Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

ĐỊNH HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN LĨNH VỰC DỊCH VỤ TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI TỚI NĂM 2010 TẦM NHÌN 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.41 KB, 26 trang )

ĐỊNH HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN
LĨNH VỰC DỊCH VỤ TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI TỚI NĂM 2010 TẦM
NHÌN 2020
3.1. MỤC TIÊU, ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ Ở HÀ NỘI TRONG GIAI ĐOẠN
5-10 NĂM TỚI
3.1.1. Mục tiêu, định hướng chung phát triển dịch vụ Thủ đô
a/ Mục tiêu phát triển dịch vụ trong kế hoạch 5 năm 2006-2010:
- Chuyển nhanh và vững chắc cơ cấu kinh tế Thủ đô sang cơ cấu: dịch vụ -
công nghiệp - nông nghiệp. Phấn đấu đến năm 2020, lĩnh vực dịch vụ Thủ đô đạt
trình độ phát triển trung bình trên thế giới, trở thành động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội và cải thiện đời sống nhân dân Thủ đô.
- Tập trung phát triển các hoạt động dịch vụ gắn với tiềm năng và điều kiện
đặc thù của Thủ đô; khuyến khích phát triển dịch vụ Hà Nội có lợi thế và đáp ứng
yêu cầu hội nhập; phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng dịch vụ cao hơn tốc độ tăng
trưởng chung của GDP, từng bước ổn định và nâng dần tỷ trọng dịch vụ trong
GDP.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trên thị trường nội địa, khu vực và quốc tế; tăng
cường hợp tác, cạnh tranh lành mạnh giữa các loại hình dịch vụ để cùng phát triển.
b/ Định hướng phát triển dịch vụ Hà Nội
- Đa dạng hoá, phát triển toàn diện, đồng bộ; thiết kế các sản phẩm dịch vụ
mới, tạo dựng sản phẩm dịch vụ mũi nhọn trong từng ngành, đáp ứng người tiêu
dùng và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tập trung mọi nguồn tài chính và
nhân lực có trình độ chuyên môn cao, nhanh chóng tiếp cận và phát triển dịch vụ
chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng trong và ngoài
nước.
- Tạo khung khổ pháp lý thích hợp, cơ chế khuyến khích đủ mạnh để tạo điều
kiện cho các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ chất
lượng cao. Mở rộng xã hội hoá sẽ giúp huy động mọi nguồn lực từ mọi thành phần
kinh tế trong nước (nhất là các doanh nghiệp, công ty, dân cư) và quốc tế để nâng
cấp, xây dựng mới kết cấu hạ tầng, trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại cho phát


triển dịch vụ. Đẩy nhanh tiến trình sắp xếp doanh nghiệp, đặc biệt là cổ phần hoá;
tổ chức hoạt động kinh doanh theo các mô hình mới có hiệu quả để huy động
nguồn lực của toàn xã hội cho đầu tư, phát triển dịch vụ, trước hết là thương mại,
du lịch, hạ tầng công cộng, giáo dục, y tế, tài chính, ngân hàng, bưu chính viễn
thông, kinh doanh bất động sản.
- Phát triển một cách đồng bộ các ngành dịch vụ dựa trên cơ sở vận dụng tổng
hoà các mối quan hệ biện chứng liên ngành - liên vùng - liên khu vực, khắc phục
sự chia cắt, manh mún giữa Trung ương và địa phương.
- Cơ cấu lại lĩnh vực dịch vụ Thủ đô, tập trung phát triển các dịch vụ theo
phân loại của WTO phù hợp với khả năng và thế mạnh của Thủ đô. Cùng với đột
phá phát triển các dịch vụ chất lượng cao, tiếp tục phát triển toàn diện các loại dịch
vụ và nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ, đảm bảo tỷ lệ hợp lý giữa các cấp độ
dịch vụ nhằm phục vụ tốt nhất các nhu cầu cơ bản của dân cư Thủ đô.
- Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cần được ưu tiên bố trí cho việc phát
triển, củng cố, nâng cấp, hiện đại hoá có trọng điểm kết cấu hạ tầng phục vụ cho
dịch vụ. Hỗ trợ trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật hiện đại cho các ngành dịch vụ
chủ yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh trong nước, quốc tế và phục vụ ngày càng
tốt hơn nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.
- Mở cửa thị trường dịch vụ theo cam kết quốc tế, tăng cường vận động, xúc
tiến đầu tư nước ngoài vào phát triển lĩnh vực dịch vụ.
3.1.2. Định hướng phát triển dịch vụ chất lượng cao
a/ Định hướng chung
- Đa dạng hoá các ngành dịch vụ trên cơ sở lấy phát triển dịch vụ chất lượng
cao là khâu đột phá để đưa toàn bộ lĩnh vực dịch vụ Thủ đô trở thành mũi nhọn
trong phát triển kinh tế.
- Phát triển dịch vụ chất lượng cao theo qui hoạch, kế hoạch và hệ thống tiêu
chí phù hợp với từng ngành, từng sản phẩm dịch vụ. Lựa chọn một số ngành dịch
vụ gắn với đặc thù, thế mạnh Thủ đô như thương mại, du lịch, dịch vụ hạ tầng cơ
sở công cộng, dịch vụ tư vấn các loại…để ưu tiên tập trung nguồn lực phát triển
đồng bộ, ngang tầm các nước khu vực.

