Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Kiến trúc Quảng Ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.05 KB, 21 trang )


I. KIẾN TRÚC DÂN GIAN /TRUYỀN THỐNG
1. KIẾN TRÚC TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI VIỆT
1.1. KIẾN TRÚC CHÙA
Các ngôi chùa cổ ở Quảng Ngãi như chùa Diệu Giác, chùa Thiên Ấn đều có kiến trúc dạng
chữ khẩu (口). Kiểu kiến trúc này quy định ở cụm kiến trúc trung tâm gồm: nhà Phật đường
- nhà Tổ; nhà tăng, khách - nhà chay tịnh, đăng đối trong không gian chữ khẩu khép kín.
Một số ngôi chùa nhỏ có kết cấu dạng chữ công (工) gồm nhà Phật đường ở phía trước và
nhà tăng ở phía sau. Có chùa mang phong cách Trung Hoa như Chùa Ông. Ngoài ra, Quảng
Ngãi còn có kiểu chùa xây dựng trong hang đá, mà dân gian gọi là chùa Hang. Trên đất
Quảng Ngãi có một số chùa Hang, tiêu biểu có: chùa Hang có tên chữ là Thiên Khổng
thạch tự, chùa Hang có tên chữ là Đỉnh Liêm tự ở huyện Lý Sơn; chùa Hang mà dân gian
thường gọi là chùa Ông Rau ở huyện Mộ Đức ; chùa Hang tên chữ Thạch Sơn tự ở huyện
Tư Nghĩa. Đây là những thiết chế kiến trúc tôn giáo thờ Phật trong lòng hang tự nhiên, nếu
lòng hang quá nhỏ, người ta xây dựng thêm phần kiến trúc ở bên ngoài. Trong lòng hang
đặt bàn thờ và ngẫu tượng Phật giáo, có không gian rộng để hành lễ.
Cảnh quan các ngôi chùa có khác nhau. Những ngôi chùa cổ thường được xây dựng trên núi
hoặc gần sông. Các ngôi chùa xây dựng muộn về sau, hầu hết được xây dựng trong khu dân
cư, gắn liền với cộng đồng. Bao quanh chùa là cây xanh tỏa mát, có nhiều cây cổ thụ.
Trước mặt chùa luôn có minh đường thoáng đãng, đẹp, thơ mộng, có khi là dòng sông, khi
là cánh đồng.
Chùa Ông Thu Xà có kết cấu hình chữ tam (三) gồm nhà tiền đường, chánh điện, hậu cung.
Trong đó nhà tiền đường là nơi chuẩn bị hành lễ, nhà chánh điện là nơi thờ Quan Thánh,
cùng Quan Bình, Chu Thương (Xương), các tiền hiền, hậu hiền Minh hương; nhà hậu cung
là nơi thờ Phật. Chùa Ông còn bảo lưu các bộ vì kèo cổ như bộ vì kèo chồng rường vỏ cua,
bộ vì kèo đâm trính với môtíp con đội, đầu choãi cánh dơi, bộ vì kèo cột trốn trính chuyền
theo lối kiến trúc truyền thống Việt Nam và bộ vì kèo chồng rường trái bí mang phong cách
Hoa Bắc, Trung Hoa. Các liên ba đố bảng chạm khắc tinh vi với các kỹ thuật chạm thủng,
chạm nổi. Đặc biệt bộ vì kèo chồng rường vỏ cua có kỹ thuật chạm nổi tài hoa tinh xảo,
khó tìm thấy ở nơi nào khác.
1.2. KIẾN TRÚC ĐỀN MIẾU


Làng xóm nông nghiệp có các điểm thờ âm hồn, nhân thần, thiên thần, nhiên thần. Các loại
hình kiến trúc tín ngưỡng này gồm có: nghĩa trũng, nghĩa tự, miếu, dinh... Vạn chài đánh cá
trên sông, biển có lăng thờ ngư thần Cá Ông và dinh miếu thờ Thiên Y, Thủy Long, Tứ vị
Thánh nương. Ngoài ra, Quảng Ngãi còn có các đền miếu quan trọng khác như: các miếu
Hội đồng, đền thờ Bùi Tá Hán, đền thờ Quang Chiếu Vương (nay chỉ còn dấu vết). Các
đền, dinh, miếu... ở Quảng Ngãi có niên đại xây dựng từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XX. Bố cục
cảnh quan các đền, miếu thường tuân theo thế phong thủy, như phải có minh đường, tả
thanh long, hữu bạch hổ.... nhưng có khi khá đơn giản, thường theo bố cục chữ đinh (丁),
chữ nhị (二),... gồm nhà tiền tế và hậu tẩm, hoặc kiến trúc chữ công (工), chữ tam (三).
