Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tieu luan cao học, quan ly nhà nước về bao chi trong thoi ky hoi nhap

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.27 KB, 20 trang )

ĐỀ TÀI: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Báo chí nước ta đang có sự phát triển mạnh mẽ cả về nội dung và hình
thức, từng bước đổi mới để thích ứng với xu thế phát triển của công nghệ
thông tin và truyền thông hiện đại. Báo chí tác động từng ngày, từng giờ đến
đời sống xã hội. Vì vậy, mọi chế độ chính trị đều có chủ trương và biện pháp
quản lý báo chí theo hướng có lợi nhất cho mình. Ở nước ta, mục tiêu cao
nhất của báo chí cách mạng là phục vụ cho sự phát triển của đất nước và lợi
ích của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước, báo chí đã có những đóng góp quan trọng vào thành tựu chung của
công cuộc đổi mới đất nước. Bởi vậy, quản lý nhà nước về báo chí trong
từng thời kỳ phát triển của đất nước cũng phải có sự điều chỉnh, thay đổi cho
phù hợp với sự thay đổi hàng ngày của thực tế đời sống.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình báo chí thế giới.
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là
công nghệ thông tin, báo chí đã và đang phát triển nhanh chóng, toàn diện và
ngày càng phát huy sức mạnh như một vũ khí chính trị tư tưởng lợi hại. Xu
hướng hình thành các tập đoàn báo chí - truyền thông đa quốc gia, xuyên lục
địa, cùng với làn sóng toàn cầu hóa truyền thông đại chúng đang làm gia
tăng tính phức tạp của cuôc đấu tranh tư tưởng trên pham vi khu vực và toàn cầu.
Đối với các nước phương Tây, báo chí – truyền thông không chỉ là
công cụ đấu tranh chính trị tư tưởng, là diễn đàn chia sẻ thông tin, kiến thức,
kỹ năng và kinh nghiệm, mà còn là một ngành kinh doanh có khả năng đem
lại lợi nhuận khổng lồ. Ở đó, bản chất hoạt động báo chí không chỉ là hoạt


động chính trị - xã hội, hoạt động truyền thông đại chúng mà còn là hoạt
động kinh doanh siêu lợi nhuận.
Với sự phát triển của hệ thống internet toàn cầu và báo mạng điện tử,


các loại hình báo chí đang có sự cạnh tranh và hợp tác phát triển. Ngày nay,
với sự ra đời phát triển của mạng internet, các mạng xã hội, truyền thông xã
hội đã và đang tạo điều kiện cho blog phát triển như một làn sóng, cùng với
những dạng thức truyền thông mới trên mạng internet, đã hình thành cộng
đồng cư dân mạng, nhất là trong giới trẻ và xuất hiện những khái niệm mới
trong hoạt động báo chí, truyền thông. Những hiện tượng này đang đặt ra
những vấn đề thách thức báo chí truyền thông, cũng như công tác quản lý
nhà nước về báo chí của các quốc gia.
2.2. Báo chí nước ta.
Báo chí nước ta cũng còn những hạn chế đó là xu hướng thương mại
hóa báo chí, giật gân câu khách chạy theo thị hiếu tầm thường của một nhóm
nhỏ công chúng, thông tin sai sự thật ảnh hưởng đến lợi ích, danh dự của tổ
chức và công dân,... Do đó, báo chí cần đươc tăng cường tính chuyên
nghiệp; tăng cường sự lãnh đạo, quản lý để tiếp tục phát huy những thành
tưu, hạn chế những tồn tại, khuyết điểm. Tăng cường quản lý nhà nước về
báo chí là một giải pháp cơ bản, cấp thiết nhằm bảo đảm cho báo chí phát
triển đúng mục đích, phát triển cân đối, hài hòa và phát huy tốt nhất năng lực
và hiệu quả hoạt động của nó trong bối cảnh hội nhập tòan cầu.
- Nhà báo là khái niệm dùng để chỉ những người tiến hành các loại
hình lao động trong quá tình thu thập, xử lý và chuyển tải thông tin. Đó là
lao động tổ chức và quản lý, lao động biên tập, lao động tác giả và lao động
kỹ thuật - dịch vụ.
- Trong hệ thống chính trị của nước ta, nhà báo không chỉ là chủ thể
hoạt động báo chí bị quản lý với tư cách là khách thể, mà còn là thành tố


tham gia tích cực vào quá trình quản lý nhà nước về báo chí. Nhà báo không
chỉ có quyền hạn và nghĩa vụ thực hiện tự do báo chí và tự do ngôn luận trên
báo chí của công dân, mà còn tham gia giám sát xã hội bảo đảm cho quá
trình quản lý đạt được hiệu quả; góp phần tuyên truyền pháp luật, giáo dục ý

