Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Nghiên cứu các giải pháp nâng cao hoạt động của các thư viện thôn làng ngoại thành hà nội002

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 69 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA THÔNG TIN – THƢ VIỆN

NGUYỄN THỊ THU

NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC THƢ VIỆN THÔN LÀNG
NGOẠI THÀNH HÀ NỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH: THÔNG TIN – THƢ VIỆN
KHÓA : QH – 2006 - X
HỆ

: CHÍNH QUY

HÀ NỘI - 2010
Nguyễn Thị Thu

1

K51-Thông tin –Thƣ viện


Khóa luận tốt nghiệp


Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Viết Nghĩa, người
đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện
và hoàn thiện khóa luận này.
Em xin gửi lời cảm ơn tới các Thầy, cô trong và ngoài khoa Thông tin
– Thư viện, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tận tình chỉ
bảo dạy dỗ chúng em trong suốt thời gian học tập và rèn luyện tại trường.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các ông, bà, các cô, các bác,
các anh chị đang công tác tại Ủy ban Nhân dân các xã và thư viện các thôn
Bình Vọng (Văn Bình, Thường Tín), thôn Giang Cao (Bát Tràng, Gia Lâm),
thôn Yên Xá (Tân Triều, Thanh Trì) đã tạo điều kiện giúp đỡ em rất nhiều
trong quá trình nghiên cứu và khảo sát thực tế tại đây.
Em xin cảm ơn gia đình và bạn bè – những người luôn bên em, động
viên và khuyến khích để em có thể hoàn thành khóa luận và có được kết quả
như ngày hôm nay.
Em xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên

Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2010

Nguyễn Thị Thu

Nguyễn Thị Thu

2

K51-Thông tin –Thƣ viện



Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
với sự giúp đỡ của những người tôi đã cảm ơn. Mọi kết quả nghiên
cứu trong công trình đều chính xác, không có trong bất cứ một công
trình nào khác.
Sinh viên
Nguyễn Thị Thu

Nguyễn Thị Thu

3

K51-Thông tin –Thƣ viện


Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Số thứ tự


Từ viết tắt

Tên đầy đủ

1

BCHTƯ

Ban Chấp hành Trung Ương

2

CHXHCN

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa

NDT

Người dùng tin

UBND

Ủy ban Nhân dân

TP.

Thành phố

3
4

5

Nguyễn Thị Thu

4

K51-Thông tin –Thƣ viện


Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài .....................................................................................1
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................3
Tình hình nghiên cứu của đề tài.........................................................................3
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài .....................................................4
Phương pháp nghiên cứu của đề tài ...................................................................4
Đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn của khóa luận ........................................5
Bố cục của khóa luận.. .......................................................................................5
CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ MÔ HÌNH THƢ VIỆN
THÔN, LÀNG
1.1. Vài nét về điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của thành phố Hà Nội ......6
1.2. Khái quát về thư viện thôn, làng…. ............................................................10
1.3. Vai trò của thư viện thôn, làng trong việc thỏa mãn nhu cầu tin của
người dùng tin và đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương… ......17
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ THƢ
VIỆN THÔN, LÀNG NGOẠI THÀNH HÀ NỘI

2.1.

Công tác nghiệp vụ ..................................................................................26
2.1.1. Thu thập và bổ sung vốn tài liệu… ...............................................26
2.1.2. Xử lý và sắp xếp tài liệu trong thư viện… ....................................28
2.1.3. Bảo quản vốn tài liệu….................................................................30

2.2.

Công tác phục vụ người dùng tin… ........................................................30
2.2.1. Hình thức phục vụ người dùng tin. ...............................................30
2.2.2. Công tác tuyên truyền và giới thiệu tài liệu… ..............................33
2.2.3. Hiệu quả của công tác phục vụ người dùng tin. ............................34

2.3. Nhận xét về hoạt động của một số thư viện thôn, làng ngoại thành Hà
Nội......................................................................................................................36
Nguyễn Thị Thu

5

K51-Thông tin –Thƣ viện


Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC THƢ VIỆN THÔN, LÀNG NGOẠI THÀNH HÀ NỘI
3.1. Tăng cường nguồn thông tin… ...................................................................43

3.2. Tạo điều kiện để thư viện thôn, làng được công nhận là thư viện cơ sở ....44
3.3. Tăng cường kinh phí cho các thư viện thôn, làng.. ....................................45
3.4. Đa dạng hóa các dịch vụ thông tin – thư viện. ...........................................45
3.5. Tăng cường cơ sở vật chất ..........................................................................47
3.6. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ thư viện và đào tạo người dùng tin ......47
3.7. Định hướng và phát triển văn hóa đọc trong nhân dân...............................49
3.8.Mở rộng mô hình thư viện thôn, làng ..........................................................49
KẾT LUẬN .......................................................................................................50
PHỤ LỤC
MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nguyễn Thị Thu

6

K51-Thông tin –Thƣ viện


Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hướng về cơ sở và xây dựng đời sống văn hoá cơ sở để thiết thực góp
phần nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân, từ nhiều năm nay,
luôn là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Năm 1996, Nghị quyết IV
của BCHTƯ Đảng khóa VIII “Về vấn đề văn hóa Việt Nam trong những
năm trước mắt” đã chỉ rõ rằng “công tác văn hóa phải được xã hội hóa”.