Tiêu biểu cho lối kiến trúc đền thờ, dinh miếu ở Quảng Ngãi có dinh Thiên Y A Na ở thôn
Đông, xã An Hải, huyện Lý Sơn.
Dinh Thiên Y A Na nằm trên đồi cao cách biệt với khu dân cư sinh sống. Để xây dựng dinh
thờ này, người ta bạt bằng đất chân đồi, sau đó dùng đá xếp gia cố để sân trước không bị
sụt lở. Dinh nằm theo trục Bắc - Nam, kiến trúc hình chữ tam ( 三) chia làm 3 tòa: tiền
đường, chánh điện, hậu cung. Hậu cung là nơi thờ Thiên Y A Na, được xây bằng chất liệu
vôi vữa tam hợp, hiện còn tương đối nguyên vẹn. Bên trong hậu cung thờ Thiên Y A Na
còn lưu giữ 3 pho tượng, gồm: tượng nữ thần Thiên Y A Na và tượng nhị vị thái tử bằng gỗ
mít, rất đẹp và quý hiếm. Tương truyền, sau một thời gian tìm kiếm gỗ mít khắp nơi để tạc
tượng Bà và nhị vị thái tử nhưng không tìm thấy, một người đã được Bà báo mộng, cho biết
phải vào Bình Hải mới có. Người dân Lý Sơn đã vào Bình Hải và quả nhiên thấy có loại gỗ
mít tốt. Họ bèn đem về Lý Sơn. Theo các cụ già kể lại, ba pho tượng này đã được các nghệ
nhân tạc tượng ở làng Kim Bồng (Quảng Nam) tạo nên. Tượng Bà cao khoảng 0,5m, ngồi
trên ngai thờ, đầu đội khăn xanh. Toàn bộ pho tượng toát lên vẻ phúc hậu. Bàn thờ Bà và
nhị vị thái tử có linh vị chữ Hán: "Sắc Hoằng huệ Phổ tế Linh cảm Diệu thông Mặc tướng
Trang uy Dực bảo Trung hưng Thiên Y A Na diễn ngọc phi Thượng đẳng thần, Tả linh
Châu Thái tử thần tướng, Hữu linh Bảo Thái tử thần tướng".
Phần mái hậu cung, cắt cổ diềm có 8 mái, đầu mái trang trí đầu đao, diềm mái lợp ngói ống.
Cổ diềm có trang trí 4 mặt bằng các hình ảnh đôi sóc vui đùa dưới gốc đào và hoa, chữ thọ
đắp nổi và đôi chim sẻ trên cành trúc và cành đào, sơn thủy và cành mai, quả đào tiên. Trước
dinh có bình phong, trụ biểu, trên 2 trụ biểu có 2 con kỳ lân. Bình phong được đắp nổi 2 mặt:

mặt ngoài là hổ, mặt bên trong là long mã. Trước dinh còn có một con nghê đá, tương truyền
được người dân tìm thấy ngoài biển và mang về thờ. Đề tài trang trí trên có ý nghĩa cầu mong
phước, lộc, thọ trường tồn. Các mô típ trang trí mang phong cách thời Nguyễn.
1.3. KIẾN TRÚC NHÀ THỜ (TỘC HỌ)
Các họ tộc lớn ở Quảng Ngãi thường có nhà thờ riêng với kiểu kiến trúc khá quy mô. Các ngôi
nhà thờ này cũng được xây dựng theo phong thủy, trước có bình phong, tả hữu có trụ biểu lân
chầu. Các nhà thờ này thường có kiến trúc chữ "đinh", gồm nhà tiền tế, và hậu cung thờ Thành
hoàng. Tiêu biểu là nhà thờ tộc Trần ở làng Văn Bân, xã Đức Chánh (huyện Mộ Đức).
Nhà thờ tộc Trần ở Văn Bân nằm trên thế đất cao, mặt chính diện quay về hướng đông,
phía trước là đồng ruộng, phía sau là làng xóm, quang cảnh thoáng đãng. Nhà thờ tộc Trần
ở làng Văn Bân thờ tiền hiền Trần Văn Đức, Trần Văn Huy, là những người có công khai
phá vùng đất làng Văn Bân dưới thời các Chúa Nguyễn. Kiến trúc nhà thờ theo kiểu hình
chữ "khẩu", tổng cộng có 16 cột kết cấu bộ khung, gồm hai bộ vì kèo chia làm một gian hai
chái. Đến thời Khải Định năm thứ hai (1917), làm thêm tiền đường phía trước cùng bờ
thành xây đá ong tả hữu ở hai bên cổng vào. Nhờ cấu trúc mặt bằng chữ "khẩu" của chánh
điện nhà thờ tộc Trần đã khiến cho 16 cột được phân bố đều chia theo hai cạnh với hệ số là 4.