- Cho phép các thành phần kinh tế mở rộng thị phần theo chiều rộng và sâu
trên thị trường dịch vụ, đặc biệt loại dịch vụ chất lượng cao. Tạo thuận lợi cho các
thành phần kinh tế phát huy mọi tiềm năng và lợi thế của họ trong phát triển dịch
vụ, tạo nên cách làm mới và nâng cao toàn diện chất lượng dịch vụ. Thực thi hệ
thống tiêu chuẩn và tăng cường giám sát nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ ngày
càng được nâng cao.
- Xây dựng Hà Nội trở thành trung tâm cung cấp dịch vụ chất lượng cao một
cách đồng bộ, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển dịch vụ của các địa phương khác
trong cả nước.
b/ Định hướng phát triển dịch vụ chất lượng cao một số chuyên ngành
* Trong ngành Thương mại
Hướng tới xây dựng Hà Nội thành trung tâm bán buôn và xuất nhập khẩu dẫn
đầu cả nước, cần tập trung vào các điểm sau:
- Nâng cấp hệ thống siêu thị, quy hoạch lại mạng lưới chợ.
- Xây dựng và phát triển hệ thống trung tâm thương mại quốc tế ngang tầm
với các nước trong khu vực.
- Tiếp tục tạo dựng một số cơ sở hạ tầng cần thiết ban đầu nhằm khuyến khích
áp dụng thương mại điện tử.
- Mở rộng hoạt động xuất, nhập khẩu trên cơ sở đẩy mạnh các hoạt động xúc
tiến thương mại nhằm khai thác nguồn hàng trong và ngoài nước, thu hút mạnh
FDI vào sản xuất hàng xuất khẩu trên địa bàn Hà Nội
- Đẩy mạnh sự hợp tác thương mại giữa Hà Nội với các tỉnh, thành trong cả
nước, đặc biệt là các tỉnh, thành lân cận nhằm khai thác tối đa lợi thế từng địa
phương và hạn chế những cạnh tranh không đáng có giữa các địa phương.
- Hoàn thiện thể chế, pháp luật; hiện đại hoá cơ sở vật chất cho các hoạt động
thương mại như hệ thống kho hàng, phương tiện vận chuyển hàng hoá, hệ thống
thanh toán.
* Trong ngành Du lịch
- Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Thủ đô, hiện đại,
đậm đà bản sắc Thăng Long - Hà Nội. Cùng với thương mại, du lịch phải góp phần