Nghị quyết Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam
cũng đã khẳng định “Cần phải nhanh chóng rút ngắn khoảng cách về mức
hưởng thụ văn hóa giữa nông thôn và thành thị, tiếp tục đưa các hoạt động
văn hoá thông tin về cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân
tộc…”. Trong những năm gần đây, nhiều phong trào xây dựng văn hóa nông
thôn đã được phát động như phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa”, phong trào “Xây dựng gia đình văn hóa”,…Những phong
trào này đã góp phần không nhỏ nâng cao đời sống văn hóa của người dân
nông thôn.
Đáp ứng nhu cầu thông tin của dân cư, đặc biệt là dân cư sống ở các
vùng nông thôn, đang là một nhiệm vụ thiết yếu đặt ra đối với mạng lưới các
thư viện công cộng. Các thư viê ̣n cầ n thực hiê ̣n tố t 3 chức năng cơ bản , đó là
thông tin, văn hóa và giáo du ̣c với hai mu ̣c tiêu chủ yế u là ta ̣o sự tiế p câ ̣n tố i
ưu tới vố n tài liê ̣u và cung cấ p thông tin cho người đo ̣c . Trong những năm
qua, ngành Văn hoá Thông tin đã chỉ đạo các đơn vị phát phát huy tính sáng
tạo chủ động phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể quần chúng, các tổ chức
xã hội trong và ngoài nước, đẩy mạnh công tác xã hội hoá thư viện cơ sở,

Nguyễn Thị Thu

7

K51-Thông tin –Thƣ viện


Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

nhằm khuyến khích, động viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia và phát triển

thư viện.
Trước tình hình mới, một nhiệm vụ đặt ra cho các thư viện cả nước nói
chung và các thư viện các huyện ngoại thành Hà Nội nói riêng là phải đẩy
mạnh phong trào đọc sách báo ở cơ sở, bằng cách đưa thông tin khoa học,
văn hóa xã hội đến với mỗi người dân. Bên cạnh việc không ngừng nâng cao
hiệu quả công tác phục vụ người người dùng tin tại thư viện trung tâm
huyện, thực hiện chủ trương “đưa văn hóa về cơ sở” của Đảng và Nhà nước,
Sở Văn hóa – Thông tin Hà Nội đã chỉ đạo các thư viện huyện phải chú
trọng công tác xây dựng thư viện thôn, làng nhằm phát triển phong trào đọc
sách báo trong từng địa phương ngoại thành Hà Nội.
Trên tinh thần, đó trong những năm qua, Thư viện Hà Nội luôn phấn đấu
khắc phục khó khăn, phát huy vị trí, vai trò và chức năng của một thư viện
thành phố, đưa ra nhiều biện pháp cụ thể nhằm duy trì hoạt động của các thư
viện thôn, làng. Thư viện Hà Nội luôn xác định xây dựng và phát triển thư
viện thôn, làng là nhiệm vụ vừa có tính cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài
trong sự nghiệp phát triển thư viện. Thực tế cho thấy, những thành tích đáng
khích lệ của những thư viện thôn, làng trong những năm qua đã chứng minh
tính đúng đắn của các chủ trương trên. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
công của mô hình thư viện thôn, làng, đến nay vẫn còn một số tồn tại như
kinh phí xây dựng vốn sách báo, trang thiết bị thư viện, chế độ đãi ngộ đối
với cán bộ phụ trách và còn nhiều vấn đề khác cần phải nghiên cứu, để đưa
ra các giải pháp xây dựng và phát triển mô hình thư viện thôn, làng ngày
càng hiệu quả, đặc biệt là trong giai đoạn hiện đại hóa - công nghiệp hóa
kinh tế Thủ đô.

Nguyễn Thị Thu

8

K51-Thông tin –Thƣ viện



Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

Từ nhận thức trên và với mong muốn vận dụng kiến thức được tiếp thu trong
nhà trường vào thực tế, tôi mạnh dạn chọn vấn đề “Nghiên cứu các giải
pháp nâng cao hoạt động của các thư viện thôn làng ngoại thành Hà Nội”.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận là tìm hiểu hoạt động của các thư
viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động của mô hình thư viện này nhằm thỏa mãn tốt hơn nhu
cầu thông tin của người dùng tin trên địa bàn ngoại thành Hà Nội.
Để thực hiện mục tiêu trên, khóa luận tập trung giải quyết các nhiệm
vụ sau:
- Nghiên cứu đặc điểm người dùng tin và nhu cầu tin tại một số thư
viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội
- Khảo sát thực trạng hoạt động của một số thư viện thôn, làng ngoại
thành Hà Nội
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các
thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội.
3. Tình hình nghiên cứu theo hƣớng đề tài
Hiện nay, tài liệu viết về mô hình thư viện thôn, làng không nhiều.
Trên các diễn đàn, Tập san thư viện có một số ít bài viết đề tài này [7, 8], tuy
nhiên trong các bài viêt trên, các tác giả mới chỉ đề cập một cách chung nhất
về mô hình thư viện thôn, làng, mà không khảo sát một mô hình cụ thể nào,
cũng như không chỉ rõ những tồn tại của mô hình thư viện thôn, làng ngoại
thành Hà Nội. Có thể nói cho tới nay vấn đề “Nghiên cứu giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động của các thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội” mà

tác giả khóa luận thực hiện, không trùng lặp với bất cứ công trình nào đã
được công bố trước đây. Ở đây, trong khóa luận này, tác giả tiến hành phân
tích cụ thể, rõ ràng hơn về đặc điểm nhu cầu tin và người dùng tin tại các thư
Nguyễn Thị Thu

9

K51-Thông tin –Thƣ viện


Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội cũng như đưa ra những nhận xét về hoạt
động của một số thư viện tại đây. Trên cơ sở đó, khóa luận cũng đề xuất các
giải pháp và phân tích kỹ hơn tính hữu ích của các giải pháp tăng cường hiệu
quả hoạt động của mô hình thư viện thôn, làng, đáp ứng nhu cầu tin của
người dùng tin tại các vùng ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
Đây cũng chính là hướng nghiên cứu mới của đề tài.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là hoạt động của các thư viện
thôn, làng ngoại thành Hà Nội
Do điều kiện thời gian có hạn, địa bàn nông thôn ngoại thành Hà Nội
lại quá rộng, nên tác giả đã giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt
động của 3 thư viện thôn làng tại 3 huyện ngoại thành Hà Nội từ năm 2005
đến nay, đó là 3 thư viện sau:
- Thư viện thôn Bình Vọng, xã Văn Bình, huyện Thường Tín, TP. Hà Nội
- Thư viện thôn Giang Cao, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, TP. Hà Nội
- Thư viện thôn Yên Xá, xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, TP. Hà Nội

