệm trên.
2019

“Rồi đây có thể xuất hiện những cỗ máy biết viết văn, làm thơ. Lúc
đó, sáng tạo văn học có còn là độc quyền của con người”?
Bằng trải nghiệm văn học, anh/ chị hãy trình bày quan điểm
của mình.

Qua khảo sát các đề thi HSG quốc gia của những năm gần đây, chúng tôi
nhận thấy, đề bài lí luận văn học dành cho đối tượng học sinh giỏi thường có hai
phần: phần ý kiến lý luận và phần yêu cầu phạm vi dẫn chứng chứng minh.
- Dạng bài thứ nhất là ngay trong đề bài đã giới hạn tác phẩm văn học cụ
thể cần phân tích chứng minh để làm sáng tỏ vấn đề lí luận văn học
- Dạng bài thứ hai, đề bài không chỉ định tác phẩm cụ thể, học sinh phải tự
lựa chọn tác phẩm để phân tích chứng minh.
2. Dẫn chứng trong bài nghị luận văn học của học sinh giỏi
môn Ngữ văn
2.1. Hiểu về “Dẫn chứng” và “Dẫn chứng trong bài văn nghị luận của học
sinh giỏi môn Ngữ văn”
Đã có rất nhiều cuốn sách tham khảo, hướng dẫn làm văn nghị luận bàn
về dẫn chứng trong bài văn nghị luận, cụ thể hơn là trong bài văn nghị luận xã
hội và nghị luận văn học, như Làm văn 10 , 11, 12, Trần Thanh Đạm chủ biên,
NXB Giáo dục 1990; Làm văn, Đình Cao, Lê A, NXB Giáo dục, 1989, Làm văn

12, Nguyễn Minh Thuyết chủ biên. Các tài liệu tham khảo trên đều ít nhiều đã
trình bày khá hệ thống về dẫn chứng trong bài văn nghị luận văn học. Tuy nhiên,
trong chuyên đề này, chúng tôi dựa chủ yếu vào quan niệm về dẫn chứng trong
6


làm văm nghị luận văn học nói chung và trong bài học văn nghị luận của sinh
giỏi nói riêng của GS.TS. Đỗ Ngọc Thống được trình bày trong cuốn sách
“Muốn viết được bài văn hay”1 do NXB Giáo dục phát hành.
Dẫn chứng trong bài văn nghị luận văn học là kiến thức về tác phẩm, kiến
thức văn học sử về tác giả, giai đoạn, trào lưu, trường phái văn học. GS. Đỗ
Ngọc Thống đã phân biệt rất rõ hai loại dẫn chứng trong bài văn nghị luận, dẫn
chứng bắt buộc và dẫn chứng mở rộng.
Ví dụ, cho đề bài sau: Nhà văn Bùi Hiển đã phát biểu khẳng định ý nghĩa
đặc biệt của tiếng nói tri âm trong văn chương: Ở nước nào cũng thế thôi, sự
cảm thông, sẻ chia giữa người đọc và người viết là trên hết" (báo Văn nghệ, 102-2011). Anh (chị) có suy nghĩ gì về vấn đề này? Hãy phân tích hai bài thơ
“Độc Tiểu Thanh kí” của thi hào Nguyễn Du và “Kính gửi cụ Nguyễn Du” của
nhà thơ Tố Hữu để làm rõ tiếng nói tri âm ở mỗi bài.
Dẫn chứng bắt buộc là dẫn chứng có ngay trong yêu cầu của đề về tư liệu.
còn dẫn chứng mở rộng là loại dẫn chứng ngoài phạm vi trên do người viết viện
dẫn ra để liên hệ, đối chiếu, so sánh nhằm làm sáng tỏ thêm ý đang được bàn
bạc. Chẳng hạn, với đề trên có thể mở rộng dẫn chứng mở rộng bài “Tại lầu
Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” (Lý Bạch); “Tì bà hành”
(Bạch Cư Dị); “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến, “Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc”; “Đàn ghi ta của Lorca” của Thanh Thảo;… để làm dẫn chứng mở rộng,
so sánh và sâu sắc hơn. Dẫn chứng mở rộng có thể ở nhiều cấp độ khác nhau,
tùy theo các ý lý luận cần chứng minh, mở rộng.
Tiếp cận với đề thi HSG Quốc gia 3 năm trở lại đây, thì yêu cầu trong đề thi
về phạm vi dẫn chứng không bắt buộc dẫn chứng nào. Với lệnh hỏi: “Bằng
những hiểu biết về văn học, anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên” đã mở rộng

phạm vi dẫn chứng, cho học sinh tự xác định, lựa chọn dẫn chứng. Điều đó phần
nào đáp ứng đúng tính chất của một đề HSG quốc gia, phát huy hết những trải
1Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) – Đỗ Ngọc Thống – Lưu Đức Hạnh, Muốn viết được bài văn hay, NXB Giáo
dục, H.1995.