thức chấp hành pháp luật cho nhân dân cũng chính là góp phần tham gia
quản lý nhà nước về báo chí.
Theo quy định của Luật Báo chí năm 1999 (đã sửa đổi, bổ sung), cơ
quan quản lý nhà nước về báo chí gồm: cơ quan quản lý nhà nước về báo chí
ở trung ương (Bộ Thông tin và truyền thông); các bộ, cơ quan ngang bộ; cơ
quan quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương (UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương)
Quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn được Luật Báo chí quy định, Bộ Thông tin và truyền
thông thực hiện chức năng quản lý nhà nước về báo chí trên nhiều lĩnh vực.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến quản
lý nhà nước với báo chí trong thời kỳ hội nhập nhằm đưa ra những giải pháp
nhằm phát triển nền báo chí Việt Nam theo đúng chuẩn mực đạo đức. Báo
chí là tiếng nói của chính quyền, Đảng bộ và thực sự là diễn đàn của nhân
dân.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: Đề tài đánh giá những vai trò của
nhà nước trong quản lý báo chí, từ đó đưa ra những đề xuất để xây dựng và
thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển sự nghiệp báo chí.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Các cơ quan báo chí
Phạm vi nghiên cứu: Công tác quản lý nhà nước về báo chí từ năm
2012 đến nay.


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Đề tài nghiên cứu dựa trên lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về quản lý báo chí
trong thời kỳ hội nhập.

Phương pháp nghiên cứu:
- Phân tích, tổng hợp nội dung các văn bản quy phạm pháp luật về báo
chí, Quản lý nhà nước về báo chí ở các bộ, cơ quan ngang bộ; Quản lý nhà
nước về báo chí ở địa phương.
Trên cơ sở mục tiêu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu đã xác định như
trên, ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung nghiên cứu của đề tài bao
gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận quản lý Nhà nước về báo chí hiện nay
1.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về quản lý báo chí hiện nay
1.2. Một số khái niệm về quản lý và quản lý nhà nước
Chương II: Thực trạng báo chí ở Việt Nam hiện nay
2.1. Một số kết quả nổi bật về báo chí Việt Nam
2.2. Những hạn chế
Chương III: Những giải pháp trong quản lý để báo chí phát triển
3.1. Quan điểm, định hướng quản lý nhà nước về báo chí Việt Nam
3.2. Những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý nhà nước về báo chí
3.2. Một số giải pháp quản lý báo chí


CHƯƠNG I: LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ
1.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về quản lý báo chí hiện
nay
Báo chí nước ta đang có vai trò rất quan trọng trong đời sống chính trị
xã hội, đồng thời cũng ở vào giai đoạn nhạy cảm, vừa có những cơ hội lớn,
vừa đứng trước nhiều thách thức lớn, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới và đang tiếp tục hội nhập ngày càng sâu rộng với
thế giới. Sự nghiệp báo chí Việt nam thời gian qua phát triển nhanh chóng và
đa dạng. Xuất phát từ thực hiêṇ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” mà Đảng và nhân dân ta đã xác định, cần nâng cao
hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với hoạt động báo chí đáp ứng yêu cầu

nền báo chí cách mạng trong tình hình mới. Trong suốt tiến trình cách mạng,
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, báo chí cách
mạng Việt Nam luôn phấn đấu hoàn thành sứ mạng của mình. Đảng ta luôn
coi báo chí là phương tiện hữu hiệu để tiến hành giáo dục chính trị, lãnh đạo
công tác tư tưởng, vũ khí sắc bén trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải
phóng dân tộc, là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X đã nêu
rõ công tác tư tưởng, lý luận và báo chí là một bộ phận cấu thành đặc biệt
quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Ðảng. Trong bối cảnh đất nước ta
bước vào giai đoạn phát triển mới, với những nhiệm vụ cách mạng mới, báo
chí phải làm tốt nhiệm vụ chính trị của mình trên lĩnh vực tư tưởng, bảo vệ
đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, đóng góp
vào sự phát triển chung của toàn xã hội. Thực tiễn đó đòi hỏi báo chí cần giữ
vững và phát huy hơn nữa bản chất cách mạng, là công cụ công tác tư tưởng
của Đảng, là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Báo