Trong 3 mô hình đó, có 2 thư viện (Thư viện thôn Bình Vọng và Thư
viện thôn Giang Cao)có thể nói là thành công trong việc tổ chức hoạt động,
đáp ứng khá tốt nhu cầu của người dùng tin. Tác giả cũng hy vọng kinh
nghiệm của 2 mô hình thư viện này sẽ được nhân rộng và áp dụng trong các
địa phương khác của Thủ đô.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện đề tài này, tác giả khóa luận đã sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu
- Phương pháp điều tra xã hội học (phỏng vấn, trao đổi trực tiếp,
thông qua phiếu điều tra,)
Nguyễn Thị Thu

10

K51-Thông tin –Thƣ viện


Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

- Phương pháp quan sát
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp so sánh
6. Đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn của khóa luận
- Về mặt lý luận: Khóa luận góp phần làm rõ vai trò của mô hình thư
viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội trong việc nâng cao đời sống văn hóa cơ
sở trong giai đoạn hiện tại và trong tương lai.
- Về mặt thực tiễn: Khóa luận đã khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt

động tại các thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội thông qua mức độ đáp
ứng nhu cầu tin của người dùng tin, đồng thời đề xuất các giải pháp hữu ích
nhằm tăng cường hoạt động thông tin, đáp ứng nhu cầu tin của người dùng
tin tại các thư viện này. Những nghiên cứu này chắc chắn sẽ có ích khi triển
khai hoạt động “xã hội hóa” hoạt động thư viện.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần
phụ lục, khóa luận chia làm 3 chương chính:
- Chương 1: Giới thiệu khái quát về mô hình thư viện thôn, làng
- Chương 2: Thực trạng hoạt động của một số thư viện thôn, làng ngoại
thành Hà Nội
- Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các thư viện
thôn, làng ngoại thành Hà Nội
Trong quá trình thực hiện đề tài tôi đã nhận được sự hướng dẫn nhiệt
tình của TS. Nguyễn Viết Nghĩa cùng sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ
thư viện tại thư viện thôn Bình Vọng, thư viện thôn Giang Cao, thư viện
thôn Yên Xá. Tuy nhiên do thời gian và trình độ có hạn, khóa luận không
tránh khỏi những khiếm khuyết. Tác giả khóa luận rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo trong và ngoài Khoa Thông tin
Nguyễn Thị Thu

11

K51-Thông tin –Thƣ viện


Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn


– Thư viện, các cán bộ thư viện thôn Văn Bình, thư viện thôn Giang Cao,
thư viện thôn Yên Xá để khóa luận hoàn thiện hơn.
CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ MÔ HÌNH
THƢ VIỆN THÔN, LÀNG

1.1.

Vài nét về điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của Hà Nội
Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học lớn của cả

nước, là đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam. Hiện nay, sau khi mở
rộng địa giới hành chính, Hà Nội có 29 đơn vị hành chính cấp huyện gồm 10
quận, 18 huyện, 1 thị xã và 580 đơn vị hành chính cấp xã gồm 404 xã, 154
phường và 22 thị trấn. Hà Nội có diện tích tự nhiên 334.470,02 ha với dân số
là 6.448.837 người (năm 2009).
Mật độ dân số Hà Nội hiện nay không đồng đều giữa các quận nội đô
và khu vực ngoại thành. Tính chung toàn thành phố, mật độ dân cư trung
bình 1.979 người/km², nhưng tại quận Đống Đa, mật độ lên tới 35.341
người/km², trong khi đó, ở những huyện như ngoại thành như Sóc Sơn, Ba
Vì, Mỹ Đức, mật độ không tới 1.000 người/km². Toàn thành phố Hà Nội có
2.632.087 cư dân thành thị, (chiếm 41,1%) và 3.816.750 cư dân nông thôn,
(chiếm 58,1%). Do nhiều nguyên nhân khác nhau, sự khác biệt giữa nội
thành và ngoại thành không chỉ thể hiện ở mức độ thu nhập tính trên đầu
người mà còn thể hiện qua mức sống, điều kiện chăm sóc y tế, giáo dục,
mức độ hưởng thụ văn hóa,...
Về mặt kinh tế, giai đoạn từ năm 2007 – 2009, mặc dù có sự tác động
của khủng hoảng tài chính và sự suy giảm kinh tế diễn ra trên toàn thế giới
Nguyễn Thị Thu

12


K51-Thông tin –Thƣ viện


Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

nói chung và Việt Nam nói riêng, thiên tai dịch bệnh diễn biến phức tạp,
kinh tế Thủ đô vẫn tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo
hướng tích cực, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hơn, cụ thể:
Tăng trưởng GDP bình quân của thành phố giai đoạn từ 2007 - 2009
tăng 9,92 % (GDP năm 2009 tăng 6,7% so với năm 2008). Cơ cấu kinh tế
chuyển biến tích cực theo hướng tăng tỉ trọng ngành dịch vụ, công nghiệp,
giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Năm 2009 ngành dịch vụ đóng góp 52,3%
trong GDP; công nghiệp - xây dựng 41,4% nông nghiệp giảm chỉ còn 6.3%
(năm 2008 là 6,5%).
Hà Nội là một trong những địa phương nhận được đầu tư trực tiếp từ
nước ngoài nhiều nhất, với 1.681,2 triệu USD và 290 dự án. Tốc độ tăng
trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân 3 năm 2007-2009 đạt 17,2% . Năm
2008, GDP bình quân đầu người của Hà Nội lên tới 31,8 triệu đồng, trong
khi con số bình quân của cả nước là 13,4 triệu đồng.
Về phát triển kinh tế ngoại thành, Thành phố đã thực hiện nhiều dự
án, mô hình sản xuất mới có hiệu quả kinh tế cao, tạo điều kiện phát triển
các ngành nghề mới ở các vùng nông thôn ngoại thành. Thành phố cũng đã
vận động và hỗ trợ nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng
tiến bộ kỹ thuật, đưa giống mới vào sản xuất và đã thu được kết quả tốt. Sản
xuất nông nghiệp tiếp tục tăng trưởng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp có tiến
bộ. Các sản phẩm chủ lực của nông nghiệp Hà Nội (rau an toàn, hoa, lợn
hướng lạc) tiếp tục được khuyến khích phát triển thông qua hỗ trợ đầu tư của