Tuy nhiên, trong cấu trúc này, người ta chọn lựa 4 cột chính ở vị trí trung tâm bình đồ kiến
trúc, có đường kính thân cột và kích thước chiều cao vượt trội hơn hẳn so với các cột vách,
nhằm mục đích nâng cỗ mái lên cao và cắt cổ diềm. Vì vậy trong kết cấu bộ khung nhà, 4 cột
này đóng vai trò chủ đạo trong việc liên kết nhau qua hệ thống trính ngang của cùng hai bộ
vì kèo đối diện nâng đỉnh mái lên cao. Sự chênh lệch kích thước chiều cao giữa 4 cột chính
ở trung tâm với 12 cột biên dọc theo bờ vách theo tỷ lệ 3: 1 đã khiến cho mái của nhà chính
diện có chiều thẳng dốc, tạo thêm sự bề thế vững chãi cho nhà thờ. Các chi tiết kết cấu bộ
khung mái như kèo, trính, các trụ đội... được làm từ loại gỗ tốt, bề mặt gỗ trau chuốt công
phu, tạo thành nếp gấp có gờ mỏng, rắn chắc nhưng thanh thoát, nhẹ nhàng. Vách lụa trên
đỉnh tạo dựng liên ba đố bảng trang trí ô hộc. Hoành phi Trần thủy tổ đồng đường đặt ở vị
trí trung tâm và hoành phi "Trần Từ Đường" được tạo tác theo kiểu thư quyển. Vách ngôi
nhà thờ xây dựng bằng chất liệu tam hợp, dày 0,5m.
1.4. KIẾN TRÚC ĐÌNH LÀNG
Đình làng vốn là sản phẩm văn hóa của người Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, và sau đó

theo chân những người nông dân "Nam tiến" ở những thế kỷ trước. Đình tuy được xây
dựng trên vùng đất mới nhưng vẫn bảo lưu kiểu kiến trúc đình Việt ở vùng Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ, nhưng mang tính thực dụng hơn. Kiến trúc đình làng ở Quảng Ngãi được thu
nhỏ về quy mô và giản lược các chi tiết trang trí, nhưng vẫn phát huy vai trò là tâm điểm cố
kết cộng đồng về mặt xã hội và ý thức tâm linh. Trong đình làng của người Việt ở miền
Trung nói chung và Quảng Ngãi nói riêng, các thần linh được thờ trong đình khá đa dạng:
nhiều vị thần Việt và các vị thần bản địa. Lối thờ phụng này nhằm phục vụ nhu cầu tâm
linh cho con người khi đối diện với nhiều lực lượng siêu nhiên khác nhau trên vùng đất
mới.
Hầu hết các ngôi đình ở Quảng Ngãi đều bị phá hủy trong thời gian chiến tranh, chỉ còn
một số ít là: đình làng An Định, đình Lâm Sơn (huyện Nghĩa Hành), đình An Hải (huyện
Lý Sơn), đình Sung Tích (huyện Sơn Tịnh), đình Phước Long (Nghĩa Hòa, huyện Tư
Nghĩa)… và một số vết tích cổng đình ở Bình Đông, Truyền Tung (huyện Bình Sơn), An
Vĩnh (huyện Sơn Tịnh)...
Cảnh quan đình làng thường gắn với cảnh sơn thủy, cây đa bến nước. Mặt tiền đình làng
thường quay về hướng đông hay đông nam hoặc nam. Đình cũng được xây dựng theo thuật
phong thủy, khi xây dựng phải chọn kỹ ngày giờ..., bởi theo quan niệm, điều này liên quan
đến sự hưng thịnh hay suy vong của làng.
Kiến trúc đình làng thường là chữ tam (三 ), chữ đinh (丁). Đình có kiến trúc theo lối chữ
"tam" có đình thượng, đình trung và đình hạ; kiến trúc theo lối chữ "đinh" có tiền đường,
hậu tẩm. Kiểu thức trang trí nội thất của đình làng không vượt ra khỏi quan niệm về sự
quân bình âm dương nhằm mong ước một cuộc sống an bình, vĩnh hằng, không bị xáo trộn
và luôn có nhiều may mắn phước lộc.
