Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

ĐỊNH HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM THÚC ĐẨY TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP AFTA CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.65 KB, 49 trang )

ĐỊNH HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM THÚC
ĐẨY TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP AFTA CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. DỰ BÁO TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP AFTA VÀ ĐỊNH HƯỚNG
CHIẾN LƯỢC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA TRONG HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ
3.1.1. Dự báo bối cảnh quốc tế mới và tác động của chúng đến quá trình
hội nhập AFTA [2], [13], [33], [40], [47], [75]
Bối cảnh quốc tế và khu vực là điều kiện bên ngoài của sự phát triển mỗi quốc
gia. Trong thế giới ngày nay, điều kiện phát triển ở trong nước phải được xem xét
trong mối quan hệ chặt chẽ với điều kiện quốc tế mới có khả năng phát triển được
và hơn thế, phát triển năng động và có hiệu quả. Chính vì vậy, bối cảnh thế giới và
khu vực là một căn cứ khoa học quan trọng khi hoạch định chiến lược phát triển
kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
Tác động của bối cảnh quốc tế bao gồm: Xu thế hoà bình và hợp tác; Tác
động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ toàn cầu hoá và khu vực hoá.
Những xu hướng biến đổi môi trường và yêu cầu phát triển bền vững toàn cầu tác
động đến Việt Nam, cho thấy những cơ hội và khó khăn cơ bản trong giai đoạn
chiến lược sắp tới. Những cơ hội:
- Có cơ hội tranh thủ điều kiện hoà bình và ổn định trong khu vực để tập trung sức
cho phát triển kinh tế.
- Ngăn ngừa được tình trạng bị phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế.
- Có điều kiện phát huy lợi thế so sánh, mở rộng thị trường quốc tế, thu hút đầu tư,
chuyển giao công nghệ. Tiến bộ khoa học và công nghệ là một nguồn lực và động
lực lớn nếu tranh thủ được.
- Có cơ sở đấu tranh để được hưởng những đối xử ưu đãi dành cho các nước chậm
phát triển và có nền kinh tế đang chuyển đổi.
- Nâng cao vị thế quốc tế trong đàm phán với các nước lớn, cùng với các nước đang
phát triển bảo vệ quyền lợi quốc gia, dân tộc.
- Thúc đẩy tiến trình cơ cấu lại nền kinh tế và đẩy mạnh cải cách kinh tế, cải cách
hành chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.


Những khó khăn và thách thức:
- Khó khăn lớn nhất trong hội nhập là nền kinh tế nước ta đang ở trình độ phát triển
thấp, ngay cả so với các nước trong khu vực có trình độ phát triển chưa cao.
- Tính cạnh tranh của môi trường kinh tế chung của Việt nam được đánh giá là đang
còn ở mức rất thấp.
- Cùng với tiến trình hội nhập, do phải giảm thuế nhập khẩu theo cam kết nên các
khoản thu thuế nhập khẩu có thể giảm đáng kể, ảnh hưởng đến nguồn thu của ngân
sách. Tuy vậy, những khoản này có thể được bù lại từ các khoản thu thuế khác từ
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát triển nhanh hơn và thu nhập của dân cư
được nâng lên nếu có chính sách tốt.
- Những dự báo về xu hướng biến đổi bất lợi về môi trường, dù chưa hoàn toàn là
chuẩn xác, song cũng cho thấy vấn đề bảo vệ và cải thiện môi trường ở nước ta
trong chiến lược phát triển sắp tới có vị trí quan trọng và phải đầu tư tương đối lớn.
- Tình hình quốc phòng - an ninh đòi hỏi vẫn phải luôn luôn đề cao cảnh giác, chăm
lo đúng mức.
Việc tham gia AFTA sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thương mại. Thương mại sẽ
lại gây ảnh hưởng đến sản xuất. Như vậy, thực chất của việc xem xét tác động của
AFTA đối với các ngành sản xuất trong nước là đánh giá khả năng cạnh tranh của
hàng hoá Việt Nam so với hàng hoá của các nước ASEAN khác trên thị trường
trong nước, thị trường ASEAN và thị trường ngoài ASEAN. Khả năng cạnh tranh
của hàng hoá phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là chất lượng,
chủng loại, mẫu mã và giá cả. Tham gia AFTA sẽ có tác động trực tiếp nhất tới yếu
tố giá cả của hàng hoá, bởi vì với việc cắt giảm thuế, đơn giản hoá các thủ tục buôn
bán, thì giá bán của hàng hoá sẽ hạ hơn. Các yếu tố khác như chất lượng, mẫu mã
cũng sẽ thay đổi so sức ép của cạnh tranh trong nội bộ khu vực.
Việc hình thành AFTA sẽ hầu như dẫn đến xoá bỏ thuế nhập khẩu trong nội bộ
các nước ASEAN, nhưng giữ nguyên thuế nhập khẩu đối với thế giới bên ngoài. Vì
vậy, nó sẽ có thể dẫn đến những hậu quả:
• Phân bố lại các luồng buôn bán giữa các nước ASEAN.
• Do các luồng buôn bán nội bộ khu vực thay đổi nên buôn bán với bên ngoài khu