Thành phố cho hạ tầng phục vụ sản xuất. Thành phố đã hỗ trợ về giống, quy
trình sản xuất, hỗ trợ quảng bá và tiêu thụ sản phẩm cho bà con nông dân.
Thành phố cũng đã quy hoạch và triển khai xây dựng vùng chăn nuôi thủy
Nguyễn Thị Thu

13

K51-Thông tin –Thƣ viện


Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

sản tập trung và nuôi trồng một số giống thủy sản đặc sản có giá trị kinh tế
cao (tại Ứng Hòa, Mỹ Đức), đẩy mạnh quy hoạch và triển khai xây dựng các
vùng trồng rau an toàn toàn tập trung tại các huyện Đan Phượng, Phúc Thọ,
Chương Mỹ, Thanh Trì.
Nhờ những hỗ trợ của Thành phố, không ít mô hình phát triển kinh tế
như mô hình kinh tế hộ, kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác xã, mô hình hợp
tác xã nông, lâm, ngư gắn với ngành nghề, làng nghề đã thành công và đang
được nhân rộng, góp phần đắc lực vào công cuộc xây dựng nông thôn mới.
Thực hiện “Đề án xây dựng thí điểm nông thôn mới”, ngành ngành nông
nghiệp đã có nhiều đóng góp tích cực, sản xuất nông nghiệp Hà Nội trong
những năm qua đạt kết quả khá cả về sản lượng và giá trị. Giá trị sản xuất
nông, lâm, thủy sản đạt 131 triệu đồng/ha.
Chính sự phát triển ổn định, khá vững chắc của nông nghiệp đã góp
phần quan trọng bảo đảm an sinh xã hội, tạo đà thúc đẩy kinh tế ngoại thành,
cải thiện một bước đáng kể đời sống của bà con nông dân. Bên cạnh những
thành tựu đạt được, các huyện ngoại thành Hà Nội vẫn gặp không ít khó

khăn hạn chế sự phát triển kinh tế, như đất nông nghiệp tiếp tục bị thu hẹp
do xu hướng đô thị hóa, thời tiết không thuận lợi, nguy cơ bùng phát dịch ở
cây trồng, vật nuôi ở mức cao, nhiều nơi người dân có mức sống thấp.
Về chính trị, Hà Nội là nơi tập trung các cơ quan đầu não của cả nước.
Hà Nội là nơi có truyền thống nghìn năm văn hiến và lừng lẫy chiến công
đánh giặc, nơi định đô của các vương triều phong kiến tự chủ Việt Nam.
Ngay từ buổi đầu cách mạng, Hà Nội đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử
trọng đại của dân tộc. Là trái tim đất nước, Hà Nội hội tụ các cơ quan lãnh
đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các đoàn thể xã hội. Thủ
Nguyễn Thị Thu

14

K51-Thông tin –Thƣ viện


Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

đô cũng là nơi diễn ra các Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng, các kỳ họp
Quốc hội, mà từ đó đã đưa ra các nghị quyết, đường lối, sách lược đối nội và
đối ngoại cho từng giai đoạn xây dựng và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Đại sứ
quán của nhiều quốc gia trên thế giới đều đặt ở Hà Nội. Mọi hoạt động ngoại
giao, thăm viếng, trình quốc thư, hội đàm, ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác
được tiến hành tại đây. Hà Nội vinh dự được đón nhận danh hiệu "Thành
phố vì hòa bình" và đang khẩn trương, hào hứng hướng tới đại lễ 1000 năm
Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội.
Về văn hoá, các cơ quan thông tấn, báo chí, xuất bản cấp quốc gia đều
đóng tại Hà Nội và cụ thể hơn là tại khu vực nội thành Hà Nội. Không

những thế, đây còn là một trong những địa phương đi đầu trong cả nước về
xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hóa mới.
Về khoa học, giáo dục và đào tạo, Hà Nội là nơi tập trung 44 trường
đại học và cao đẳng của đất nước, với hơn 330 nghìn học sinh - sinh viên.
Hà Nội tự hào là cái nôi rèn luyện và tạo dựng các thế hệ trí thức của thời
đại. Các thế hệ trí thức với nhiều danh nhân lỗi lạc đã bồi đắp trở lại cho Hà
Nội ngày càng thực sự tiêu biểu cho nền văn hóa Việt Nam. Về khoa học,
với hơn một trăm viện nghiên cứu trong đó có hai trung tâm nghiên cứu lớn
là Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Viện Khoa học Xã hội Việt
Nam, nhiều viện nghiên cứu ở các các bộ, các ngành. Hàng năm, Hà Nội tổ
chức một số lượng lớn hội thảo, hội nghị với các tổ chức quốc tế song
phương và đa phương.
Tuy nhiên, có thể thấy rằng, đang tồn tại một sự khác biệt rất lớn giữa
vùng nông thôn ngoại thành và nội đô thành phố Hà Nội. Sự chênh lệch về
thu nhập, về mức sống, điều kiện chăm sóc y tế, hưởng thụ văn hóa đang
Nguyễn Thị Thu