quảng bá và tạo ra hình ảnh mới về Hà Nội trong lòng bè bạn trong nước và quốc
tế.
- Đầu tư đồng bộ, thoả đáng cho du lịch, từ địa điểm tham quan, khách sạn
đến vận chuyển hành khách, đào tạo nguồn nhân lực...
- Phát triển du lịch văn hoá, truyền thống, lễ hội; du lịch sinh thái; du lịch kinh
doanh. Kết hợp tốt giữa du lịch văn hoá và tôn tạo các di tích danh lam thắng cảnh,
giữa phát triển sản phẩm du lịch với quảng bá truyền thống lịch sử văn hoá Thăng
Long - Hà Nội.
- Phát triển nhanh hệ thống khách sạn đạt tiêu chuẩn chất lượng cao và các sản
phẩm du lịch mới để tăng thêm ngày lưu trú của khách. Phối hợp với các Tỉnh -
Thành phố trong cả nước để xây dựng cơ sở vật chất phục vụ các chương trình phát
triển du lịch đa dạng.
- Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền quảng bá để thu hút khách du lịch trong
nước và quốc tế.
* Trong ngành Giao thông công cộng
- Vươn tới các tỉnh, thành lân cận bằng việc xây dựng một số tuyến đường
chất lượng cao hướng tới những cảng sông, biển và sân bay, mở nhiều tuyến nhánh
xương cá để tránh ùn tắc ở các tuyến chính, tuyến trục.
- Xây dựng hệ thống các đường song song hỗ trợ cho các trục chính nhằm
giảm tải cho các tuyến đường này và tránh bị tắc nghẽn.
- Trong nội đô, mở một số tuyến chuyên biệt phục vụ từng loại đối tượng
dân cư: phục vụ chợ đêm (buýt nhanh, buýt sinh viên,…).
- Phát triển một số loại hình giao thông hiện đại ngang tầm khu vực và thế
giới như đường bộ, đường sắt trên cao, tàu điện ngầm.
- Xây dựng hầm ngầm tại một số nút giao thông để các luồng không giao
cắt nhau.
- Hạn chế phương tiện cá nhân, tăng cường phương tiện công cộng đảm bảo
giao thông thuận tiện an toàn.
* Trong ngành Giáo dục đào tạo
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục - đào tạo, chuẩn hoá, hiện đại

hoá, đa dạng hoá, xã hội hoá các hoạt động giáo dục - đào tạo Thủ đô .
- Phát triển mạnh các loại hình trường tư thục ở các bậc học phù hợp với quy
hoạch giáo dục - đào tạo Thủ đô.
- Đổi mới nội dung và phương thức đào tạo, tạo sự liên thông giữa các bậc
học, ngành học. Huy động thêm nguồn lực cho giáo dục - đào tạo từ ngân sách
(người học, doanh nghiệp) và nguồn hỗ trợ quốc tế.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên đủ về số lượng, đồng bộ và
đạt chuẩn hoá, có lòng yêu nghề và trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng đáp
ứng yêu cầu của việc đổi mới nội dung, phương pháp và phương tiện dạy học.
- Hiện đại hoá các cơ sở giáo dục- đào tạo, đặc biệt là mạng lưới các trường
trọng điểm chất lượng cao ở các bậc học, ngành học.
* Trong ngành dịch vụ y tế
- Phấn đấu 100% xã (phường) đạt tiêu chuẩn quốc gia về y tế. Phát triển dịch
vụ y tế cơ động để phục vụ những yêu cầu mới.
- Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về y tế, đặc biệt là quản lý bệnh viện
và sự phối hợp hoạt động giữa các bệnh viện trên địa bàn Hà Nội. Từng bước áp
dụng các hình thức quản lý chất lượng vào cơ sở y tế.
- Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật nâng cấp chất lượng bệnh viện và công nghệ
thông tin trong quản lý và điều trị. Xây dựng mới bệnh viện đa khoa kỹ thuật cao.
Đầu tư thiết bị cơ bản cho các bệnh viện, thiết bị chuyên sâu cho các bệnh viện
hạng 1 đạt trình độ quốc tế để bệnh nhân trong nước không phải ra nước ngoài
chữa trị phổ biến như thời gian gần đây.
- Đổi mới quản lý kinh tế y tế trong bệnh viện, quản lý tốt hành nghề y dược
tư nhân.
- Huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư xây dựng và phát triển
sự nghiệp khám chữa bệnh cho nhân dân thủ đô, đa dạng hoá các hình thức tổ chức
chăm sóc sức khoẻ.
- Có cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước để phát triển
ứng dụng kỹ thuật cao, dịch vụ chất lượng cao vào những lĩnh vực quan trọng như
y tế dự phòng, y tế cơ sở, các chương trình y tế.