chí phải hướng vào mục tiêu giữ vững ổn định chính trị, tiếp tục sự nghiệp
đổi mới, làm cho những nguyên lý cách mạng và khoa học của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời
sống tinh thần xã hội. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với báo chí cần được thực hiện thông qua hệ thống pháp luật về báo chí và
công tác quản lý nhà nước về báo chí. Đó cũng chính là đòi hỏi khách quan
của việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí để đáp ứng yêu cầu
phát huy bản chất cách mạng của báo chí nước ta trong tình hình mới.
1.2. Một số khái niệm về quản lý và quản lý Nhà nước
Quản lý: đặc trưng cho quá trình điều khiển và dẫn hướng tất cả các
bộ phận của một tổ chức, thường là tổ chức kinh tế, thông qua việc thành lập
và thay đổi các nguồn tài nguyên (nhân lực, tài chính, vật tư, trí thực và giá

trị vô hình).
Quản lý Nhà nước: Quản lý hành chính là sự tác động của cơ
quan hành chính nhà nước lên đối tượng là con người hoặc là các mối quan
hệ xã hội để đạt mục tiêu của chính phủ. Phương pháp quản lý và cách tiếp
cận cụ thể phụ thuộc vào từng thể chế chính trị tại các nước, cũng như mục
tiêu cần đạt được.
Tiếp cận dưới góc độ thực thi quyền lực nhà nước thì quản lý hành
chính nhà nước là thực thi quyền hành pháp của nhà nước. Dưới góc độ hoạt
động cụ thể thì quản lý hành chính là điều chỉnh hành vi con người, hành vi
xã hội và tổ chức thực thi pháp luật ban hành.
Ngoài ra quản lý hành chính ở trong chính phủ, quản lý hành chính
còn được xem xét trong mối quan hệ ngoài nhà nước, còn gọi là hành chính
tư.


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Một số kết quả nổi bật về báo chí Việt Nam
Hiện nay, nước ta có 838 cơ quan báo chí in, với 1.111 ấn phẩm, 67
đài phát thanh, truyền hình, 92 báo, tạp chí điện tử và 01 hãng thông tấn
quốc gia. Báo chí đã thông tin nhanh nhạy, toàn diện về mọi diễn biến của
đời sống chính trị, kinh tế - xã hội ở trong nước và quốc tế; là diễn đàn thực
sự tin cậy của nhân dân; góp phần tích cực tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; tích cực xây dựng lý tưởng xã hội vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”, góp phần ổn định chính trị tư tưởng, làm
phong phú đời sống tinh thần, huy động nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Báo chí của chúng ta phát triển
theo nguyên tắc “Báo chí, xuất bản nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật”. Trong thời
gian qua báo chí của chúng ta đã kiên trì tính đảng, kiên trì bảo vệ vị trí chủ

đạo về lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong ý
thức tư tưởng, bảo đảm tính định hướng chính xác, phục vụ nhân dân, phục
vụ chủ nghĩa xã hội, đặt hiệu quả xã hội lên vị trí hàng đầu, bám sát thực tế,
bám sát cuộc sống, bám sát quần chúng nhân dân. Để tác phẩm báo chí có
hơi thở của cuộc sống, báo chí đã thực hiện tốt một số công tác trọng tâm:
tiếp tục quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X “Về công tác tư tưởng, lý luận và
báo chí trước yêu cầu mới”, các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta
về tăng cường công tác quản lý báo chí được thể hiện qua các chỉ thị, như
Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 17-10-1997 của Bộ chính trị khóa VIII, Thông
báo số 162- TB/TW ngày 1-12-2004 của Bộ Chính trị khóa IX, Thông báo
số 41-TB/TW ngày 11-12-2006 của Bộ Chính trị khóa X. Có như thế báo chí


mới hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, góp phần quan trọng trong việc bảo
đảm tốt công tác tuyên truyền.
Trong giai đoạn hiện nay, cuộc cách mạng về công nghệ thông tin đã
tác động làm thay đổi cách thức thụ hưởng thông tin của người dân. Số
lượng độc giả của báo chí in có xu hướng ngày càng giảm, trong khi đó
lượng độc giả truy cập báo mạng ngày càng tăng. Trong lĩnh vực phát thanh,
truyền hình, số lượng độc giả vẫn giữ ở mức ổn định và có xu hướng tăng.
Nguồn nhân lực báo chí có mức tăng trung bình hằng năm khoảng 6,5%.
Nếu như năm 2009 chỉ có 31.000 người làm việc trong lĩnh vực báo chí, thì
đến nay số người làm việc trong lĩnh vực báo chí khoảng 35.000 người,
trong đó có gần 17.000 nhà báo đang công tác tại các cơ quan báo chí được
cấp thẻ hành nghề. Về trình độ chuyên môn, phần lớn số người làm việc
trong lĩnh vực báo chí đều có trình độ cao đẳng, đại học trở lên; số người
làm báo có trình độ dưới đại học đã giảm trung bình khoảng 1%/ năm. Năm
2009, tỷ lệ nhân lực có trình độ đại học là 85% và trên đại học là 4%. Đến
năm 2013, tỷ lệ nhân lực có trình độ đại học là khoảng 91% và trên đại học