Đình làng An Hải là một trong những đình làng Việt tiêu biểu của Quảng Ngãi còn giữ lại
đến ngày nay. Đình làng được xây dựng vào năm Minh Mạng nguyên niên 1820. Hướng
đình quay về phía đông, mặt bằng kiến trúc xây dựng theo hình chữ "tam" ( 三), gồm tiền
đường, chánh điện và hậu cung, mà dân gian quen gọi là đình hạ, đình trung và đình
thượng, được bố trí trên trục đông - tây.
Đình hạ (tiền đường) có kiến trúc gồm 18 cột, chia làm 3 gian 2 chái. Cấu kết bộ khung gỗ
của nhà tiền đường gồm 4 vì kèo liên kết các cột để đỡ hệ thống đòn tay mái và thượng

lương. Các trính, hoành liên kết nhau qua đầu cột bằng phương pháp xuyên, chốt mộng
nhằm giữ sự cố định và chắc chắn của lòng nhà. Con đội được trang trí đế cánh sen đầu
choãi cánh dơi. Theo quan niệm tín ngưỡng dân gian, cánh dơi giúp cho đầu con đội không
đụng vào mặt dưới của thượng lương để tránh sự xui rủi. Cánh dơi và đế trụ chồng được
chạm những đường cong uốn lượn, đối xứng, cân phân, thanh thoát. Bề mặt của đầu kèo và
đuôi kèo được trang trí bằng các đường gờ chồng xếp và các mô típ hoa dây, tạo nên vẻ đẹp
riêng và sự nhẹ nhàng của tổng thể công trình.
Đình trung liên kết với đình hạ bằng kèo cầu có một máng xối dài. Đình trung có 16 cột
làm thành 4 hàng: 2 hàng cột lớn (chính) ở giữa để đỡ bộ vì kèo của khung nhà, hai hàng
cột phụ ở hai bên mái có chức năng là cột hiên. Kết cấu kiến trúc của đình trung chia thành
một gian, hai chái. Khung gỗ gồm ba bộ vì kèo với kiểu đâm trính.
Đình thượng (tức hậu cung) liên kết với đình trung bằng một máng xối. Đình thượng xây
dựng hoàn toàn bằng hợp chất vôi vữa trộn cát mật. Phần vách của đình thượng được trổ 2
cửa hông nhỏ để ra vào. Đình thượng kiến trúc theo mô típ cắt mái chồng cổ diêm. Mái trên
và mái dưới được lợp ngói âm dương. Đình được chia làm 4 mặt, mỗi mặt được trang trí
đắp nổi theo nhiều đề tài khác nhau như mai điểu, ngư điểu, sơn thủy... Nóc mái trang trí
lưỡng long tranh châu.
Phía trước có các hàng cột hiên bằng gạch, có hai cột đăng đối nhau, phần đế là đôi nghê
quay đầu vào nhau. Thân nghê ghép sành sứ, bờm tóc, mắt, mũi và răng đều lộ, tai vểnh,
bờm tóc dựng đứng, dáng vẻ dữ tợn.
1.5. KIẾN TRÚC VĂN MIẾU
Văn miếu là nơi truyền bá Nho học, thờ Khổng Tử, vài nơi có đặt văn bia. Văn miếu ở làng
Phú Nhơn (nay thuộc thị trấn Sơn Tịnh, huyện Sơn Tịnh) có thế phong thủy đẹp, tiền diện
nhìn ra sông Trà Khúc, lưng tựa vào dãy Long Đầu. Tương truyền nơi đây rất thiêng nên
đời Nguyễn cho lập văn miếu. Bên trong có thờ pho tượng Khổng Tử. Đây là văn miếu
hàng tỉnh của tỉnh Quảng Ngãi. Văn miếu hàng huyện tiêu biểu có văn miếu huyện Mộ Đức
xây dựng ở Văn Bân. Văn miếu ở làng Văn Bân (nay thuộc xã Đức Chánh, huyện Mộ Đức)
có quy mô lớn, là nơi lưu lại nhiều văn bia thời Nguyễn. Văn miếu ở Văn Bân nằm giữa
cánh đồng, mặt chính của kiến trúc quay về hướng nam, tất cả công trình kiến trúc bố trí
theo trục bắc - nam. Văn miếu xây dựng trên gò đất cao giữa cánh đồng trũng thấp, với thế

này được xem là đất ngưu miên địa (đất trâu nằm ngủ) bền vững đời đời. Theo bia Mộ Đức
văn từ thì văn miếu Văn Bân xây dựng dưới thời Tự Đức năm thứ 16 (1863), do các quan
viên trong huyện cùng góp tiền đồng tạo dựng để thờ Khổng Tử và phổ hóa đạo Nho trong
huyện. Kiến trúc văn miếu này bao gồm một nhà Khổng miếu (thờ Khổng Tử và đặt các
văn bia); một nhà tiền tế (nơi chuẩn bị áo mão trước khi nhập tế); một miếu thờ Khải phụ
(thân phụ của Khổng Tử). Lối vào đền gồm ba cửa: chính môn xây dựng bằng đá ong to lớn
bề thế, là cửa tam quan trên có cổ lâu, mái đắp ngói âm dương. Hai cửa tây và đông nằm ở
hai bên tả hữu của bờ thành bao, mỗi cửa chỉ có một lối vào, trên mái lợp ngói âm dương.