* Trong dịch vụ Tài chính- ngân hàng
- Xây dựng Hà Nội thành trung tâm Tài chính - Ngân hàng hàng đầu ở khu
vực phía Bắc và có vai trò quan trọng của cả nước. Hình thành các tập đoàn tài
chính lớn, kinh doanh tài chính dưới mọi hình thức đối với các doanh nghiệp trong
và ngoài nước, từng bước xoá bỏ việc cấp vốn ngân sách nhà nước, tạo sự chủ
động, năng động trong sản xuất kinh doanh. Xây dựng Ngân hàng trở thành nhà
đầu tư lớn vào các dự án KT-XH của Thủ Đô.
- Hoàn thiện, tiêu chuẩn hoá, quốc tế hoá tiêu chuẩn thống kê, kế toán nhằm
nâng cao khả năng cạnh tranh, khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Từng bước
thống nhất giữa hệ thống kiểm toán Việt nam và quốc tế, giữa tập quán kinh doanh
bảo hiểm Việt Nam và quốc tế.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà nước Thành phố Hà Nội theo
hướng gọn nhẹ, hiệu quả, không ngừng nâng cao năng lực tổ chức thực thi chính
sách tiền tệ quốc gia an toàn và hiệu quả.
- Hiện đại hoá hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng theo kế hoạch và
chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tổ chức tốt điều hoà tiền mặt trên địa
bàn, đáp ứng đầy đủ và kịp thời mọi nhu cầu tiền mặt cho sản xuất kinh doanh và
đời sống nhân dân Thủ đô..
- Đưa vào áp dụng các phương thức quản lý mới, nâng cao chất lượng và hiệu
lực của công tác thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng của Chi nhánh Ngân hàng
Nhà nước thành phố Hà Nội theo chuẩn mực quốc tế, thực hiện tốt quản lý các
ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn.
- Lành mạnh hoá tài chính ngân hàng thương mại thông qua việc giải quyết
nhanh các khoản nợ không sinh lời, nợ tồn đọng đi đôi với nâng cao chất lượng tín
dụng.
- Đẩy mạnh đầu tư hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán,
nâng cao chất lượng dịch vụ để nâng cao khả năng cạnh tranh trong tiến trình hội
nhập quốc tế.
* Trong dịch vụ Bưu chính viễn thông
- Chuyển trọng tâm vào phát triển các dịch vụ như điện thoại di động, internet,