vực cũng sẽ có những thay đổi.
• Làm thay đổi các luồng đầu tư, hình thành sự chuyên môn hoá sản xuất và phân bố
các ngành sản xuất khác so với trước.
• Tạo một sự kiểm soát và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ASEAN trong buôn bán
nội bộ và hình thành một tương quan mới với bên ngoài.
Trước hết tác động của khu vực mậu dịch tự do sẽ rõ ràng nhất trong điều
kiện các nước thành viên có trình độ phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế và buôn bán
tương tự như nhau. Tính cạnh tranh sẽ rất mạnh và sự thay đổi hàng rào thuế quan
sẽ có tác dụng quyết định. Đồng thời, khả năng tạo lập sự hợp tác và chuyên môn
hoá cũng lớn. Nếu cơ cấu kinh tế của các nước thành viên là khác nhau và mang
tính chất bổ sung cho nhau, đã có tồn tại chuyên môn hoá sản xuất giữa các nước
thành viên trước khi hình thành khu vực mậu dịch tự do, thì tác động của việc hình
thành khu vực mậu dịch tự do không lớn.
Xu hướng chung phân bố sản xuất là chuyển các cơ sở sản xuất từ nơi giá
thành cao sang nơi có giá thành thấp. Mức chênh lệch giá thành càng lớn thì luồng
di chuyển sản xuất sẽ càng mạnh khi các hàng rào mậu dịch được xoá bỏ. Tuy
nhiên, ở đây cũng có thể xảy ra hiện tượng phân bố lại sản xuất không mang lại
hiệu quả cao. Hiện tượng này có thể xảy ra khi hàng rào mậu dịch bên trong khu
vực mậu dịch tự do được xoá bỏ, nhưng hàng rào với bên ngoài không thay đổi
nhiều. Như vậy, các nước thành viên khu vực mậu dịch tự do sẽ mua bán lẫn nhau
các mặt hàng mà một nước thứ ba ngoài khu vực mậu dịch tự do cũng sản xuất với
giá thành tương đương, nhưng bị hàng rào thuế quan ngăn chặn thâm nhập.
Khi dự báo bối cảnh quốc tế mới cần chú ý đến những xu hướng phát triển
của AFTA :
* Các nước thành viên ASEAN, trước hết là ASEAN - 6 đi tới quyết định tăng
tốc quá trình hình thành AFTA nhằn đảm bảo để AFTA không bị tụt hậu so với sự
phát triển của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, thực hiện điều này không dễ dàng vì
trình độ phát triển kinh tế của các nước thành viên AFTA là rất khác nhau, việc
tăng tốc sẽ làm sâu sắc hơn sự phân bổ không đồng đều về chi phí và lợi ích giữa
các nước thành viên AFTA. Bởi vậy, tính sẵn sàng để tăng tốc cũng không giống