Bờ thành bao bọc văn miếu xây dựng bằng đá ong. Bên trong văn miếu có một giếng xây
đá ong nằm cạnh cửa Bắc.
2. KIẾN TRÚC NHÀ Ở DÂN GIAN CỦA NGƯỜI VIỆT
2.1. NHÀ TRANH TRE
Nhà tranh tre có 3 gian 2 chái, mặt bằng ngôi nhà chia làm 3 phần: nhà chính, nhà ngang và
nhà bếp, được đặt liền kề nhau theo kiểu chữ L. Giữa nhà chính và nhà ngang không có sự
liên kết, song giữa nhà ngang và nhà bếp được làm chung một vách và một cửa thông nhau
để cho các thành viên trong gia đình có thể đi lại nấu nướng, ăn uống dễ dàng. Chuồng trại
nuôi heo, gà được bố trí liên hoàn với nhà bếp. Thường bên phải nhà chính là chuồng nuôi
trâu bò. Kiến trúc nhà tranh tre từ vật liệu tranh tre dễ tìm. Mái nhà thường lợp tranh già và
dày. Tranh lợp mái theo lối trải, đầu tranh cột lạt vào rui mè. Hệ thống đòn tay đỡ mái liên
kết với kèo cột qua các chốt sẻ. Vách nhà bằng đất, cốt bên trong là tre làm mầm, cột nhà
bằng tre ngâm.
Chức năng của nhà chính là thờ phụng, tiếp khách, đàn ông ngủ; nhà ngang chia làm hai
phần, gồm nơi ăn uống và bảo quản chế biến lương thực; bếp dùng để nấu nướng. Bên
trong nhà chính có 8 hàng cột, chia mặt bằng sinh hoạt của nhà chính thành 3 gian: gian
giữa là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, phía trước đặt tấm phản gỗ và bộ ghế gỗ để tiếp khách đàn
ông của ông chủ gia đình (nếu khách ở lại thì có thể ngủ trên phản đặt trước bàn thờ). Đây
là không gian linh thiêng và trang trọng nhất của ngôi nhà. Nhà chính có một cửa chính để
ra vào. Gian phía tây có một góc buồng vách bằng phên liếp tre đan, gọi là buồng tây, dùng
để đặt đồ đạc và là chỗ ngủ của ông chủ gia đình. Phía ngoài được đặt thêm phản ngủ để
dành cho con trai trong nhà. Trong gian này có một cửa phụ và một cửa chính ra vào. Gian

phía đông được dành cho đàn bà con gái trong nhà. Tại gian này, góc phía đông ngăn phên
liếp tre thành buồng riêng, gọi là buồng đông, dành cho bà chủ trong gia đình (hoặc cho vợ
chồng con trai trưởng, nếu gia đình đó phân chia thêm một tiểu gia đình). Trong gian này có
phản gỗ dùng cho con gái trong nhà sinh hoạt, ngủ và bà chủ gia đình tiếp khách nữ trên
tấm phản gỗ được đặt trong gian giữa của ngôi nhà (lệch với bàn thờ). Trong gian này có
một cửa chính ra vào.