15

K51-Thông tin –Thƣ viện


Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

ngày càng trở nên rõ rệt. Cách trung tâm thành phố chỉ khoảng 30-40 km,
nhưng nhiều vùng chưa có đường ô tô, không có nước sạch, đời sống vật
chất của dân cư còn rất khó khăn, điều kiện hưởng thụ văn hóa tinh thần lại
càng khó khăn hơn. Qua những phân tích trên có thể thấy một nhu cầu cấp

thiết là phải tăng cường đầu tư hơn nữa cho khu vực ngoại thành, không chỉ
để thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn phải nhanh chóng thu hẹp khoảng cách
hưởng thụ văn hóa giữa nông thôn ngoại thành và nội thành. Mô hình thư
viện thôn, làng chính là một trong các giải pháp để giải quyết nhiệm vụ nặng
nề trên.
1.2. Giới thiệu khái quát về mô hình thƣ viện thôn, làng
Năm 1924, N.C.Crúp - xcai - a, nhà thư viện học người Nga đã viết
“Thư viện là phương thức đưa sách báo đến với quần chúng tiết kiệm nhất
và hợp lý nhất. Thư viện là hình thức sử dụng sách, báo tập thế”.
Năm 1970, trong đề nghị tiêu chuẩn hóa quốc tế về lĩnh vực thống kê
thư viện, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về thư viện “Thư viện không phụ
thuộc vào tên gọi của nó, là bất cứ bộ sưu tập có tổ chức nào của sách, ấn
phẩm định kỳ hoặc các tài liệu khác, kể cả đồ họa, nghe, nhìn và nhân viên
phục vụ có trách nhiệm tổ chức cho bạn đọc sử dụng các loại tài liệu đó
nhằm phục vụ mục đích thông tin, nghiên cứu khoa học, giáo dục hoặc giải
trí”.
Theo đó, có thể coi khái niệm về thư viện thôn, làng là những cơ sở
văn hóa hạt nhân trọng yếu, là nơi tập trung sinh hoạt văn hóa, tinh thần của
dân cư địa phương, hay nói cách khác, thư viện thôn, làng là những kho sách
dùng chung, phục vụ cho mọi đối tượng có nhu cầu trong thôn, trong làng,
hay một nhóm người cụ thể theo quy định riêng của thư viện.
Như chúng ta đã biết, hệ thống thư viện công cộng đứng đầu là thư
viện Quốc gia với một mạng lưới các thư viện công cộng các cấp tỉnh, thành
Nguyễn Thị Thu

16

K51-Thông tin –Thƣ viện



Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

phố, quận, huyện. Và như vậy, thư viện thôn, làng cùng với tủ sách cơ sở
nên được xem là cấp cuối cùng trong hệ thống thư viện công cộng. So với
mô hình điểm bưu điện văn hóa xã, mô hình tủ sách pháp luật, mô hình tủ
sách thanh niên, mô hình tủ sách - câu lạc bộ, mô hình tủ sách trường học thì
mô hình thư viện thôn, làng có nhiều ưu điểm hơn. Hiện nay, trên địa bàn Hà
Nội có 740 thư viện thôn làng và tủ sách cơ sở (năm 2010). Đã có nhiều thư
viện thôn, làng hoạt động rất tốt và sách báo đã thực sự trở thành món ăn
tinh thần không thể thiếu đối với nhiều người dân ở các vùng làng quê Hà
Nội như các thư viện Bình Vọng (Thường Tín), Giang Cao (Gia Lâm),
...Các thư viện này đã trở thành các điểm sinh hoạt văn hóa, tinh thần lành
mạnh đối với nhân dân địa phương.
Tiêu chí đánh giá thư viện cơ sở
Thông tư 56/2003 của Bộ Văn hóa Thông tin, ban hành ngày
16/9/2003 “Hướng dẫn chi tiết về điều kiện thành lập thư viện và thủ tục
đăng ký hoạt động thư viện” quy định rõ tiêu chí đánh giá thư viện cơ sở về
trang thiết bị chuyên dùng, cụ thể:
- Vốn sách báo của thư viện cơ sở:
+ Đối với vùng đồng bằng: 1500 bản sách và 10 loại báo, tạp chí.
+ Đối với vùng miền núi: 100 bản sách và 5 loại báo, tạp chí
Thư viện cấp cơ sở phải có trụ sở ở vị trí thuận lợi cho người sử dụng thư
viện, ngoài diện tích kho sách và nơi làm việc của nhân viên, thư viện phải
có ít nhất 15 chỗ ngồi đối với vùng đồng bằng và 10 chỗ ngồi đối với vùng
miền núi...
Nếu so sánh với tiêu chí đánh giá như trên thì có thể thấy ngay rằng nhiều
thư viện thôn, làng hoàn toàn có đủ điều kiện trở thành thư viện cơ sở.
Sự hình thành thư viện thôn làng


Nguyễn Thị Thu

17

K51-Thông tin –Thƣ viện


Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

Phần lớn các thư viện thôn, làng ban đầu được hình thành do sự đề
xuất, khởi xướng của những người cao tuổi trong địa phương. Cùng với sự
quan tâm của những cá nhân, tổ chức và của ban lãnh đạo các cấp, các thư
viện thôn, làng được hình thành và từng bước phát triển. Có những thư viện
tiền thân là tủ sách của thôn, được sự đóng góp của cộng đồng dân cư và
phát triển thành thư viện với đầy đủ chức năng của một thư viện cơ sở. Gắn
với sự hình thành và phát triển của thư viện thôn làng luôn có sự tham gia
tích cực của các tổ chức chính trị xã hội tại địa phương như Hội Người cao
tuổi, Hội Khuyến học…
Thƣ viện thôn Bình Vọng
Thôn Bình Vọng thuộc xã Văn Bình, huyện Thường Tín, Tp. Hà Nội.
Thư viện thôn Bình Vọng là thư viện thôn đầu tiên được thành lập trong xã.
Đầu năm 1999, cụ Dương Văn Phi, một giáo viên về hưu, Chi hội trưởng
Chi hội Người cao tuổi của thôn, đã đề xuất thành lập thư viện thôn. Đề xuất
của cụ Phi được lãnh đạo thôn, xã và bà con nhân dân rất đồng tình ủng hộ.
Năm 1999, thư viện thôn Bình Vọng được thành lập. Điều độc đáo ở đây
không chỉ về ý tưởng mà còn về cách thức xây dựng thư viện. Người dùng
tin của thư viện cũng đồng thời là thủ thư, các bác cán bộ về hưu là những