nhau giữa các nước. Trước mắt các thành viên AFTA đặt trọng tâm vào việc giảm
thuế quan và huỷ bỏ các hàng rào phi quan thuế đối với thương mại hàng hoá, tuy
nhiên thương mại hàng hoá trên toàn thế giới lại tăng trưởng chậm hơn so với
thương mại dịch vụ và đầu tư. Do đó, việc giảm thuế và bãi bỏ các hàng rào cản
phi thuế trở nên kém quan trọng hơn việc dỡ bỏ một loạt các cản trở khác. Hiện
nay các thành viên AFTA mới đi những bước đầu tiên trong việc thành lập các
nhóm công tác về hợp tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, hợp tác trong lĩnh vực tài
chính và ngân hàng, đồng thời hợp tác trong lĩnh vực đầu tư .
* Thành lập khu vực thương mại tự do “ASEAN+3”: đây là một khuôn khổ
bao gồm 10 nước ASEAN và 3 nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Sáng kiến
này là một trong những động thái tiến tới hội nhập toàn vùng châu Á, trước hết là
nhằm tăng cường sức sống cho tổ chức AFTA. Trong khuôn khổ này, người ta đã
đồng ý triển khai nghiên cứu về tác động của ASEAN+3, phát triển mạng lưới hạ
tầng (xây dựng đường sắt xuyên Á), chuẩn bị thành lập hiệp định về hoán đổi tiền
tệ khi có khủng hoảng (CSCP) nhằm tạo ra một cơ chế an toàn trên cơ sở một
mạng lưới hoán đổi tiền tệ song phương, tránh các cuộc khủng hoảng tiền tệ trong
tương lai có thể xảy ra trong khu vực.
3.1.2. Định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước ta trong hội nhập
kinh tế quốc tế. [1], [4], [13], [21]
a. Những chủ trương và nguyên tắc hội nhập của Đảng và Nhà nước.
Trên cơ sở thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá và
đa dạng hoá, với tinh thần Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển, chúng ta đã từng bước
đổi mới chính sách kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập có hiệu quả với nền kinh
tế khu vực và thế giới. Nghị quyết Đại hội Đảng VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
đã chỉ rõ “Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là củng cố môi trường hoà bình
và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” và “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới”. Nghị quyết 04 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá
VIII) ngày 29/12/1997 nêu rõ nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là:

“Trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các
nguồn lực bên ngoài”, trong đó những biện pháp quan trọng hàng đầu là cần tiếp
tục tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các nhà đầu tư nước ngoài, “tích cực và
chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế”. Nghị quyết cũng nhấn mạnh
nhiệm vụ “chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp và nhất là
những sản phẩm mà Việt Nam có khả năng cạnh tranh để hội nhập thị trường khu
vực và thị trường quốc tế”.
Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng (tháng 4/2001) đã nhấn mạnh chủ
trương: chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối
đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định
hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ gìn an ninh quốc gia, phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái. Theo chủ trương này, hội nhập kinh
tế quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan của sự phát triển nền kinh tế thế giới nói
chung, vừa là nhu cầu nội tại của sự phát triển kinh tế của đất nước ta. Hội nhập
kinh tế quốc tế giúp cho việc mở rộng cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường thế
giới, tìm kiếm và tạo lập thị trường ổn định, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để xây
dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phát huy tối đa lợi thế so sánh của đất nước.
Khẳng định tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế, Nghị quyết số 07 -
NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 27/11/2001 đã nhấn mạnh mục tiêu và những quan
điểm chủ đạo chi phối toàn bộ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong
thời gian tới. Mục tiêu của việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là nhằm mở
rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN, thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những quan điểm chỉ đạo trong quá
trình hội nhập là:
Thứ nhất, chủ động hội nhập theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế, phải đảm bảo giữ vững độc lập tự chủ và định hướng
XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản
sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. Việc chủ động tham gia hội nhập phải dựa
trên cơ sở một tiềm năng nhất định, được chuẩn bị chu đáo, với một tư thế và vị trí