Kiến trúc nhà tranh tre có đến 32 cột, trong đó có 16 cột chính. Cột nhà được làm từ loại tre
đặc ruột, ngâm chín, rất bền chắc. Trong không gian ngôi nhà số lượng cột chia thành 8
hàng ngang để đỡ 8 vì kèo tre. Vì kèo thường là kiểu vì kèo gác trính chuyền. Vì kèo liên
kết với cột bằng hệ thống chéo dọc, gác qua hệ thống trỏng nóc (trụ chồng) để đỡ thượng
lương. Các trỏng nóc đặt trên điểm giữa của trính cặp thượng, lực đè sẽ được phân đều qua
hai trụ cột chính. Trính cặp hạ là hai thanh tre dài, liên kết với đoạn cuối của hai tay kèo,
gác qua hai cột nhì tiền và hậu (cột vách), liên kết với hai cột chính ở giữa lòng nhà bằng hệ
thống chốt sẻ. Trính cặp hạ có nhiệm vụ nâng hai cột trấn đỡ hai kèo mái. Tất cả lực đè của
mái được trính cặp hạ phân đều qua 4 cột. Ở hàng cột nhì tiền và hậu kết cấu kèo phụ gồm
hai đoạn tre liên kết kèo cột theo thế tung hoành để đỡ mái, chống gió xoáy giật. Để tăng
cường sự bền vững của ngôi nhà, người ta đào sâu lỗ cột vách và cột hiên, lấy tre nẹp chặt đ
làm cừ chống gió bão gây đổ nhà. Phần mái lợp tranh già, các tấm tranh lợp theo lối lợp lớp
hoặc kéo trài, đầu tấm tranh buộc lạt chắc chắn vào rui mè và hệ thống đòn tay. Trên nóc
nhà có hai lớp tranh được xếp dày gọi là sắp nóc để chống dột và che mưa nắng. Để tăng
cường sự bền vững cho ngôi nhà, người ta dùng tranh già, tre ngâm để xây dựng. Nhìn
chung, loại hình nhà tranh vách đất tuy đơn giản, song kết cấu kiến trúc khá công phu. Sự
liên kết giữa các bộ phận luôn luôn phù hợp, cân xứng và giữ đúng chức năng, đem lại sự
bền vững cho ngôi nhà.
2.2. NHÀ RƯỜNG
Nhà rường là loại hình nhà ở kiên cố bền vững, kết cấu bộ khung nhà gồm cột, trính, xuyên,
rui mè bằng gỗ tốt chịu lực. Quảng Ngãi có rất nhiều nhà rường, được phân bố ở hầu hết
các huyện trong tỉnh. Niên đại xây dựng những ngôi nhà rường thường có từ 100 năm đến
trên 150 năm. Các ngôi nhà rường cổ ở Quảng Ngãi hầu hết là của những dòng họ, gia đình
giàu có, có địa vị nhất định trong xã hội. Nhìn chung mặt bằng kiến trúc nhà chính và nhà

phụ của nhà rường đều ở dạng chữ nhất (一) hay chữ đinh (丁), một nửa phần trên giống
chữ L. Các ngôi nhà rường đều được xây dựng theo thuật phong thủy như hướng nhà, giờ
động thổ; nếu hướng nhà ít được thuận lợi thì người ta làm thêm bức bình phong. Mỗi ngôi
nhà rường có hệ thống các công trình phụ, như giếng nước, bếp, chuồng trại...
Nhà rường có hai dạng, gồm dạng nhà rường điển hình và dạng nhà song nga. Hai dạng này
khác nhau ở lối kết cấu và lối bố trí không gian sinh hoạt bên trong ngôi nhà. Phần vỏ mái
có khi lợp tranh hoặc lợp ngói âm dương; tường thường được xây bằng gạch hoặc đá ong.
Nhà rường thường có 5 gian gồm 3 gian chính, và 2 gian phụ (chái), cá biệt cũng có nhà
đến 7 gian (5 gian chính và hai gian phụ). Thông thường số hàng cột của nhà rường dao
động từ 4 đến 7 hàng cột. Giữa lòng nhà có hàng cột cái (cột chính) cao to, với các tên gọi
khác nhau: Hai cột trong phía đông gọi là nhứt đông hậu, hai cột trong phía tây gọi là nhứt
tây hậu, hai cột ngoài phía đông gọi là nhứt đông tiền, hai cột ngoài phía tây gọi là nhứt tây
tiền. Các cột cái này liên kết với kèo để đỡ khung nhà và mái. Cột thường được làm bằng
gỗ mít, trau chuốt, dáng thượng thu hạ thách, các cột cái được nâng cao hơn bởi các bệ đá.