7


nghiệm văn học của bản thân để trình bày; nhưng cũng đặt ra vấn đề liên quan
đến việc chọn, tổ chức, sắp xếp và phân tích dẫn chứng.
Ví dụ
Đề văn: “Rồi đây có thể xuất hiện những cỗ máy biết viết văn, làm thơ. Lúc
đó, sáng tạo văn học có còn là độc quyền của con người”? Bằng trải nghiệm văn
học, anh/ chị hãy trình bày quan điểm của mình.
Học sinh phải tự xác định và lựa chọn dẫn chứng sao cho phù hợp, tiêu
biểu, làm sáng tỏ được những lý lẽ mà đề bài yêu cầu.
Trong trường hợp một số trường hợp đề bài nêu yêu cầu về phạm vi tư liệu
rất rộng (một thời kì, một giai đoạn, hay một khuynh hướng văn học,…) ở
những trường hợp này dẫn chứng vừa bắt buộc, vừa tự chọn.
2.2. Vai trò của dẫn chứng trong bài văn nghị luận văn học của học
sinh giỏi
Kiến thức lí luận văn học chỉ có thể được làm sáng tỏ khi soi chiếu vào
tác phẩm, vào thực tiễn sáng tác. Khi làm bài, bên cạnh kiến thức lí luận văn
học, học sinh cũng cần phải đảm bảo những kiến thức về tác giả, tác phẩm văn
học... để soi sáng, làm rõ vấn đề lí luận văn học mà đề yêu cầu bàn luận. Đó là
kiến thức văn học về tác phẩm, kiến thức văn học sử, kiến thức về tác giả...
Theo GS.TS. Đỗ Ngọc Thống, thì nội dung bài văn nghị luận được tạo
nên bởi những lý lẽ và dẫn chứng cả hai cùng có một mục đích là làm sáng tỏ
vấn đề cần nghị luận. Tuy nhiên, “nếu như lý lẽ nghiêng về làm cho người đọc
hiểu thì dẫn chứng thiên về phía làm người ta tin. Một khi đã hiểu và tin tức là

đã bị thuyết phục”2. Như vậy cả hai đều có tầm quan trọng như nhau, một bài
văn của học sinh giỏi không thể chỉ chú ý tới vấn đề lý luận văn học, tới lý lẽ,
mà còn phải chú ý tới dẫn chứng trong quá trình hành văn.

2Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) – Đỗ Ngọc Thống – Lưu Đức Hạnh, sđd, tr.138

8


2.3. Yêu cầu khi sử dụng dẫn chứng trong bài văn nghị luận.
Thứ nhất: Yêu cầu dẫn chứng phải đúng: Là kiến thức đảm bảo làm sáng
rõ vấn đề lý luận mà đề bài đặt ra. Khi sử dụng kiến thức văn học cần chú ý
chọn kiến thức thực tiễn về tác giả, tác phẩm để minh chứng cho phù hợp với
vấn đề lí luận văn học trong đề bài, xác định những kiến thức văn học trọng tâm,
kiến thức văn học phụ trợ. Để yêu cầu có được những dẫn chứng đúng: Tác
phẩm được lựa chọn phải là tiêu biểu, phải là minh chứng thuyết phục nhất cho
vấn đề lí luận được bàn tới; khi chứng tích, dễ rơi vào liệt kê tác mà chưa chạm
được tới vấn đề; Tác phẩm được lựa chọn nhất thiết phải có mối liên hệ đến vấn
đề lí luận văn học;
Thứ hai: Yêu cầu để có được dẫn chứng cần hay, phù hợp nhất: Không chỉ
là kiến thức đảm bảo làm sáng rõ vấn đề lý luận mà đề bài đặt ra, mà kiến thức
dẫn chứng tác giả tác phẩm đó phải hay, phù hợp, tối ưu nhất.
Thứ ba: Xác định được đúng tỉ lệ:, tỉ lệ giữa dẫn chứng và lý lẽ, tỉ lệ giữa
các loại dẫn chứng. Nếu phần bình luận giúp người viết có cơ sở để nhìn vấn đề
ở chiều sâu thì phần chứng minh giúp người viết soi sáng vấn đề ở chiều rộng,
tạo cho người đọc tin vào vấn đề đang nghị luận. GS. Đỗ Ngọc Thống đã phân
biệt hai dẫn chứng là dẫn chứng bắt buộc và dẫn chứng mở rộng. Từ đó, đặt ra
yêu cầu phân biệt hai loại dẫn chứng “để người viết tuân thủ quy tắc sau: phải
tôn trọng và tập trung vào những dẫn chứng bắt buộc, tránh tình trạng dẫn
chứng mở rộng lại nhiều hợn, coi trọng hơn, lấn át cả dẫn chứng bắt buộc”3.

Ngược lại, HSG Văn cũng cần lưu ý thêm về việc có thể sử dụng dẫn chứng mở
rộng làm cho những liên hệ so sánh được sắc sảo, chứng tỏ tầm kiến thức văn
hóa của người viết.
Khi làm văn, bên cạnh luận điểm, luận cứ, học sinh cần phải nêu dẫn
chứng đi kèm nhằm tăng tính chặt chẽ và thuyết phục cho người đọc. Tuy nhiên,
trong quá trình viết bài nghị luậnhọc sinh phải tùy từng đề bài mà xác định tỉ lệ
giữa lý luận và chứng minh cho phù hợp. Nếu bài viết chỉ có lí lẽ, mà dẫn chứng
qua ít hoặc mờ nhạt sẽ làm cho bài viết khô khan, tạo cảm giác nặng nề; nếu bài
3Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) – Đỗ Ngọc Thống – Lưu Đức Hạnh, sđd, tr.140

9


viết chỉ toàn dẫn chứng sẽ chỉ sẽ khiến cho bài văn nghị luận một vấn đề lý luận
của học sinh giỏi giống như một bài phân tích, cảm thụ tác phẩm.
Thứ tư: Phân loại dẫn chứng để tinh gọn trong tác phẩm: Có nghĩa, phân
định rõ ràng kiến thức về tác phẩm dùng để làm dẫn chứng cho phần bàn luận
vấn đề cần tinh gọn và kiến thức về tác phẩm dùng để phân tích và chứng minh
cho vấn đề lí luận văn học cần sâu rộng. Việc lấy dẫn chứng cho phần bàn luận
vấn đề, không được quá sa đà vào phân tích tác phẩm và ngược lại khi huy động
kiến thức tác phẩm cho phần phân tích và chứng minh lại quá sơ lược.
II. KĨ NĂNG CHỌN DẪN CHỨNG TRONG ĐỀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
DÀNH CHO HSG MÔN NGỮ VĂN
1. Chọn dẫn chứng đúng.
Đúng ở đây là phù hợp với yêu cầu của đề, chẳng hạn, đề văn có nhắc đến
khái niệm thơ ca hiểu theo nghĩa rộng có nghĩa là toàn bộ văn học nói chung,
nếu học sinh chỉ chọ dẫn chứng để làm rõ một đặc trưng nào đó của thơ ca hiểu
theo nghĩa hẹp thì dẫn chứng đó gọi là chưa được hiểu đúng. Khái niệm đúng
của dẫn chứng ở đây còn hiểu là học sinh khi đọc đề cần chọn cho mình được
dẫn chứng có khả năng làm rõ được vấn đề lý luận.