nhất định, chủ động hội nhập có nghĩa là phải tự tin, có đường đi nước bước,
không vội vàng hấp tấp, những cũng không chậm chạp để lỡ thời cơ. Chủ động hội
nhập còn có nghĩa là biết người, biết ta, nắm vững tình hình trong nước và quốc tế.
Chủ động hội nhập vừa mang tính tích cực, vừa mang tính thận trọng nhưng vững
vàng và quyết đoán, không để mất thời cơ. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là để
phát triển đất nước, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hội nhập
kinh tế quốc tế là để nuôi dưỡng, làm tăng thêm sức mạnh bên trong, bảo vệ an
ninh quốc gia.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế phải là sự nghiệp của toàn dân, phải phát
huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà
nước giữ vai trò chủ đạo để phát triển nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của cả
nền kinh tế đất nước, của từng ngành và của mỗi doanh nghiệp. Muốn hội nhập và
mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài phải đảm bảo vững chắc những tiền đề bên
trong, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững vàng.
Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và
cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa gặp không ít thách thức. Cho nên cần tỉnh táo,
khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập kinh tế quốc tế
tuỳ theo đối tượng, trường hợp, thời điểm cụ thể, vừa đề phòng tư tưởng thụ động,
giản đơn, nôn nóng, phải kiên trì và giữ vững phương châm bình đẳng, cùng có lợi,
bảo vệ lợi ích quốc gia.
Thứ tư, cần có kế hoạch và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế hợp lý, phù hợp
với đặc điểm, trình độ phát triển của đất nước, đáp ứng các quy định của các tổ
chức kinh tế quốc tế mà Việt Nam tham gia, tranh thủ tối đa những ưu đãi giành
cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam.
Thực hiện nhất quán phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế
quốc tế, không để bất cứ quốc gia nào, tập đoàn kinh tế nước ngoài nào chiếm vị trí
độc quyền ở bất cứ lĩnh vực nào trong nền kinh tế nước ta.
Thứ năm, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế kết hợp chặt chẽ yêu cầu
giữ vững an ninh quốc phòng với việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế để tăng
cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, luôn đề cao cảnh giác, không mơ hồ trước

âm mưu của các thế lực thù định lợi dụng quan hệ kinh tế để thực hiện “diễn biến
hoà bình”.
b. Phương châm hội nhập.
Trên cơ sở những quan điểm trên, phương châm hội nhập được cụ thể hoá như
sau:
• Điều quyết định sự thành công và nhịp độ của hội nhập là sức cạnh tranh của nền
kinh tế, trong đó khả năng cạnh tranh của hàng hoá và các doanh nghiệp Việt Nam
đóng vai trò then chốt. Do đó, điều cốt yếu là sự chuẩn bị bên trong nhằm tạo ra
được các điều kiện kỹ thuật và pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp của nước ta
nâng cao nội lực và khả năng thích ứng với các điều kiện cạnh tranh; chủ động,
khẩn trương xây dựng và thực hiện chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách
hợp lý để nhanh chóng tăng cường chất lượng, hạ giá thành sản phẩm mà ta có lợi
thế cạnh tranh hoặc có tiềm năng để phát triển.
Các quá trình đàm phán và tiến trình tham gia các thể chế kinh tế quốc tế cần
phải dựa trên cơ sở không ngừng tăng hiệu quả và khả năng cạnh tranh kinh tế của
nước ta;
• Đổi mới bên trong và tiến trình hội nhập cần được tiến hành đồng bộ. Đối với một
số vấn đề, lĩnh vực, việc chuẩn bị bên trong cần chủ động đi trước một bước để
thúc đẩy hội nhập như điều chỉnh, bổ sung các luật lệ, cơ chế phù hợp với luật lệ và
tập quán quốc tế, trình độ phát triển của nền kinh tế và hoàn cảnh cụ thể của đất
nước, đồng thời vận dụng triệt để những ngoại lệ của các định chế quốc tế.
• Phấn đấu đàm phán, cam kết quốc tế có khả năng thực thi phù hợp với trình độ của
nước ta là một nước đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi với những ưu
đãi cần thiết về mức độ và thời gian thực hiện cam kết mở cửa thị trường mà các
định chế quốc tế dành cho các nước đang phát triển. Vận dụng các mối quan hệ
quốc tế đa dạng ở mọi cấp độ để tranh thủ tối đa sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ
quốc tế, tạo thế đàm phán tốt với tất cả các đối tác.
• Chủ động, khẩn trương với sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành và chính
quyền các cấp từ trung ương đến cơ sở, hết sức coi trọng hoạt động của các doanh
nghiệp, các đơn vị và tổ chức kinh tế thuộc tất cả các thành phần kinh tế, đặc biệt