Các cột quân (cột phụ) nhỏ hơn, cũng có các tên gọi như sau: dãy cột quân lùi bên trong
hàng cột cái gọi là dãy cột hàng nhì hậu, dãy cột quân tiến phía trước hàng cột cái gọi là cột
hàng nhì tiền. Hai dãy cột này để đỡ kèo nhì gác qua. Ở 4 góc nhà có 4 cột quyết để đỡ kèo
quyết, chúng được phân chia thành đông hậu, tây hậu, đông tiền, tây tiền. Bốn cột vách
đông tây gọi là cột đấm, có chức năng đỡ các kèo đấm thả xuôi từ cột cái. Các cột cái và cột
quân chia không gian nhà chính làm ba phần: Gian chính giữa lẫn hai gian hai bên thờ
phụng, tiếp khách, và cũng là nơi ngủ của đàn ông. Hai chái hai bên là hai buồng gọi là
đông phòng và tây phòng. Đây là buồng ngủ của phụ nữ và con cái. Dãy cột vách mặt trước
nhà (hàng nhì tiền) gồm 4 cột được kè gỗ làm ngạch tạo thành 3 khuôn cửa để đặt 3 gian
cửa bàn khoa bằng gỗ.
Kết cấu kiến trúc nhà rường với bộ khung nhà cột trính, xuyên, kèo liên kết với nhau bằng
phương pháp chốt mộng chắc chắn. Bộ vì kèo chính với kiểu vì đâm trính, vì con đội đòn
dông. Vách nhà thường là vách lụa trang trí ô hộc. Trên các đầu kèo thường chạm nổi hình
long phù, mặt kèo trang trí những đường kẻ chỉ hay diềm hoa lá. Đặc biệt trên các kèo hiên
(ngạo) thường trang trí hình cá chép hay giao long. Đôi khi hiên trước được xử lý nâng cao,
rộng thoáng, với mục đích để làm các rui tàu trang trí các phù điêu theo mô típ điển tích cổ.

Cửa bàn khoa trong các ngôi nhà rường đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên mặt diện
cho ngôi nhà. Nhà rường thường có 3 gian cửa bàn khoa chính. Mỗi một gian cửa bàn khoa
thường có 3 cánh hoặc 4 cánh liên kết nhau bằng chốt gỗ. Bệ dưới của mỗi cửa bàn khoa có
ngỏng quay nhằm giúp cho việc mở đóng dễ dàng. Bệ trên đỉnh cửa có một chốt gỗ được
tra theo chiều dọc, để đóng cửa. Mỗi cửa bàn khoa đều có chấn song nằm ở vị trí 1/3 cửa
tính từ đỉnh cửa xuống, có tác dụng thông gió và quan sát bên ngoài. Bên trong chấn song
còn có một tấm gỗ kéo có chức năng đóng mở. Mỗi gian cửa bàn khoa có cấu tạo bao áp
cửa và trụ cánh dọc
2.3. NHÀ LÁ MÁI (NHÀ ĐẮP)
Kiểu nhà này có hai mái, một mái đất và một mái phía trên có kèo tre lợp tranh. Giữa hai
mái này là khoảng trống. Nhà lá mái có số lượng cột từ 36 đến 42 cũng như nhà rường. Tuy
nhiên, các cột chịu lực ở giữa nhà đều có kích thước lớn gần như nhau, có tác dụng đỡ tầng
mái đất nặng nề. Các cột vách thì nhỏ hơn. Vì kèo chính của nhà lá mái là kèo rường và vì
kèo con đội đòn dông. Con đội được cách điệu kiểu đầu choãi cánh dơi, cánh phụng, chân
đế cách điệu cánh sen. Vì kèo thượng đỡ thượng lương và xuôi về hai hàng cột cái, chốt
mộng ở đầu cột, kèo hạ còn gọi là kèo nhì liên kết cột cái và hai hàng cột hàng nhì (tiền,
hậu). Phía mặt tiền có hai kèo nối với cột hàng ba và hàng tư gọi là ngạo hàng ba (ngạo
thượng) và ngạo hàng tư (ngạo hạ). Một số ngôi nhà ở ngạo hàng tư thay thế bằng bảng trần
gỗ gọi là bảng rui tàu chuyền đai, bề mặt được trang trí ô hộc và nhiều mô típ họa tiết khác
nhau theo kỹ thuật chạm nổi. Phần mái bên trên là vỏ mái tranh, hoặc ngói được đỡ bởi
hàng cột chống cắm thẳng qua trần đất mái dưới và gắn trên đầu các cột. Phần mái dưới
được đắp đất, bên dưới có một lớp ván gỗ nhỏ tạo cho trần đất luôn bền chắc.