Ví dụ
Đề văn: Nhà văn Nga K. Pauxtôpxki đã từng phát biểu:
“Chỉ có người nào nói được với mọi người những điều mới mẻ, có ý
nghĩa và thú vị, nhìn thấy những gì mà những người khác không nhận ra, người
đó mới có thể là nhà văn”.
(K.Pauxtôpxki – “Bông hồng vàng và Bình minh mưa”, NXB Văn học, 2003, tr.
46)
Ý kiến của anh/ chị về nhận định trên. Bằng việc chọn phân tích một tác
phẩm trong chương trình Ngữ văn THPT, hãy làm sáng tỏ.
Khi đọc đề văn này, học sinh thường xác định được vấn đề nghị luận bàn
về phong cách, sáng tạo. Có học sinh đã chọn dẫn chứng là phong cách nghệ
thuật của nhà văn Nam Cao thông qua truyện ngắn “Lang Rận”, thực chất chọn
10


hướng chứng minh thông qua phong cách của nhà văn Nam Cao là phù hợp,
nhưng “Lang Rận” chưa phải đặc sắc nhất trong nhiều truyện ngắn của Nam
Cao như “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Đời thừa”.
Ví dụ
Đề văn: Bêilimxki đã cho rằng: “Một nhà văn chân chính là nhà văn nhân đạo
từ trong cốt tủy”. Anh/ chị hãy làm sáng tỏ điều đó qua trải nghiệm văn học của
bản thân.
Học sinh đã chọn tác phẩm Chí Phèo, đây là một cách chọn tác phẩm
đúng, phù hợp để làm rõ nội dung vấn đề lý luận:
Truyện ngắn “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao đã thể hiện một giá trị
nhân đạo sâu sắc và mới mẻ. Không chỉ là tiếng nói tố cáo xã hội thực dân nửa
phong kiến đã dồn đẩy người nông dân lương thiện vào con đường tha hóa,
tước đoạt quyền sống và quyền làm người của họ mà còn là sự cảm thông sâu
sắc của nhà văn trước số phận và nỗi đau của người nông dân. Viết Chí Phèo,
Nam Cao đã thể hiện niềm tin vào đốm sáng nhân bản còn le lói, vào khả năng

hướng thiện của con người ngay cả khi họ bị tha hóa cả về nhân hình lẫn nhân
tính. Chí Phèo trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, nhưng khi đón nhận tình
yêu thương của Thị Nở, vẫn hồi sinh những cảm xúc, cảm giác rất người. Lần
đầu tiên hắn biết lắng nghe những âm thanh của cuộc sống và nhận ra cuộc đời
mình đã già mà vẫn còn cô độc. Hắn khao khát được trở lại cuộc sống của
người lương thiện Hắn thèm lương thiện,hắn muốn làm hòa với mọi người.
Cùng viết về người nông dân, nếu Ngô Tất Tố khám phá ở chị Dậu vẻ đẹp
truyền thống, thủy chung, không tì vết thì Nam Cao lại khơi tìm đốm sáng nhân
bản ẩn sâu trong cái lốt của một con quỷ dữ và thể hiện niềm tin vào bản tính
lương thiện của con người, đặc biệt là những người nông dân bị tha hóa. Đem
đến cho tác phẩm giá trị nhân đạo sâu sắc và mới mẻ, nhà văn đã khẳng định
tầm vóc và tư tưởng của mình bởiMột nhà văn chân chính là nhà văn nhân đạo
từ trong cốt tủy (Biêlinxki).
11


2.Chọn dẫn chứng phù hợp.
Tác phẩm phù hợp ở đây có thể là vừa phù hợp với đề, vừa phù hợp với
chính người viết. Có học sinh cảm nhận thơ lãng mạn hay hơn thơ hiện thực;
thích thơ hơn truyện. Nắm chắc kiến thức nhất chứ không phải chỉ chọn tác
phẩm mình yêu thích nhất. Nắm chắc kiến thức lí luận và kiến thức tác giả, tác
phẩm, kiến thức văn học sử, đồng thời biết phân tích nhuần nhuyễn các mảng
kiến thức đó để làm sáng tỏ vấn đề. Không nên dừng lại ở việc cảm thụ, phân
tích tác phẩm đơn thuần mà chưa biết chọn lựa, chắt lọc những phương diện
quan trọng của tác phẩm góp phần làm sáng tỏ cho vấn đề lí luận được đặt ra.
3.Chọn dẫn chứng tối ưu nhất
Tức là dẫn chứng không chỉ đúng mà còn phải hay, còn làm nổi rõ vấn đề
lý luận nhất. “Phải có trong đầu hàng trăm câu thơ thì may ra mới trích trong
một bài viết nào đó được vài ba câu phù hợp, đúng và trúng”. Câu thơ trúng kia
chính là câu thơ tối ưu. Nhà phê bình Hoài Thanh sở dĩ gọi tên rất “trúng” hồn