người say mê sách nhất và đồng thời cũng là những người nhiệt tình nhất
trong việc xây dựng và quản lý thư viện. Hiện nay, bác Lương Văn Tăng,
cũng là một cán bộ hưu trí, là độc giả trung thành của thư viện, đồng thời là
chủ nhiệm của thư viện. Khẩu hiệu mà thư viện Thôn Bình Vọng luôn đề
cao hàng đầu là chính là câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Học ở
trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học ở dân”.
Thƣ viện thôn Giang Cao
Thôn Giang Cao thuộc xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, TP. Hà Nội.
Tiền thân của thư viện thôn Giang Cao là tủ sách của thôn với khoảng hơn
Nguyễn Thị Thu

18

K51-Thông tin –Thƣ viện


Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

200 cuốn sách. Năm 1999, ông Nguyễn Huy Truy là một người cao tuổi
trong thôn đề xuất thành lập thư viện thôn. Đến tháng 7/1999 thư viện thôn
Giang Cao được thành lập và hoạt động khá hiệu quả cho tới nay.
Thƣ viện thôn Yên Xá
Thôn Yên Xá thuộc xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, TP. Hà Nội. Thư
viện thôn Yên Xá do Hội Người cao tuổi của thôn thành lập năm 2005.
Chức năng, nhiệm vụ của thư viện thôn làng
Căn cứ vào Pháp lệnh Thư viện được chủ tịch nước CHXHCN Việt
Nam ban hành ngày 11/1/2001 thì chức năng và nhiệm vụ của thư viện được
chỉ ra như sau: “Thư viện có chức năng, nhiệm vụ là giữ gìn di sản thư tịch

của dân tộc, thu thập tàng trữ, tổ chức việc khai thác và sử dụng vốn tài liệu
trong xã hội nhằm truyền bá tri thức, cung cấp thông tin phục vụ nhu cầu
học tập, nghiên cứu, công tác và giải trí của mọi tầng lớp nhân dân; góp
phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển khoa
học, công nghệ, kinh tế, văn hóa, phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước” (Điều 1- Pháp lệnh Thư viện), xây dựng thói quen tự học,
tự nghiên cứu trong học sinh, sinh viên.
Với chức năng chủ yếu là luân chuyển sách, báo, thông qua nội dung
sách báo thư viện thôn, làng góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng
dân trí, tuyên truyền các chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước tới người dân trong thôn, xây dựng nếp sống văn minh cho cộng đồng
dân cư. Bên cạnh đó, thư viện còn có các hoạt động như tuyên truyền và giới
thiệu sách, triển lãm sách nhân các ngày kỷ niệm, những hoạt động này đã
tác động tích cực tới việc giáo dục tư tưởng và truyền thống cách mạng cho
người dân, đồng thời chống lại mọi tàn dư của văn hóa tiêu cực xâm nhập.

Nguyễn Thị Thu

19

K51-Thông tin –Thƣ viện


Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

Bằng cách giới thiệu các tiến bộ kỹ thuật áp dụng trong trồng trọt,
chăn nuôi, hay nghề thủ công, thư viện thôn, làng đã góp phần thay đổi thói
quen canh tác lạc hậu, làm thay đổi kinh tế nông thôn.

Một nhiệm vụ mà các thư viện thôn, làng thực hiện rất hiệu quả trong
thời gian qua là xây dựng nếp sống văn hóa cho nhân dân, giúp họ bài trừ
các tàn tích lạc hậu, hủ tục, mê tín dị đoan. Thư viện thôn làng còn là nơi bà
con trong thôn đến giao lưu sau những giờ lao động vất vả, điều này làm
tăng thêm tình đoàn kết xóm làng. Nhờ có hoạt động đọc sách báo trong thư
viện, mà nhiều thanh thiếu niên trong thôn tránh xa được các tệ nạn cờ bạc,
rượu chè, ma túy,…Đây chính là một điểm sáng mà thư viện thôn làng đã
làm được
Đối tượng phục vụ của thư viện
Các thư viện thôn, làng phục vụ đông đảo mọi tầng lớp nhân dân trong
địa phương, từ trẻ em, thanh niên, người trung niên, người cao tuổi của làng
và các địa phương lân cận. Thư viện Bình Vọng, ngoài đối tượng người
dùng tin của địa phương mình còn mở rộng phục vụ đối tượng người dùng
tin địa phương khác, mặc dù đối tượng này đến thư viện vẫn còn ít. Điều đặc
biệt ở các thư viện này là đội ngũ cộng tác viên, họ vừa là người cán bộ thư
viện vừa là người độc giả.
Cán bộ thư viện
Tại mỗi thư viện đều có người phụ trách, quản lý sách báo và trông
coi giữ gìn. Chủ yếu là lực lượng cựu chiến binh, cán bộ hưu trí và các cán
bộ kiêm nhiệm công tác khác của địa phương. Với đội ngũ này, họ có điều
kiện về thời gian, kinh nghiệm hoạt động xã hội và vốn hiểu biết về các lĩnh
vực công tác. Khi tự nguyện tham gia công tác thư viện, họ rất quan tâm đến
việc đưa sách báo đến tay người dân. Bằng uy tín và mối quan hệ rộng rãi
của mình, họ đứng ra mượn sách báo, vận động các đối tượng nhân dân, các
Nguyễn Thị Thu