là 4,9%.
2.2. Những hạn chế
Mặc dù đội ngũ những người làm báo có sự phát triển cả về số lượng
và chất lượng, nhưng trước những tác động bởi mặt trái của cơ chế thị
trường, một bộ phận những người làm báo còn non kém về nhận thức chính
trị đã bộc lộ những khuyết điểm, yếu kém, vi phạm đạo đức nghề nghiệp,
trong số đó không ít người vi phạm pháp luật, bị kỷ luật và bị thu hồi thẻ
hành nghề. Người đứng đầu một số cơ quan báo chí đã buông lỏng quản lý
nội dung thông tin và đội ngũ phóng viên, biên tập viên dưới quyền, coi
trọng yếu tố lợi nhuận, xem nhẹ các chức năng của báo chí, khai thác nhiều
đề tài về mặt trái của xã hội, với mức độ thông tin có thời điểm dày đặc. Một


số cơ quan báo chí chưa coi trọng biểu dương, nhân rộng những điển hình
tiên tiến, những nhân tố tích cực trong học tập, lao động và chiến đấu. Một
số ấn phẩm phụ thực hiện sai tôn chỉ, mục đích, làm cho nội dung báo chí xa
rời chức năng định hướng, chức năng giáo dục, chức năng thẩm mỹ, thiếu
tính chuyên nghiệp, tác động tiêu cực đến một bộ phận công chúng. Cùng
với những thông tin giật gân, câu khách, vi phạm thuần phong mỹ tục là xu
hướng xem nhẹ quy trình thẩm định nguồn tin, thông tin sai sự thật, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm cá nhân, làm ảnh hưởng xấu tới uy tín của tổ
chức. Những hạn chế trên là do cơ quan, tổ chức chưa làm tốt việc cung cấp
thông tin cho báo chí; công tác xử lý vi phạm trong hoạt động báo chí còn
thiếu kiên quyết, hình thức xử lý chưa nghiêm. Một số lãnh đạo cơ quan báo
chí chưa chấp hành nghiêm kỷ luật thông tin, có trường hợp tìm cách né
tránh việc thực hiện các quy định. Không ít cơ quan chủ quản chưa phát huy
hết vai trò, trách nhiệm, buông lỏng việc quản lý, nể nang, thiếu kiên quyết
trong xử lý vi phạm của cơ quan báo chí thuộc quyền.



CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP TRONG QUẢN LÝ
ĐỂ BÁO CHÍ PHÁT TRIỂN
3.1. Quan điểm, định hướng quản lý Nhà nước về báo chí Việt Nam
Báo chí là một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ công tác tư
tưởng, văn hóa của Ðảng; là ngọn cờ, là công cụ sắc bén, hiệu quả để xây
dựng, bồi đắp nền tảng tư tưởng chính trị của Ðảng; tuyên truyền chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, nghị quyết của Ðảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; động viên, cổ vũ nhân dân thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trước tình hình mới, công tác lãnh đạo, quản lý báo chí của Ðảng, Nhà nước
cần có nhiều đổi mới, cả về nội dung, phương châm, phương thức.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, được nhân dân ủng hộ, nuôi dưỡng, báo
chí cách mạng Việt Nam đã trưởng thành, không ngừng lớn mạnh và phát
triển. Với vai trò xung kích trên mặt trận tư tưởng, báo chí cả nước đã tích
cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thông tin sinh
động về công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phản ánh trung
thực tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; góp phần tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận, cổ vũ, động viên phong trào thi đua yêu nước, phát
hiện, biểu dương các nhân tố mới; tích cực đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực, lãng phí, chống các quan điểm sai trái, thù địch; góp phần
giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy công cuộc đổi mới, củng cố lòng tin của
nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Báo chí cách mạng còn
góp phần tích cực giúp nhân dân thế giới ngày càng hiểu rõ hơn đường lối,
chính sách đúng đắn và những thành tựu đổi mới to lớn của Việt Nam. Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta đánh giá cao vai trò của báo chí trong đời sống xã


hội cũng như những đóng góp quan trọng của báo chí trong công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mở cửa, hội nhập