cốt, đặc điểm bản chất nhất của từng phong cách nhà thơ chỉ bằng vài ba câu,
vài ba chữ ngắn gọn, bởi vì bên cạnh năng khiếu thẩm thơ tinh nhạy trời cho,
ông còn là một tấm gương lao động cần cù, đọc nhiều, nhớ nhiều nên có tầm bao
quát rộng lớn.
Để có kĩ năng chọn dẫn chứng hay, trúng vấn đề khi chứng minh, cần vận
dụng chúng một cách linh hoạt và huy động nhanh. Vì thế mà học sinh giỏi văn
cũng cần tích lũy cho mình kiến thức dẫn chứng tác phẩm phong phú đa dạng,
theo hệ thống và cách thức của riêng mình.
Ví dụ:
Đề văn - Nhà văn Nga K. Pauxtôpxki đã từng phát biểu:
“Chỉ có người nào nói được với mọi người những điều mới mẻ, có ý
nghĩa và thú vị, nhìn thấy những gì mà những người khác không nhận ra, người
đó mới có thể là nhà văn”.
(K.Pauxtôpxki – “Bông hồng vàng và Bình minh mưa”, NXB Văn học, 2003, tr.
46)
12


Ý kiến của anh/ chị về nhận định trên. Bằng việc chọn phân tích một tác
phẩm trong chương trình Ngữ văn THPT, hãy làm sáng tỏ.
Học sinh có thể lựa chọn, phân tích một tác phẩm bất kỳ (thơ hoặc văn
xuôi) trong chương trình Ngữ văn THPT mà mình tâm đắc, hiểu biết sâu sắc để
làm sáng tỏ. Tuy nhiên, khi lựa chọn, phải là những tác giả lớn, những tác phẩm
tiêu biểu thì sẽ là dẫn chứng tối ưu; Hơn nữa, học sinh phải đảm bảo được yêu
cầu cơ bản sau: Không phân tích lan man toàn bộ tác phẩm mà phân tích tác
phẩm ấy theo hướng để làm nổi bật những tìm tòi, sáng tạo riêng, nét phong
cách nghệ thuật riêng của nhà văn biểu hiện trong tác phẩm (tức chỉ phân tích
một số khía cạnh nhất định trong tác phẩm đó): Cách lựa chọn, xử lý đề tài, cách
nhìn, cách cảm thụ riêng; giọng điệu riêng; cách sử dụng các thủ pháp, bút pháp
nghệ thuật riêng (xây dựng hình tượng nghệ thuật, kết cấu, hình ảnh, sử dụng

ngôn từ…). Quan trọng hơn, những cái riêng, mới mẻ, độc đáo ấy phải hấp dẫn,
thú vị, phải có giá trị nghệ thuật, tác động mạnh đến người đọc trong nhận thức
về cuộc sống và con người, làm cho đời sống tâm hồn của họ phong phú, giàu
có, chân thiện và đẹp hơn. Với đề này, học sinh chọn tác phẩm của Thạch Lam,
Nam Cao, Xuân Diệu hay Nguyễn Minh Châu đều được.
4.Chọn dẫn chứng toàn diện.
Khi viết bài cần sử dụng dẫn chứng, người viết phải huy động cả “kho”
kiến thức về tác giả, tác phẩm, giai đoạn. Chọn dẫn chứng nào là chính, dẫn
chứng nào là phụ, bổ sung, hỗ trợ, đòn bẩy.
Ví dụ
Đề bài. Macxen Pruxt cho rằng “Một cuộc thám hiểm thực sự không phải
ở chỗ cần một vùng đất mới mà cần một đôi mắt mới”
Anh chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua các tác phẩm giai
đoạn 1930-1945
Đề giới hạn phạm vi dẫn chứng như vậy thì có cần dẫn chứng toàn diện
không? Có cần toàn diện, lúc này lại phải nghĩ đến sự toàn diện về thể loại hay
dòng văn học, trào lưu văn học.
13


Bài viết sau đã chú ý việc chọn dẫn chứng toàn diện để chứng minh.
[…] Cuộc thám hiểm của một

dân gian. Đó là cách khám phá hiện

người nghệ sĩ chân chính bắt đầu

thực rất riêng, rất lạ trong làng Thơ

bằng cái nhìn đầy tính phát hiện,


mới của “thi sĩ chân quê”. Đọc thơ

cách khám phá mới mẻ về mảnh đất

Nguyễn Bính, ta như nghe đâu đây

hiện thực đã in dấu chân của nhiều

lời ngân nga của những câu ca dao

người đi trước. Nhìn cuộc đời bằng

dân ca, những thành ngữ, tục ngữ tự

đôi mắt “xanh non”, “biếc rờn”,

trong mạch nguồn dân tộc. Ngôn

bằng niềm khát khao giao cảm đầy

ngữ của thơ Nguyễn Bính gần gũi,

luyến ái, với “Vội vàng”, Xuân

giản dị mà chân thành như chính

Diệu đã đem đến cho mùa xuân vốn

những mối tình đơn phương lỡ dở


đã xuất hiện trong thơ của Nguyễn

trong những áng thơ ca của ông. Đó

Du, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử,

là thể thơ lục bát mang điệu hồn dân

Nguyễn Bính,... một vẻ đẹp riêng.

tộc. Đó là những hình ảnh ước lệ,

Nếu mùa xuân của Chế Lan Viên là

biểu tượng thường thấy của văn học

nỗi sầu: “Tôi có chờ đâu có đợi

dân gian như “bến” – “đò”, “hoa”

đâu/ Mang chi xuân đến gợi thêm

– “bướm”, “giầu” – “cau”. Như

sầu”(Chiều xuân), mùa xuân của

một sự giãi bày về mối tình lỡ dở,

Nguyễn Bính là nỗi buồn thầm lặng


“Tương tư” mang giọng điệu kể lể,

của mối tình lỡ dở: “Năm tao bảy

tâm tình của chàng trai thôn quê. Nỗi

tuyết anh hò hẹn/ Để cả mùa xuân

“Tương tư” trong tình yêu của

cũng nhỡ nhàng!” (Mưa xuân) thì

Nguyễn Bính đã được kết tinh từ

mùa xuân của Xuân Diệu là sức

một tâm hồn quê, một con người

sống tươi non mơn mởn, là hiện

mang tình quê thiết tha sâu thẳm.