20

K51-Thông tin –Thƣ viện



Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

tổ chức ở địa phương ủng hộ tài trợ mọi mặt cho hoạt động của thư viện.
Thư viện thôn Bình Vọng, ngoài 1 người phụ trách chính, 2 cán bộ thư viện
có những thư viện có thêm “mạng lưới cộng tác viên”, 113 cộng tác viên là
những người nông dân, cán bộ hưu trí được huy động và đảm bảo các hoạt
động thường xuyên của thư viện. Thư viện thôn Giang Cao, hiện nay chỉ có
một người làm người phụ trách thư viện kiêm cán bộ thư viện, và không có
đội ngũ cộng tác viên. Thư viện thôn Yên Xá từ khi thành lập cho đến nay,
vẫn chưa có người đứng ra làm cán bộ phụ trách thư viện. Thư viện không
giao nhiệm vụ cho những cá nhân hay tổ chức để thực hiện các hoạt động
của thư viện.
Vốn tài liệu
Tại các thư viện thôn, làng, số lượng sách báo không nhiều. Có những
thư viện có số sách lên tới 4000 – 8000 cuốn, nhưng có những thư viện chỉ
có vài trăm cuốn. Số báo và tạp chí mà thư viện có được phần lớn từ nguồn
biếu tặng, cho nên số đầu báo, tạp chí của từng tên báo và tạp chí không theo
định kỳ phát hành. Có những tên báo, tạp chí được cập nhật thường xuyên
nhưng cũng có khi chỉ có 2,3 số cho 1 tên báo, tạp chí. Thực tế, mỗi thư viện
thôn, làng bước đầu chỉ cần vài trăm cuốn sách và 4-5 loại báo là bắt đầu
đưa vào hoạt động.
Tại thư viện thôn Bình Vọng, hiện nay thư viện có tổng số 6772 cuốn
sách, gồm nhiều môn loại như chính trị, y học, nông nghiệp, văn học…Thư
viện có 20 tên tạp chí, một số tên tạp chí như Thiếu niên, Tự học, Nhi đồng,
Hoa học trò, Tuổi trẻ cười, Hạnh phúc gia đình, Nông nghiệp, Văn học nghệ
thuật, Đại đoàn kết, Thuốc và sức khỏe, Văn nghệ quân đội, Quốc phòng,
Toàn cảnh, Xưa và nay, Tạp chí Cộng sản….8 tờ báo mà thư viện có như

báo Người cao tuổi, Nhân dân, Nông thôn, Sức khỏe và đời sống, Văn hóa,
Ngày nay, Lao động xã hội, Tiền Phong.
Nguyễn Thị Thu

21

K51-Thông tin –Thƣ viện


Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

Thư viện thôn Giang Cao có tổng số khoảng 5000 cuốn sách, thuộc
nhiều môn loại. Thư viện có trên 30 tên tạp chí và báo. Một số tên tạp chí
mà thư viện có như Mỹ phẩm, Mua sắm, Người đẹp, kinh tế gia đình, Thuốc
và sức khỏe, Sức khỏe và đời sống, Bếp gia đình, Phụ nữ, Sinh viên, Toán
học, Tạp chí Cộng Sản, Văn hóa thông tin, Em là bông hồng nhỏ, Tuổi học
trò, Thế giới mới, Trí thức trẻ, Khoa học đời sống, Nhi đồng, Thanh
niên…Thư viện có một số tên báo như báo Nhân dân, Kinh tế đô thị, Hà Nội
mới, Khoa học đời sống, Lao động, Nông nghiệp, Văn hóa, Tài chính, An
ninh, Văn nghệ…
Còn vốn tài liệu của thư viện thôn Yên Xá rất ít ỏi chỉ 397 cuốn sách và
8 tên báo và tạp chí như Hạnh phúc gia đình, Truyền hình, Gia đình và xã
hội, Tri thức trẻ, Kiến thức gia đình, Thời trang trẻ, Lao động, Văn hóa nghệ
thuật,…
Cơ sở vật chất
Trụ sở của các thư viện thôn, làng nhìn chung còn rất chật chội và
được đặt ở nhiều nơi khác nhau:
Phần lớn trụ sở thư viện xuất phát từ nơi đặt tủ sách của thôn. Hơn

nữa, địa điểm của các thư viện trong các thôn làng là những nơi tập trung
đông người (những nơi đã được dùng để họp tổ hợp tác xã thời trước), hoặc
đặt tại UBND xã, trong Câu lạc bộ Người cao tuổi, hay được đặt tại đình
làng là nơi dân làng thường tập trung để sinh hoạt văn hóa. Đình làng
thường là nơi rộng rãi, thoáng mát, là trungtaam của làng, rất thuận lợi cho
việc đi lại mượn sách báo. Nếu trụ sở thư viện đặt ở đình làng thì quả là một
lợi thế, một kinh nghiệm cần được nhân rộng, các thư viện tại các địa
phương khác cần học tập phát huy, góp phần nâng cao hoạt động văn hóa tại
các vùng cơ sở. Hiện nay nhiều thư viện đã chuyển trụ sở đến nhà văn hóa

Nguyễn Thị Thu

22

K51-Thông tin –Thƣ viện


Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

của thôn. Đây cũng là một địa điểm khá thuận tiện cho nhân dân, giúp nhân
dân có thể đến tham gia hoạt động thư viện được thuận tiện hơn.
Diện tích trung bình của các thư viện thôn làng chỉ khoảng từ 20-30
m² và có khoảng 15-25 chỗ ngồi. Về ánh sáng, bên cạnh những thư viện tổ
chức phòng đọc thoáng mát, đủ ánh sáng còn có những nơi đèn thắp sáng để
phục vụ bạn đọc tại chỗ thường chỉ là một, hai bóng túyp hoặc một bóng đèn
vàng, vài ba chiếc quạt trần,...Với diện tích hạn hẹp và trang thiết bị như
vậy, các thư viện gặp nhiều khó khăn khi phục vụ bạn đoc, nhất là trong
những ngày hè oi bức...