thương mại điện tử, là những dịch vụ hạt nhân của xã hội thông tin và nền kinh tế
tri thức trong tương lai.
- Đẩy mạng khai thác các dịch vụ mang tính xã hội cao như dịch vụ thông tin
qua hộp thư trả lời tự động, dịch vụ thông tin giải trí, các dịch vụ gắn giữa viễn
thông và truyền hình.
- Đối với dịch vụ internet: khẩn trương phổ cập dịch vụ internet 100% các
trường đại học, cao đẳng, viện nghiên cứu, bệnh viện trên địa bàn. Đến năm 2010,
dịch vụ internet được cung cấp rộng rãi tới các trường phổ thông trung học, phổ
thông cơ sở trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Phấn đấu tỷ lệ người sử dụng internet
đạt mức trung bình thế giới.
- Mật độ điện thoại bình quân đạt 55 máy/100 dân vào năm 2010, 100% số hộ
gia đình có máy điện thoại.Tăng cường khai thác dịch vụ VNN 1268, 1269, 1260-P
và internet công cộng làm phong phú khả năng lựa chọn của khách hàng.
3.2. CÁC GIẢI PHÁP TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THỦ ĐÔ THỜI KỲ ĐẾN NĂM
2010.
3.2.1. Đổi mới tư duy - nhận thức đối với phát triển dịch vụ
Tiếp tục đổi mới toàn diện và sâu sắc tư duy lãnh đạo, tư duy quản lý đối với
sự phát triển lĩnh vực dịch vụ Thủ đô; tư duy của người cung ứng và người sử dụng
về dịch vụ chất lượng cao trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đổi mới tư duy các nhà lãnh đạo, quản lý nhà nước trước hết là đổi mới trong
cách suy nghĩ về khái niệm, vai trò các ngành dịch vụ, trên cơ sở đó tiến tới đổi
mới về cách làm, về tổ chức quản lý. Nhiều ngành, nhiều lĩnh vực trước đây không
được coi là dịch vụ, nay vẫn tồn tại như vậy trong tư duy không ít nhà lãnh đạo,
quản lý. Do đó, họ vẫn coi đây là công việc nhà nước phải làm và không tính đến
lợi nhuận để đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ. Họ cản trở các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh đầu tư, phát triển dịch vụ trong “ sân chơi” quen thuộc của các
doanh nghiệp nhà nước. Nhiều doanh nghiệp dịch vụ công không có khả năng đáp
ứng đầy đủ các nhu cầu của người dân như điện, nước sạch, giao thông công cộng,
vệ sinh môi trường...song lại cản ngăn việc xã hội hoá các hoạt động dịch vụ do sợ
giảm thu nhập, mất việc làm. Trên tầm vĩ mô, xã hội hoá thực chất tạo ra thêm

nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người lao động do tính cạnh tranh tất yếu
trong nền kinh tế thị trường. ưu thế về tính độc quyền dẫn đến đặc lợi đã hạn chế
việc nâng cao chất lượng dịch vụ, làm giảm tính cạnh tranh trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế. Chúng ta muốn tiếp cận nhanh chóng với dịch vụ chất lượng
cao, song lại khá dè dặt khi mở cửa thị trường này cho các nhà đầu tư nước ngoài
nhiều vốn, giàu kinh nghiệm.
Đi đôi với đổi mới tư duy lãnh đạo và quản lý, cần đổi mới tư duy, nhận thức
của mọi người dân trong xã hội, từ nhà cung cấp dịch vụ cho đến người dân thụ
hưởng dịch vụ thông qua việc trả tiền hay không phải trả tiền đầy đủ. Đối tượng
hưởng thụ và chất lượng dịch vụ cũng là một vấn đề còn đang được tranh luận.
Nên phát triển dịch vụ theo hướng tập trung vào nâng cao chất lượng cho đối tượng
có thu nhập cao hay chú trọng đến phát triển dịch vụ cho đối tượng có thu nhập
thấp. Cần phát triển cả hai cấp độ dịch vụ để đảm bảo định hướng XHCN trong
nền kinh tế thị trường. Vấn đề chính là khu vực nhà nước cần tập trung vào cung
cấp dịch vụ cho đại đa số người thụ hưởng, đặc biệt là cho đối tượng thu nhập thấp.
Nhà nước đang cho thực hiện khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi là
một ví dụ. Tư nhân sẽ được khuyến khích mạnh hơn để đầu tư vào phát triển dịch
vụ chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong quá trình Hội nhập kinh tế
quốc tế.
Các nhà cung ứng dịch vụ còn thiếu tầm nhìn chiến lược, trông chờ lợi
nhuận trước mắt; tập trung khai thác tối đa nguồn lực hiện có. Vì vậy, vẫn loại
hàng đó, khách hàng đó, doanh nhân nước ngoài làm thì doanh thu tăng nhanh, lợi
nhuận lớn. Phải chăng là doanh nghiệp Việt Nam chưa làm được như vậy là do
thiếu kinh nghiệm, chưa dám làm với sự đầu tư lớn, đồng bộ để tạo ra được chất
lượng cao bền vững. Sự huy động nguồn lực để có được sản phẩm dịch vụ chất
lượng cao còn ít.
Người sử dụng dịch vụ thì thụ động, ngại thay đổi, chưa thích ứng nhanh với
sự xuất hiện các loại dịch vụ chất lượng cao. Số lượng người có thu nhập cao ngày
càng tăng, song họ vẫn “ sính” dịch vụ ngoại hơn dịch vụ trong nước. Đôi khi lại
có quan niệm hẹp hòi đối với việc cung cấp dịch vụ chất lượng cao (thí dụ dịch vụ