quốc tế.
Đến nay, hệ thống các văn bản pháp luật, chính sách, chế độ đối với
báo chí ở nước ta đã tương đối hoàn chỉnh. Tuy nhiên, công tác quản lý báo
chí theo quy định của Luật báo chí và các văn bản hướng dẫn thi hành luật
vẫn còn nhiều bất cập. Hiện vẫn đang đặt ra yêu cầu cần có một tổ chức có
đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để thực hiện vai trò quản lý. Nhiều lĩnh
vực như phát thanh, truyền hình, mạng Internet, báo chí Việt Nam ở nước
ngoài, báo chí nước ngoài ở Việt Nam… vẫn chưa được quản lý tốt.
Sự quản lý của Nhà nước còn thể hiện trong công tác quy hoạch hệ
thống báo chí. Việc quy hoạch hợp lý hệ thống báo chí trong cả nước nhằm
tạo ra sự thống nhất, tính hợp lý để báo chí có thể phát huy tốt nhất hiệu quả
thông tin, tuyên truyền phục vụ nhân dân trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Cùng với việc động viên, phát huy những yếu tố tích cực trong hoạt
động báo chí, cần phải xử lý nghiêm những cơ quan báo chí, nhà báo vi
phạm những quy định trong hoạt động báo chí. Đối với những nhà báo phạm
luật, cần phải lên án mạnh mẽ và luật pháp cần phải nghiêm khắc trừng trị.
Chỉ có như thế mới từng bước làm cho hệ thống báo chí của chúng ta trở nên
trong sạch, lấy lại niềm tin của nhân dân. Mà muốn như vậy Nhà nước
không thể bỏ qua việc giám sát, kiểm tra, xử lý. Các cơ quan quản lý báo chí
thường xuyên kiểm tra giám sát các cơ quan báo chí thực hiện Luật báo chí,
làm tham mưu cho cấp uỷ Đảng chính quyền về những vấn đề mới nảy sinh
để có biện pháp xử lý kịp thời.
Việc giám sát, kiểm tra, xử lý đòi hỏi sự góp sức của nhiều cấp, nhiều
ngành, trong đó có vai trò quan trọng của các cơ quan luật pháp và của chính


các cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí cùng với các cơ quan làm
nhiệm vụ quản lý báo chí từ Trung ương đến địa phương.
3.2. Những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý nhà nước về báo
chí

Những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý nhà nước về báo chí giai
đoạn hiện nay, tình hình thế giới đang có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn
những bất ổn khó lường. Ở trong nước, nền kinh tế tiếp tục có nhiều khó
khăn, thách thức. Tình hình thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh tiếp tục ảnh hưởng tới
cuộc sống của người dân và sản xuất, kinh doanh. Các thế lực thù địch tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình” trên nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Những thuận lợi, khó
khăn của tình hình trong nước cùng xu thế toàn cầu hóa thông tin và sự bùng
nổ của truyền thông xã hội tác động trực tiếp đến hoạt động báo chí và công
tác quản lý báo chí. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước,
sự chỉ đạo trực tiếp của các cơ quan chủ quản, nỗ lực của các cơ quan báo
chí và đội ngũ nhà báo, báo chí nước ta đã thực hiện tốt vai trò, sứ mệnh của
mình, góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới đất nước. Bên cạnh
những ưu điểm, thành tích, hoạt động báo chí cũng còn nhiều hạn chế,
khuyết điểm, từ đó đặt ra những vấn đề trong công tác quản lý nhà nước về
báo chí, cụ thể là:
Thứ nhất, quản lý báo chí trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của
truyền thông xã hội đòi hỏi phải có phương pháp tiếp cận mới. Trên bình
diện quốc tế, cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã làm thay đổi cách thức
truyền tải và tiếp nhận thông tin trên toàn cầu. Toàn cầu hóa thông tin đang
đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề trong công tác chỉ đạo, quản lý thông tin.
Thông tin ở khắp mọi nơi trên thế giới được truyền tải liên tục, nhiều chiều
và dễ dàng tới công chúng thông qua internet, với những dạng thức truyền


thông mới, trong đó mạng xã hội đang chiếm ưu thế. Do vậy, quản lý báo chí
trong bối cảnh truyền thông xã hội phát triển đòi hỏi phải hoàn thiện cơ chế,
chính sách, pháp luật để tạo điều kiện cho các cơ quan báo chí nhà nước tiếp
tục giữ vai trò chủ đạo trong việc chi phối, định hướng dư luận xã hội; là
việc làm chủ thông tin thông qua gia tăng cung cấp thông tin chính thống