thân của luyến ái […]

[…] Nam Cao là nhà văn luôn nhìn

[…]Trong “Ba đỉnh cao Thơ

đời bằng đôi mắt của tình thương,


mới”, nếu Xuân Diệu và Hàn Mặc

chính bởi vậy, vẫn là hình ảnh người

Tử ảnh hưởng nhiều từ thơ ca

nông dân trước Cách mạng tháng

phương Tây thì Nguyễn Bính lại

Tám, nhưng Chí Phèo trong tác

ngả về phía âm hưởng của văn học

phẩm cùng tên của nhà văn không
14


giống với chị Dậu trong “Tắt đèn”

Nam Cao lại nhìn những người nông

củaNgô TấtTố, anh Pha trong

dân ấy bằng đôi mắt của tình thương

“Bước đường cùng” của Nguyễn

và phát hiện ra những bi kịch tinh


Công Hoan. Nếu các nhà văn hiện

thần vô cùng đau đớn. Đó là bi kịch

thực khác tập trung phản ánh nỗi khổ

bị tha hóa và bị cự tuyệt quyền làm

vì đói nghèo của người nông dân thì

người […]

Để có dẫn chứng toàn diện, cần trang bị cho mình một mảng kiến thức về
tác giả tác phẩm của các giai đoạn khác nhau, các tác giả tác phẩm theo các thể
loại khác nhau, các giai đoạn văn học; các trào lưu, trường phái; kiến thức về tác
giả, tác phẩm của các nền văn học khác nhau, văn học hay của văn học Việt
Nam và văn học nước ngoài đã được tuyển chọn vàochương trình sách giáo
khoa THCS, THPT cần phải nắm vững. Ngoài ra cần đọc,suy nghĩ thêm về một
số tác phẩm ngoài chương trình học nhưng có giá trị lớn vềnội dung và nghệ
thuật, là những tác phẩm kinh điển, nổi tiếng thế giới.

III. KĨ NĂNG PHÂN TÍCH DẪN CHỨNG DÀNH TRONG ĐỀ NGHỊ
LUẬN VĂN HỌC DÀNH CHO HSG MÔN NGỮ VĂN
1. Yêu cầu tổ chức, phân tích dẫn chứng
Dẫn chứng phải được phân tích cho hay và gắn nó với lý lẽ mà nó đang
cần làm sáng tỏ. Một bài văn có nhiều dẫn chứng la liệt chỉ mới chứng tỏ người
viết chăm học và có trí nhớ (đây là nói trường hợp dẫn chứng chính xác), chứ
chưa nói đến độ tài hoa trong phân tích dẫn chứng.
Phân tích dẫn chứng không cầndiễn đạt khoa trương, sáo mòn, lời văn “du

dương” nhưng sa vào ca ngợi thái quá, thiếu sự đánh giá khách quan, khoa học.
Chẳng hạn đoạn văn sau: “Nam Cao đã cúi xuống những kiếp người mạt
hạng, dốc cái lòng cảm thương đau xót vào nhân vật của mình, cất lên tiếng
15


kêu với xã hội phong kiến thuộc địa bất công thối nát kinh tởm.Đọc “Cánh đồng
bất tận”, ta mới thấy lòng thù hận không chỉ làm vấy bẩn cuộc sống mà còn
chôn vùi cuộc sống của biết bao thế hệ măng non.Trong vườn địa đàng của
trần gian có muôn ngàn bông hoa khoe sắc nhưng nhà họa sĩ đâu thể vẽ lại
được hết cái đẹp đó. Sa mạc rộng lớn được hình thành nên từ những hạt cát nhỏ
bé. Thế nhưng nhà văn đâu thể nào miêu tả được hết cái sa mạc rộng lớn ấy.
Con đường sáng tạo nghệ thuật không đơn giản nếu như không tinh tế mà nhận
ra, mà miêu tả tỉ mỉ cái hạt cát nhỏ bé kia thì tác phẩm sẽ không có đượcc ái
chiều sâu mà nó chỉ tồn tại như một bản phác thảo.
Khi phân tích, tổ chức dẫn chứng phải đảm bảo tính hợp lý. Đó là sự hợp
lý giữa lý lẽ với dẫn chứng, hợp lý giữa các loại dẫn chứng với nhau.
Ví dụ: Trong một đoạn văn viết về phong cách của nhà văn Nam Cao, có
một luận điểm cần làm rõ là “Phong cách không chỉ là cái nhìn riêng, cách xử
lý đề tài riêng mà còn thể hiện qua phương diện hình thức nghệ thuật”. Học sinh
khi viết đã biết lấy đúng dẫn chứng về tác phẩm “Chí Phèo” và phân tích vào
khía cạnh hình thức thể hiện.
Dưới đây là đoạn văn mà học sinh đã chọn được dẫn chứng và tổ chức,
phân tích dẫn chứng phù hợp, tỉ lệ giữa dẫn chứng và lý lẽ tương xứng.
Vẻ đẹp riêng trong đôi mắt