y tế…) đối với một bộ phận dân cư.
Xuất phát từ vị thế đầu não của Thủ đô, việc phát triển dịch vụ Thủ đô trong
giai đoạn tới phải nắm chắc tính quy luật trong phát triển dịch vụ Thủ đô, với biểu
hiện đặc trưng là phát triển rút ngắn; trong sự liên kết Trung ương - địa phương,
liên ngành - liên vùng; từ trung tâm lan toả ra các địa phương khắp cả nước; triệt
để phát huy lợi thế so sánh của Thủ đô; và quá trình “hút - đẩy” các hoạt động dịch
vụ trong mối quan hệ hữu cơ cùng phát triển với các địa phương cả nước.
Dịch vụ Thủ đô phát triển đột phá trong sự kích cầu đi đôi với kích cung, từng
bước vững chắc trở thành khâu dẫn dắt phát triển toàn nền kinh tế - xã hội Thủ đô,
và là tụ điểm của hội nhập WTO. Trong việc phổ biến, quán triệt các nhận thức
mới nêu trên, chú trọng các công tác sau:
Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền quảng cáo qua đài, tivi với nhiều hình thức
đa dạng phong phú, giới thiệu các sản phẩm dịch vụ nhằm giúp cho mọi người có
nhận thức sâu sắc về nội dung, ý nghĩa của các loại hình dịch vụ. Từ đó, người sử
dụng sẽ dùng dịch vụ nhiều hơn và đòi hỏi chất lượng dịch vụ phải ngày càng được
cải tiến, nâng cao.
Thứ hai, mở các hội thảo chuyên đề giới thiệu các loại hình dịch vụ chất lượng
cao, trình độ cao ở các nước khu vực và thế giới cho những đối tượng sử dụng và
các nhà cung cấp dịch vụ.
Thứ ba, giới thiệu và tổ chức tạo đàm về hội nhập kinh tế khu vực và thế giới,
làm rõ những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển lĩnh vực dịch vụ.
3.2.2. Hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho phát
triển dịch vụ
- Trên cơ sở phân loại dịch vụ của Tổ chức Thương mại thế giới và hướng
dẫn của Bộ Thương mại và Tổng cục Thống kê, Thành phố chủ động xây dựng
chiến lược phát triển dịch vụ, đề xuất cơ chế, chính sách thích hợp để phát triển
dịch vụ, đưa dịch vụ vào nội dung của Kế hoạch 5 năm 2006-2010 với nhận thức
và vị thế mới.
- Rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách về xuất nhập khẩu và thương mại
dịch vụ phù hợp với các định chế của Tổ chức Thương mại thế giới WTO và Hiệp

định chung về thương mại dịch vụ (GATS). Phổ cập các thông tin, hướng dẫn các
ngành và các địa phương chuẩn bị điều kiện thực hiện các cam kết về thương mại
và dịch vụ sau khi gia nhập WTO, các cam kết tự do hoá thương mại và dịch vụ
trong khuôn khổ ASEAN (CEPT/AFTA, AFAS,...) đến năm 2010 và giai đoạn tiếp
theo.
- Thực hiện các danh mục phân loại về dịch vụ và xuất, nhập khẩu dịch vụ
theo hướng tuân thủ sự tương thích với các bảng danh mục chuẩn mực quốc tế và
được mở rộng theo thực tiễn và yêu cầu của Việt Nam. Hoàn thiện chế độ báo cáo
thống kê về dịch vụ và thương mại theo chuẩn quốc tế; trước mắt tập trung đối với

×