cho báo chí, là làm rõ cơ chế mở rộng tiếp cận thông tin và phát huy dân chủ
trong thông tin.
Thứ hai, đã có nhiều giải pháp được đưa ra để hạn chế tình trạng
thương mại hóa báo chí, nhưng cho đến nay xu hướng này vẫn chậm được
khắc phục. Trong điều kiện kinh tế thị trường, thương mại hóa báo chí vừa là
vấn đề thực tiễn đồng thời lại mang tính lý luận. Một mặt, báo chí phải bảo
đảm nhiệm vụ chính trị; mặt khác, phải cạnh tranh thông tin, lo tăng số
lượng phát hành để phát triển, duy trì sự ổn định của cơ quan báo chí. Thực
tiễn cho thấy, hoạt động báo chí vừa chịu sự tác động của hệ thống các quy
luật phát triển văn hóa - tư tưởng, vừa chịu tác động của hệ thống các quy
luật kinh tế. Nếu chỉ chú trọng tới lợi ích kinh tế sẽ dẫn tới thương mại hóa
hoạt động báo chí, làm báo chí xa rời nhiệm vụ chính trị. Do vậy, trong công
tác quản lý nhà nước về báo chí cần chú trọng hơn các quy định, biện pháp
ngăn ngừa tác hại từ mặt trái của kinh tế thị trường, làm ảnh hưởng đến định
hướng tư tưởng - văn hóa. Tuy nhiên, nếu chỉ đề cao vai trò báo chí ở
phương diện tư tưởng - văn hóa thì báo chí sẽ không phát huy hết khả năng
đóng góp của mình với xã hội.
Thứ ba, vấn đề thực hiện quy hoạch hệ thống báo chí toàn quốc. Hiện
nay, vẫn còn sự chênh lệch lớn về sự hưởng thụ thông tin báo chí giữa các
khu vực, địa bàn, vùng, miền. Mặc dù hầu hết các cơ quan, ban, ngành trong
hệ thống chính trị đều có cơ quan báo chí, nhưng chất lượng chưa tương
xứng, còn trùng chéo về tôn chỉ, mục đích, nội dung, đối tượng phục vụ.


Ngoài ra, chưa có nghiên cứu, phân loại, xác định tính chất, nhiệm vụ của
báo chí để có cơ chế, chính sách phù hợp.
Thứ tư, chức năng quản lý nhà nước về báo chí, kịp thời chấn chỉnh,
xử lý những thiếu sót, khuyết điểm, tạo điều kiện để báo chí phát triển.
Thứ năm, vấn đề phát huy sức mạnh của báo chí trong định hướng dư
luận xã hội, tập hợp, đoàn kết, cổ vũ các giai tầng trong xã hội tích cực tiến

hành thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Yêu cầu
khách quan đó đòi hỏi hoạt động báo chí phải nâng cao hơn nữa chất lượng
chính trị, chất lượng văn hóa, chất lượng giáo dục của báo chí, hướng báo
chí vào mục tiêu giữ vững ổn định chính trị, tiếp tục sự nghiệp đổi mới, từng
bước xây dựng con người mới, lối sống mới, làm cho những nguyên lý cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Giải pháp nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí trong tình hình mới
3.3. Một số giải pháp quản lý báo chí
Để báo chí cách mạng đáp ứng tốt yêu cầu sự nghiệp đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, cần phải không ngừng đổi mới,
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước đối với báo chí; đổi mới nội dung, tư duy, phong cách và phương
thức lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước đối với công tác báo chí.
Về đổi mới nội dung lãnh đạo. Đảng ta, trực tiếp là các cơ quan tham
mưu của Đảng về công tác báo chí, cần tích cực, chủ động, sắc bén, kịp thời
trong việc dự báo, định hướng chính trị, tư tưởng, nhất là trước những vấn
đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm trong đời sống xã hội; vừa tuyên truyền
sâu rộng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước đến với người dân, vừa quan tâm phản ánh tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.


Về phương châm. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý báo chí cần kịp
thời, nhưng phải đảm bảo tính khoa học, tính thuyết phục, có lý có tình,
tránh áp đặt, mệnh lệnh, phải đạt tới sự tuân thủ một cách tự giác, triệt để
của các cơ quan báo chí và những người làm báo.
Về phương thức. Bên cạnh nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định quan
trọng mà Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành,
Đảng cần tiếp tục xây dựng, bổ sung thêm các quy định, quy chế tạo cơ sở