cảm xúc mơ hồ, bàng bạc, “chập

Nam Cao còn nằm ở một hình thức


chờn như cánh bướm non” thì Nam

sáng tạo, một “dấu vân tay không

Cao lại đi sâu vào những quá trình

trộn lẫn” (Lê Đạt) của nhà văn. Xây

tâm lí phức tạp chứa đầy mâu thuẫn

dựng nhân vật Chí Phèo, Nam Cao

của con người. Ngòi bút phân tích,

đã dựng lên một chân dung điển

miêu tả tâm lí tinh tế, sắc sảo của

hình, sắc nét, tiêu biểu cho số phận

ông đã soi tỏ vào đời sống bên trong

của những người nông dân trước

của nhân vật. Bởi vậy, quá trình thức

Cách mạng tháng Tám. Nếu Thạch

tỉnh của Chí Phèo đã được tái hiện


Lam là nhà văn của những cảm giác,

vô cùng tự nhiên, sinh động và hợp lí
16


với logic của thực tại. Kết cấu của

độc thoại nội tâm. Giọng điệu của

tác phẩm không theo trình tự thời

nhà văn vừa tỉnh táo sắc lạnh lại vừa

gian tuyến tính, mở đầu là tiếng chửi

trữ tình thắm thiết. “Bản thân hiện

của Chí Phèo rồi đi theo dòng hồi

thực là sự hướng dẫn, bản thân nó

tưởng về quá khứ của nhân vật. Sức

là tác phẩm, bản thân nó là bài ca

hấp dẫn của “Chí Phèo” còn nằm ở

hùng tráng, nó thành thật dâng sẵn,


nghệ thuật trần thuật với nhiều điểm

đón chờ” (Phạm Văn Đồng), chỉ khi

nhìn khi là người kể chuyện, khi là

nào đi qua con mới mới của nhà văn

người dân làng Vũ Đại, khi là chính

nó mới trở thành một thế giới nghệ

Chí Phèo với những lời đối thoại và

thuật riêng.

17


2. Kĩ năng tổ chức, phân tích dẫn chứng trong bài văn nghị luận văn học
của HSG
2. 1. Kĩ năng tổ chức, phân tích dẫn chứng theo lối hạt nhân, vòng tròn
a. Mô tả kĩ năng tổ chức, phân tích dẫn chứng theo lối hạt nhân, vòng
tròn
Có thể mượn một hình ảnh cụ thể để mô tả về kĩ năng tổ chức, phân tích
dẫn chứng theo lối hạt nhân, vòng tròn. Coi một đoạn lập luận theo cách này là
một chiếc bánh có nhân, thì kiến thức dẫn chứng cụ thể giống như nhân của
chiếc bánh, nó được bao quanh bởi kiến thức lý luận, soi rõ cho kiến thức lý
luận; ngược lại kiến thức lý luận sẽ được
tổ chức ở vòng tròn bên ngoài. Tổ chức, phân tích dẫn chứng theo cách thức này

có vai trò rất quan trọng, làm cho kiến thức lý luận và kiến thức tác phẩm không
rời nhau, không rơi vào tình trạng lý luận một đằng, dẫn chứng một nẻo; đặc
biệt là cách tổ chức này sẽ làm cho đoạn văn không rơi vào tình trạng chỉ là cảm
thụ, phân tích tác phẩm đơn thuần.
Ví dụ: Đề văn- “Rồi đây có thể xuất hiện những cỗ máy biết viết văn, làm
thơ. Lúc đó, sáng tạo văn học có còn là độc quyền của con người?”.Bằng trải
nghiệm văn học anh, chị hãy trình bày quan điểm của mình. [Đề thi chính thức
chọn HSG QG 2019]
Đoạn văn của học sinh tổ chức, phân tích dẫn chứng theo lối hạt
nhân, vòng tròn:
Nguyễn Đình Thi từng nói “Thơ phải có tư tưởng, có ý thức, vì bất cứ
cảm xúc, tình tự nào của con người cũng dính liền với sự suy nghĩ. Nhưng tư
tưởng trong thơ là tư tưởng dính liền với cuộc sống, ở trong cuộc sống, tư
tưởng của thơ nằm ngay trong cảm xúc, tình tự” như một lời khẳng định, cắt
nghĩa rõ ràng, rành mạch nhất về đặc trưng của thơ, mà rộng hơn cả là đặc
trưng văn chương. Văn chương, trước phải có sự sâu sắc, đó là cái lõi cốt yếu
18


nhất, là những bài học, những ý nghĩa nhân sinh được gửi gắm, đúc kết từ kinh
nghiệm sống của chính nhà thơ và thế hệ đi trước. Tuy vậy, đó sẽ chỉ là những
lời sáo mòn, rỗng tuếch và vô nghĩa nếu như những câu từ kia là lời hô hào,
phát động khuôn khổ và cứng nhắc. Sẽ không ai lắng nghe hay lĩnh hội hay
thậm chí là tin vào những lời dạy dỗ, khuyên răn ấy nếu nó thiếu đi cảm xúc.
[…]. Văn chương là tình yêu của người nghệ sĩ dành cho cuộc đời này, là yếu
tố quan trọng nhất mà như Nguyễn Du nói “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Thật vậy, chính cái tâm hồn đáng quý kia, cái tấm lòng luôn trăn trở, đau nỗi
đau nhân thế, buồn nỗi buồn của con người, một tấc lòng nặng trĩu vì đời của
thi hào Nguyễn Du mới khiến cho văn chương tồn tại, thăng hoa và bất diệt.
Cái sức mạnh cứu chuộc thế giới của nghệ thuật và văn chương, không nằm

trong những thứ kiểu cách, giáo điều mà nằm trong trái tim nồng nàn máu nóng
mà những tác giả văn học đặt vào trong từng câu chữ, từng nét mực và trang
giấy viết. […]. Thế chẳng phải, văn chương mà được tạo ra từ trong những bộ
óc và trái tim sắt thép kia sẽ chỉ là những con chữ thẳng ngay đơ trên trang
giấy, những gì ào ào tuôn ra bằng sự vận hành của một cái “click” chuột để
huy động những gì có sẵn trong bộ nhớ, những điều vốn chẳng thể nào tiến gần
được đến lòng người sâu thẳm?
b. Phân tích ngữ liệu
Mô hình khái quát:

19


Kiến thức lý luận
kiến thức lý luận

Kiến thức tác giả, tác phẩm để chứng minh

Kiến thức tác giả, tác phẩm để chứng minh

Phân tích ngữ liệu ví dụ:
Kiến thức lý
luận bao quanh
vòng tròn (Kiến
thức lý luận mở
đoạn)
“Nguyễn Đình
Thi từng nói
“Thơ phải có tư
tưởng, có ý

thức, […] là lời
hô hào, phát
động khuôn khổ
và cứng nhắc

Kiến thức dẫn chứng là hạt nhân bên Kiến thức lý luận
trong.
bao quanh vòng
tròn (Kiến thức lý
luận kết đoạn)
Văn chương là tình yêu của người nghệ
sĩ dành cho cuộc đời này, là yếu tố quan
trọng nhất mà như Nguyễn Du nói “Chữ
tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Thật vậy,
chính cái tâm hồn đáng quý kia, cái tấm
lòng luôn trăn trở, đau nỗi đau nhân
thế, buồn nỗi buồn của con người, một
tấc lòng nặng trĩu vì đời của thi hào
Nguyễn Du mới khiến cho văn chương
tồn tại, thăng hoa và bất diệt.

“Thế chẳng
phải, văn chương
mà được tạo ra từ
trong những bộ óc
và trái tim […]
những điều vốn
chẳng thể nào tiến
gần được đến
lòng người sâu

thẳm?”

c. Các bước tiến hành
Bước 1. Chọn dẫn chứng chuẩn, đúng và hình dung là dẫn chứng phù hợp nhất.
Bước 2. Viết ý lý luận mở đoạn (từ 1 đến 2 ý)
Bước 3. Phân tích dẫn chứng có mạch liên kết với ý lý luận vừa dẫn.
20


Bước 4. Viết ý lý luận kết đoạn (từ 1 đến 2 ý)
Bước 5. Đọc và soát lại sao cho đáp ứng bố cục một đoạn hoàn chỉnh, đúng về
nghĩa, mạch lạc trong logic trình bày; có lời văn hay; có liên kết giũa kiến thức
lý luận và dẫn chứng phù hợp, tự nhiên, sinh động, hấp dẫn.
2. 2. Kĩ năng tổ chức, phân tích dẫn chứng theo lối toàn diện
a. Mô tả kĩ năng tổ chức, phân tích dẫn chứng theo lối toàn diện
Trong một bài văn nghị luận của học sinh giỏi, đặc biệt là dẫn chứng bài
văn nghị luận của HSG quốc gia, thì việc tổ chức dẫn chứng theo lối toàn diện
là yêu cầu quan trọng. Toàn diện ở phương diện thể loại (thơ, truyện, kí, kịch), ở
giai đoạn văn học (dân gian, trung đại, hiện đại, đương đại), thời kì văn học, ở
các nền văn học khác nhau (văn học Việt Nam, văn học thế giới),… Khi nói đến
cách tổ chức dẫn chứng toàn diện là chúng ta tính trên đơn vị là bài văn. Bởi
một đoạn văn thì rất khó có thể tổ chức dẫn chứng toàn diện.
Ví dụ.Nhà phê bình Hoài Thanh Viết: “Thích một bài thơ, theo tôi nghĩ,
trước hết là thích một cách nhìn, một cách nghĩ, một cách cảm xúc, một cách
nói, nghĩa là trước hết là thích một con người” (Tuyển tập Hoài Thanh, Tập 2,
NXB Văn học, H.1982)
Bài văn của học sinh tổ chức, phân tích dẫn chứng theo lối toàn diện:
[…]Nhìn vào lịch sử văn chương có thể thấy diện mạo đa dạng, phong
phú của các gương mặt nghệ thuật. Điều này lý giải vì sao thơ ca cho đến nay
vẫn là sự hấp dẫn vĩnh viễn, vẫn không ngừng sinh sắc. Cùng viết về tình yêu,

trái tim nghệ sĩ Ta- gor muốn dành cho người yêu tất cả những gì đẹp nhất, có
dôi mắt nào băn khoăn nhìn vào thăm thẳm trái tim người thương để suy tư, để
trăn trở. Còn Puskin, một trái tim hồn hậu, vị tha, vừa bốc men say sưa, vừa
dịu lắng vào lý trí tỉnh táo lại tìm đến lẽ cao thượng […]

21


[…] Đỗ Phủ từng viết chùm thơ Thu hứng 8 bài; Nguyễn Khuyến cũng
có Chùm thơ thu 3 bài. Trái tim nghệ sĩ như dây đàn giăng giữa đất trời, chút
gió thoảng qua, làm sao chẳng ngân rung một nhịp riêng[…]
[…] Đọc thơ Hồ Xuân Hương, người đọc như bị cuốn vào tâm xoáy
của bão táp cảm xúc, dẫu là tiếng thơ trào lộng hay lắng vào tâm tình thì vẫn
nổi lên một cá tính ngang tàng, mãnh mẽ. Ngôn ngữ tho gai góc, gập ghềnh như
cái đứt gãy tự bên trong trái tim thi sĩ. Nếu thơ Bà Huyện Thanh Quan cổ
kính, trang nhã như một tòa thành, thì thơ Hồ Xuân Hương cựa mình trong
rêu đá, ruộng đồng, đời thường,[…]
[…] Vậy mà đến năm 1971, đến với chương V trường ca Mặt đường khát
vọng của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước một lần nữa sống dậy, gần gũi mà
thiêng liêng, quá khứ trong hiện tại, vô hình trong hữu hình. Đất nước đâu có gì
xa xôi, đất nước gần gũi xung quanh mỗi người hiện hữu từ “miếng trầu bây
giờ bà ăn” […]
[…] Cả hai bài thơ đều cùng đề tài mùa thu, tuy nhiên thu của cụ Tam
Nguyên là thu của nông thôn, đượm vẻ buồn đồng ruộng, còn thu của Xuân Diệu
lại bâng khuâng cái cảm xúc thị thành. Một bên là mùa thu đã hoàn tất, còn một
bên là mùa thu vừa mới chớm […]
[…] Cùng viết đề tài người nông dân, nhưng, Thạch Lam thì quan tâm tới
miếng vá trong chiếc áo rách của hiện thực, còn Nam Cao quan tâm cả chiếc
áo rách đó. Nhưng ngay Nam Cao và Kim Lân cũng khác, một Chí Phèo bước
tới con đường cùng bi kịch, Tràng của Kim Lân trong “Vợ nhặt” lại nắm lấy