Bên trong nội thất của kiểu nhà lá mái có rất nhiều tác phẩm chạm khắc gỗ tinh xảo, chúng
được thực hiện từ bàn tay tài hoa khéo léo của người thợ theo hai kỹ thuật là chạm thủng và
chạm nổi. Nghệ thuật trang trí chạm khắc gỗ được thể hiện ở khắp ngôi nhà, từ hệ thống
bảng lồng, bảng rui tàu, bảng võng đến các kèo, trụ chồng,… với nhiều chủ đề trang trí
khác nhau. Nhà lá mái của ông Lê Lý ở Lý Sơn là một điển hình. Ngôi nhà có 42 cột, trong
đó có 8 cột cái to cao chắc chắn xếp thành hai hàng, tiếp đến là dãy cột hàng nhì, dãy cột
hàng ba và dãy cột hàng tư. Với 6 hàng cột chính đã chia không gian ngôi nhà thành 5 lớp,
tính từ trong ra ngoài: Lớp 1 đặt bàn thờ tổ tiên, lớp 2 dùng lễ bái, lớp 3 và lớp 4 là nơi tiếp

khách, lớp 5 là hiên ngoài. Giữa lớp 2 và lớp 3 được ngăn cách nhau bởi hệ thống cửa bàn
khoa bên trong, giữa lớp 4 và lớp 5 ngăn cách nhau bởi hệ thống cửa bàn khoa bên ngoài.
Đây là nhà lá mái có hai lớp cửa, một kiểu nhà phòng thủ (chống giặc Tàu Ô) rất đặc trưng
ở đảo Lý Sơn.
3. KIẾN TRÚC NHÀ Ở CỦA NGƯỜI HRÊ
Mỗi làng người Hrê cư trú thường có khoảng vài chục ngôi nhà sàn. Nhà sàn của người Hrê
được xây dựng quần tụ theo chiều ngang của triền chân đồi. Các ngôi nhà được bố trí theo
từng lớp, từ thấp đến cao. Người Hrê gọi làng của mình là plây, cách gọi này giống với
cách gọi của các dân tộc Bana, Giarai… Làng xóm Hrê được xây dựng dọc theo các con
sông. Mặc dù tộc người Hrê cư trú trên địa vực rộng lớn của vùng núi rừng miền Tây
Quảng Ngãi, song họ vẫn bảo lưu được tập quán xây dựng làng theo lối riêng của dân tộc
mình. Làng Hrê có chung những đặc điểm xây dựng theo địa hình cảnh quan, được bố trí
kiến tạo ven theo triền chân đồi, cao ráo, quang đãng. Người Hrê luôn luôn chọn vị trí làng
của họ ở về phía đông, tây hoặc phía nam triền chân đồi. Họ lấy quả đồi nơi cư trú hoặc
những dãy núi xung quanh để che chắn ngọn gió bấc của mùa đông khắc nghiệt. Làng luôn
quay mặt về phía có gió nồm để được thoáng mát, đón ánh sáng mặt trời buổi sáng để đề
phòng và trừ khử dịch bệnh. Làng Hrê luôn luôn xây dựng liền kề với vùng ruộng canh tác.
Người Hrê làm nhà vào thời gian tháng 8 và tháng 9 trong năm. Các loại gỗ rắn chắc như
gỗ ké, gỗ mít… được ưa chuộng, dùng làm cột sàn, cột vách, kèo, trính. Người Hrê thường
đốn cây gỗ vào ngày 29, 30 (Âm lịch) của các tháng hè và thu, bởi vì trong thời điểm này
nhựa thân cây trở nên ít, khiến cho các thớ gỗ không bị mối mọt phá hoại. Khi xây dựng
các nhà sàn, người Hrê đặc biệt chú ý không để đường đi trong làng đâm thẳng vào cửa
giữa (mang), cửa trước (móc inh chin) và cửa sau (móc inh đoong), vì điều đó sẽ xảy ra đau
ốm bệnh tật cho gia chủ hoặc những điều không hay khác cho gia đình.
Thời gian để dựng hoàn thành một ngôi nhà sàn Hrê trong vòng từ 4 đến 6 ngày, theo một
số thao tác quy trình như sau:
Bước1: Dựng hai hàng cột sàn và cột vách.
Bước 2: Dựng bộ khung nhà gồm gác trính, xà qua các đầu cột theo kiểu ngoài buộc dây
mây, đồng thời gác tay kèo ở hai đầu hồi, sau đó gác đòn tay mái nằm theo chiều dọc của
ngôi nhà.

Bước 3: Vỏ mái gồm ron, mè kết cấu theo lối buộc nẹp ngang dọc song song nhau và được
làm trước ở dưới mặt đất, sau đó đưa lên buộc vào các đòn tay mái để làm vỏ mái.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×