Thư viện thôn Bình Vọng Ban đầu được đặt tại 3 gian đình của thôn,
sau đó Thư viện được chuyển đến nhà văn hóa thôn với 2 phòng có diện tích
57 m². Về trang thiết bị, thư viện hiện có 5 kệ sách, 1 máy tính (do Hội
Khuyến học tặng), các bàn ghế phục vụ người đọc.
Năm 2009 thư viện thôn Giang Cao thay đổi trụ sở từ một gian miếu
của thôn sang 1 phòng 30 m² tại nhà văn hóa thôn. Hiện nay thư viện có 4 tủ
sách, 1 giá sách, 30 chỗ ngồi dành cho bạn đọc.
Còn thư viện thôn Yên Xá hiện vẫn đặt tại ngôi đình của thôn, với phòng
đọc rất rộng rãi, thoáng mát 70 m² và trên 100 chỗ ngồi phục vụ bạn đọc.
Hình thành và hoạt động tại cộng đồng dân cư, hoạt động của thư viện thôn
làng lấy trọng tâm là đẩy mạnh phong trào đọc sách báo ở cơ sở theo hướng
xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa và xây dựng nếp sống văn minh.
1.3. Vai trò của thƣ viện thôn làng trong việc thỏa mãn nhu cầu tin của
ngƣời dùng tin và đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng.
Bên cạnh việc tìm hiểu thông tin qua các thư viện trường học, thư
viện huyện, các điểm bưu điện văn hóa, hay các phương tiện truyền thông
khác như đài, ti vi hay thông qua mượn sách của bạn bè…, nhân dân nông
thôn còn tìm thông tin họ cần ở thư viện ở địa phương. Có thể thấy rằng thư
Nguyễn Thị Thu

23

K51-Thông tin –Thƣ viện


Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

viện thôn, làng đóng vai trò rất quan trọng trong việc thỏa mãn nhu cầu

thông tin của người dân trên địa bàn cũng như sự phát triển kinh tế, xã hội,
nếp sống văn hóa tại địa phương.
1.3.1.

Thƣ viện thôn làng trong việc thỏa mãn nhu cầu tin của ngƣời

dùng tin
Do ảnh hưởng của đời sống kinh tế xã hội, nên độ biến động về nhóm
NDT của thư viện là rất lớn, do đó việc nắm vững nhu cầu, đặc điểm của
nhóm NDT và việc triển khai phục vụ có phân biệt cho từng nhóm đối tượng
sẽ từng bước nâng cao chất lượng hoạt động của các thư viện thôn, làng, đáp
ứng được nhu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới, nhất là trong công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn của nước ta hiện nay.
Trong nội dung này tác giả nghiên cứu những nhóm NDT, đặc điểm nhu cầu
tin của những nhóm NDT cũng như mức độ thỏa mãn nhu cầu tin đó của
một số thư viện thôn, làng.
Trong hoạt động thông tin thư viện, NDT là người sử dụng thông tin
(trực tiếp hoặc thông qua các sản phẩm, dịch vụ của thư viện) để tìm kiếm
thông tin phù hợp với nhu cầu của mình, mặt khác họ cũng chính là người
đánh giá chất lượng về các sản phẩm, dịch vụ được cung cấp, là người điều
chỉnh hoạt động thông tin thư viện thông qua các thông tin phản hồi về mức
độ thỏa mãn nhu cầu tin của mình.
Tuy nhiên, mỗi cơ quan thông tin thư viện có đối tượng NDT khác nhau
tùy thuộc vào loại hình, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thông tin thư viện
đó. Ở đây, tại những thư viện thôn làng, là những thư viện tại địa bàn cơ sở,
đối tượng phục vụ của thư viện thôn, làng là đông đảo mọi tầng lớp nhân
dân trong địa phương, từ các em thiếu nhi, tới các cán bộ, giáo viên, các bác
nông dân, cán bộ hưu trí,...

Nguyễn Thị Thu


24

K51-Thông tin –Thƣ viện


Khóa luận tốt nghiệp

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn

Nghiên cứu nhu cầu tin là cơ sở để tổ chức phục vụ NDT hiệu quả
hơn. Từ những điều đó, chúng tôi đã tiến hành điều tra, nghiên cứu nhu cầu
tin của NDT các thư viện thôn, làng ngoại thành Hà Nội bằng nhiều phương
pháp khác nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng phương pháp chủ yếu được sử dụng
là điều tra bằng phiếu. Để nghiên cứu nhu cầu tin của NDT, tác giả khóa
luận đã gửi 300 phiếu điều tra đến NDT tại các thư viện thôn, làng ngoại
thành Hà Nội và thu về 285 phiếu (đạt 95%). Số lượng các câu hỏi trong
phiếu điều tra gồm 15 câu (được trình bày cụ thể ở phần phụ lục). Ngoài
việc sử dụng phương pháp điều tra bằng phiếu, tác giả khóa luận còn tiến
hành quan sát trực tiếp người dùng tin đến sử dụng thư viện, phỏng vấn trực
tiếp cán bộ thư viện và một số đối tượng là người dùng tin của thư viện.
Việc điều tra được tiến hành trên 3/18 huyện. Qua điều tra cho thấy nhu cầu
tin ở 3 vùng có nhiều nét tương đồng.
Kết quả nghiên cứu nhu cầu tin của người dùng tin cho thấy nhu cầu
tin của người dùng tin tại các thư viện thôn, làng có những đặc điểm sau:
NDT của các thư viện thôn, làng không chỉ đông về số lượng mà còn
rất đa dạng và phong phú về thành phần. Có những thư viện thôn, làng mở
rộng đối tượng phục vụ không chỉ với người dân tại địa phương mình mà
còn phục vụ đối tượng NDT là người dùng tin địa phương khác. Đó là học
sinh và người cao tuổi từ địa phương khác đến, tuy nhiên số lượng còn hạn

chế.
Qua khảo sát và điều tra thực tế tại các thư viện thôn, làng, dựa vào nghề
nghiệp của NDT, đối tượng phục vụ chính của thư viện được chia thành 2
nhóm chính như sau:
Nhóm 1: Nhóm người dùng tin khoa học, công nghệ, nhóm này gồm
các thành phần sau:
Cán bộ quản lý lãnh đạo
Nguyễn Thị Thu

25

K51-Thông tin –Thƣ viện


×