hy vọng về sự sống ngay bên bờ vực của cái chết. Cả hai nhà văn đều đang đề
cấp đến cái chết, nhưng cái chết để nói về sự hồi sinh, nhưng mỗi nhà văn lại
có cách khám phá riêng.
b. Phân tích ngữ liệu
Mô hình khái quát:
22


23


Phân tích ngữ liệu ví dụ:
- Dẫn chứng theo thể loại: Thơ, truyện (Thơ Hồ Xuân Hương, Bà Huyện
Thanh Quan, Xuân Diệu; truyện ngắn Chí Phèo, Vợ nhặt.
- Dẫn chứng theo giai đoạn: Văn học trung đại, văn học giai đoạn 1930
-1945; văn học sau 1945.
- Dẫn chứng theo các nền văn học: Văn học Nga, văn học thời Đường
Trung Quốc, văn học Việt Nam.
- Dẫn chứng về các tác giả tiêu biểu: Đỗ Phủ, Puskin, Hồ Xuân Hương,
Xuân Diệu, Nam Cao, Kim Lân.
c. Các bước tiến hành
Bước 1. Chọn dẫn chứng tiêu biểu và theo các tiêu chí đã dẫn
Bước 2. Sắp xếp dẫn chứng theo các kiến thức lý luận.
Bước 3. Phân tích dẫn chứng theo từng đơn vị kiến thức lý luận, có dẫn chứng
chỉ để điểm làm cho kiến thức lý luận giảm bớt khô khan; có dẫn chứng phải
phân tích kĩ.
Bước 4. Đọc và soát lại để tránh viết hoặc chọn dẫn chứng trùng lặp.
2. 3. Kĩ năng tổ chức, phân tích dẫn chứng theo lối dừng điểm
a. Mô tả kĩ năng tổ chức, phân tích dẫn chứng theo lối dừng điểm
Ở đây có thể hiểu trong việc đưa dẫn chứng trong kiểu bài lý luận văn

học của học sinh giỏi không chỉ dàn trải đều đều, mỗi giai đoạn văn học, mỗi
thể loại văn học lấy một dẫn chứng rồi phân tích, cảm nhận khái quát như thế
cho đủ. Như thế sẽ tạo ra một nhịp điệu đều đều cho bài văn. Thiết nghĩ một bài
văn học sinh giỏi là dẫn chứng không chỉ toàn diện, phong phú mà dẫn chứng
còn phải dừng lại nhấn mạnh ở tác phẩm, hay vấn đề nào đó trong tác phẩm sâu
24


hơn, lý thú hơn, lạ hơn – như một khám phá cho bài viết của mình, cách dừng
lại để nhấn mạnh như thế sẽ tạo ấn tượng rất lớn đối với người đọc. Hơn nữa có
dẫn chứng chỉ nêu, chỉ điểm xuyết mà không cần phân tích, như một sự liệt kê,
thừa nhận vấn đề hiển nhiên mọi người đã biết. Điều này cũng tạo ra sự hấp dẫn
riêng, khiến cho bài viết như chứa đựng những chìa khóa bí mật gợi dẫn cho
người đọc muốn tìm hiểu tiếp sau khi đọc và chấm bài. Hơn nữa còn có thể đưa
được nhiều dẫn chứng trong mối dây liên hệ so sánh, đối chiếu, hấp dẫn mà
không sợ cồng kềnh, dàn trải.
Ví dụ1: Đề bài - Macxen Pruxt cho rằng “Một cuộc thám hiểm thực sự
không phải ở chỗ cần một vùng đất mới mà cần một đôi mắt mới”. Anh chị hiểu
ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua các tác phẩm đã học trong chương
trình.
Đoạn văn được tổ chức, phân tích dẫn chứng theo lối dừng điểm:
“Cuộc thám hiểm của một

xuân của Chế Lan Viên là nỗi sầu:

người nghệ sĩ chân chính bắt đầu

“Tôi có chờ đâu có đợi đâu/ Mang

bằng cái nhìn đầy tính phát hiện,


chi xuân đến gợi thêm sầu”(“Chiều

cách khám phá mới mẻ về mảnh đất

xuân”), mùa xuân của Nguyễn Bính

hiện thực đã in dấu chân của nhiều

là nỗi buồn thầm lặng của mối tình

người đi trước. Nhìn cuộc đời bằng

lỡ dở: “Năm tao bảy tuyết anh hò

đôi mắt “xanh non”, “biếc rờn”,

hẹn/ Để cả mùa xuân cũng nhỡ

bằng niềm khát khao giao cảm đầy

nhàng!” (“Mưa xuân”) thì mùa

luyến ái, với “Vội vàng”, Xuân Diệu

xuân của Xuân Diệu là sức sống tươi

đã đem đến cho mùa xuân vốn đã

non mơn mởn, là hiện thân của


xuất hiện trong thơ của Nguyễn Du,

luyến ái […] Tháng giêng ngon như

Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Nguyễn

một cặp môi gần” - Mùa xuân hiện

Bính,... một vẻ đẹp riêng. Nếu mùa

lên như một người tình gợi cảm, đầy
25


×