chính trị cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo báo chí. Tiếp tục thể chế hóa đường
lối, quan điểm của Đảng bằng việc bổ sung, sửa đổi Luật Báo chí; xây dựng
Chiến lược thông tin quốc gia tầm nhìn đến năm 2020; xây dựng, hoàn thiện
các văn bản quy phạm pháp luật; xây dựng chế tài đủ mạnh để vừa tạo điều
kiện cho báo chí phát triển đúng hướng, vững chắc vừa xử lý kịp thời, dứt
điểm các sai phạm, nhất là các sai phạm lớn, lặp đi lặp lại, kéo dài.
Trên cơ sở rà soát chức năng, nhiệm vụ từng cơ quan chủ quản, cơ
quan báo chí khẩn trương lập đề án đổi mới, sắp xếp lại hệ thống các cơ
quan báo chí cả nước, của từng bộ, ngành, đoàn thể, địa phương, đơn vị theo
hướng hợp lý, tinh gọn, thiết thực, hiệu quả. Kiên quyết xử lý, thu gọn các
báo, tạp chí, kênh truyền hình nội dung không thiết thực, xa rời tôn chỉ, mục
đích hoặc để sai phạm kéo dài.
Coi trọng việc xây dựng tổ chức đảng trong cơ quan báo chí trong
sạch, vững mạnh; đề cao vai trò đảng viên của người làm báo, nhất là người
giữ cương vị chủ trì. Trên cơ sở đó, nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo,
định hướng hoạt động của tổ chức đảng đối với tờ báo bảo đảm theo đúng
tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của mình. Nâng cao chất lượng tư
tưởng, chính trị, văn hoá, khoa học của từng cơ quan báo chí, để báo chí
thực sự là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp và là diễn đàn tin cậy của nhân dân.


Không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý báo chí; đào tạo phóng viên, biên tập viên các cơ quan báo
chí. Mở rộng nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm quản lý, đào tạo báo chí với
các nước trong khu vực và trên thế giới.
Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí và
cơ quan chủ quản của báo chí; sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của các ban cán
sự đảng, đảng đoàn, lãnh đạo cơ quan chủ quản với cơ quan báo chí. Nâng
cao chất lượng nội dung, hình thức, khả năng chi phối thông tin của các báo,
đài chủ lực. Đầu tư thoả đáng cho hoạt động thông tin đối ngoại; tiếp tục mở

rộng sóng phát thanh, truyền hình ra các nước, khu vực bằng công nghệ
thông tin hiện đại; đưa sách, báo có nội dung tốt trong nước phục vụ đông
đảo đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế; đồng thời, tăng cường giới
thiệu, quảng bá hình ảnh về đất nước và con người Việt Nam đến nhiều nước
trên thế giới. Kiên quyết đấu tranh chống thông tin, quan điểm sai trái, thù
địch bằng một đội ngũ nhà báo và chuyên gia giàu tâm huyết, có kiến thức
và kinh nghiệm, sử dụng các hình thức và phương tiện phù hợp. Ngăn chặn
có hiệu quả hoạt động xâm nhập báo chí nước ta của các thế lực thù địch,
phản động từ bên ngoài. Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, điều kiện hoạt
động cho các cơ quan báo chí. Nghiên cứu, đổi mới công nghệ, máy móc,
thiết bị theo hướng hiện đại; ưu tiên phủ sóng phát thanh, truyền hình, phát
hành các ấn phẩm báo chí cho giới trẻ, đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo,
vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo.
Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí đáp
ứng yêu cầu nền báo chí cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, cần
thực hiện tốt các nhóm giải pháp dưới đây:
1- Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật,
chính sách. Thứ nhất, nâng cao chất lượng công tác tham mưu xây dựng chủ


trương, đường lối, chính sách của Đảng về báo chí, bảo đảm bảo nguyên tắc
báo chí phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, phù
hợp với xu thế phát triển chung của xã hội. Cần có cơ chế giám sát chặt chẽ
và có ý kiến kịp thời về các nội dung thể chế hóa chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng về báo chí trong các văn bản pháp luật của Nhà nước;
đồng thời tăng cường đôn đốc để công tác thể chế hóa này bảo đảm tiến độ
thời gian và chất lượng. Thứ hai, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật
về báo chí để điều chỉnh kịp thời những vướng mắc, phát sinh từ thực tiễn
phát triển của báo chí trong xu thế truyền thông đa phương tiện. Thứ ba, xây
dựng cơ chế, chính sách tăng cường vai trò, trách nhiệm của cơ quan chủ

quản đối với cơ quan báo chí thuộc quyền. Thứ tư, xây dựng cơ chế, chính
sách huy động nguồn lực xã hội tham gia phát triển hệ thống báo chí theo
quy định của pháp luật. Thứ năm, quy hoạch, sắp xếp hệ thống báo chí, tạo
cơ chế và nguồn lực để báo chí phát triển. Hoàn chỉnh cơ chế, chính sách đặt
hàng, hỗ trợ tài chính đối với báo chí làm nhiệm vụ chính trị, thông tin,
tuyên truyền thiết yếu; cơ chế, chính sách đối với báo chí có tính chất giải trí
thuần túy.
2- Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực. Thứ nhất, cùng với sự phát
triển của báo chí và đội ngũ những người làm báo, cần tăng cường công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về báo chí,
bảo đảm các yêu cầu về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ quản lý, tri thức
về khoa học công nghệ thông tin, kiến thức và tri thức pháp luật, trình độ
chính trị vững vàng. Cần quy định hệ thống tiêu chuẩn chức danh, tiêu chuẩn
nghiệp vụ phù hợp với thực tiễn, bảo đảm công tác chuyên môn của từng bộ
phận công việc. Bên cạnh đó, hoàn thiện chính sách đào tạo và đào tạo lại
đội ngũ cán bộ quản lý báo chí để theo kịp tốc độ phát triển chung của xã
hội. Thứ hai, các cơ quan chủ quản báo chí cần bố trí cán bộ bảo đảm các


tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ, có kiến thức pháp luật về báo chí để
quản lý tốt báo chí thuộc ngành mình. Thứ ba, xây dựng chương trình đào
tạo cán bộ giảng dạy môn học quản lý nhà nước về báo chí. Thứ tư, xây
dựng tiêu chuẩn các chức danh lãnh đạo chủ chốt của cơ quan báo chí. Tăng
cường công tác đào tạo, bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho
đội ngũ phóng viên, biên tập viên; hoàn chỉnh chương trình, giáo trình, kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ những người làm báo về phẩm chất chính
trị, đạo đức, kỹ năng nghề nghiệp.
3- Nhóm giải pháp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi
phạm trong hoạt động báo chí. Thứ nhất, tăng cường lực lượng thanh tra
chuyên ngành báo chí, nâng cao năng lực của cơ quan quản lý chuyên ngành

báo chí ở Trung ương và địa phương, đầu tư trang thiết bị kỹ thuật hiện đại
và điều kiện làm việc bảo đảm thực thi công tác quản lý nhà nước đạt hiệu
quả. Thứ hai, tăng cường công tác chỉ đạo, định hướng, cung cấp thông tin
cho báo chí, đồng thời tiếp thu ý kiến phản ánh của các tổ chức, cá nhân và
thông tin báo chí để chấn chỉnh, xử lý kịp thời các sai phạm. Thứ ba, rà soát,
xem xét rút giấy phép đối với cơ quan báo chí không đủ điều kiệt hoạt động,
thường xuyên vi phạm các quy định của pháp luật về báo chí. Thứ tư, xây
dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về báo chí, đầu tư nâng cấp hệ thống thông tin
hiện đại, đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước về báo chí trong giai
đoạn mới.
4- Nhóm giải pháp về tăng cường hợp tác quốc tế và ứng dụng khoa
học công nghệ trong công tác quản lý báo chí. Thứ nhất, mở rộng hợp tác
quốc tế, tạo điều kiện cho báo chí tiếp cận nhanh với những thay đổi của
công nghệ ứng dụng trong lĩnh vực truyền thông, báo chí, đồng thời, học tập
kinh nghiệm quản lý và phát triển báo chí trong xu thế truyền thông đa
phương tiện. Thứ hai, thực hiện tin học hóa công tác quản lý, xây dựng các


chương trình quản lý dữ liệu, xử lý thông tin điều hành, quản lý, thủ tục
hành chính. Thứ ba, bên cạnh việc hợp tác khai thác thông tin quốc tế có
chọn lọc, phù hợp với lợi ích của đất nước, của nhân dân, cần chủ động đưa
phóng viên đến nơi diễn ra các sự kiện quốc tế lớn, phức tạp để có thông tin
trực tiếp, khách quan, tránh phụ thuộc vào thông tin, quan điểm đánh giá của
truyền thông nước ngoài. Thứ tư, chủ động tạo điều kiện để phóng viên nước
ngoài đến Việt Nam đưa thông tin trung thực, khách quan, qua đó quảng bá
hình ảnh Việt Nam ra nước ngoài, góp phần bác bỏ sự xuyên tạc thông tin
của các thế lực thù địch về tình hình đất nước, con người Việt Nam.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tạp chí Người làm báo Tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối
với báo chí địa phương
2. Tạp chí Cộng sản. Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về báo chí
3. VTV-TC. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý báo chí
4. Cơ sở lý luận Báo chí, PGS.TS Nguyễn Văn Dững, NXb Lao động,
năm 2013.
5. Nguyễn Văn Dững (chủ biên) (2000) Báo chí - những điểm nhìn từ
thực tiễn, Nxb. Văn hóa - thông tin, Tập 1, Hà Nội.
6. Tạ Ngọc Tấn, (2001) Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
7. luatminhkhue.vn. Quản lý nhà nước về báo chí trong thời kỳ hội
nhập
8. tapchiqptd.vn. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về báo chí
trong tình hình hiện nay



×