là các doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện thuậnlợi cho các doanh nghiệp đóng
vai trò vừa là động lực, vừa là người trực tiếp thực hiện chủ trương hội nhập của
nước ta.
• Phải kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích bộ phận, trước mắt với lợi ích toàn thể, lâu dài
của đất nước. Trong việc xử lý mối quan hệ này cần ưu tiên lợi ích toàn cục và lâu
dài mà mục đích chung phải nhằm nâng cao không ngừng khả năng cạnh tranh của
các doanh nghiệp trong nước, tạo ra những sản phẩm chủ lực có chất lượng và hiệu
quả ngày càng cao.
• Trong quá trình hội nhập, một mặt cần luôn luôn nắm vững chiến lược và định
hướng cơ bản, mặt khác, cần xác định chủ trương cụ thể đối với từng khu vực, từng
nước, từng cơ chế, thậm chí với từng tập đoàn kinh tế lớn để khai thác được các
mặt có lợi, tránh được vị trí độc quyền của nước ngoài, tranh thủ mọi thời cơ, hạn
chế tối đa những thua thiệt không đáng có.
3.1.3. Định hướng phát triển trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam [13], [21], [25], [43], [51]
Xuất phát từ tình hình và điều kiện thực tế của đất nước, trong bối cảnh quốc
tế và khu vực, có thể thấy chiến lược thời kỳ tới 2001 - 2010 là đẩy mạnh CNH,
HĐH, tạo lập nền tảng cho việc cơ bản hình thành một nước công nghiệp trong giai
đoạn sau.
a. Trên con đường phát triển đã lựa chọn, nước ta không thể nào khác phải
từng bước thực hiện CNH, HĐH. Con đường CNH, như đã phân tích, trong điều
kiện của thế giới ngày nay, phải vận dụng tối đa những khả năng của cách mạng
khoa học và công nghệ, của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, gắn liền với
những lợi thế của nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn tiện và sâu sắc,
với những tiềm năng to lớn của nhân dân ta cách mạng và sáng tạo, để đưa đất
nước phát triển nhanh và bền vững, rút ngắn thời gian công nghiệp hoá so với các
nước đi trước, thực hiện từng bước mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh dần dần đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự lựa chọn chiến lược
này là một kết luận tất yếu rút ra từ quá trình phát triển và đổi mới hơn 10 năm
qua, từ một tầm nhìn về triển vọng phát triển của đất nước gắn với xu thế của thế

giới và thời đại.
Với việc thực hiện chiến lược 10 năm qua đã tạo ra những điều kiện và tiền đề
cơ bản để đẩy mạnh CNH, HĐH. Với chiến lược phát triển 10 năm tới, cần và có
thể tạo dựng nền tảng cho việc về cơ bản thực hiện CNH và xây dựng nước ta
thành một nước công nghiệp.
b. Cần có tầm nhìn dài hạn về lựa chọn chiến lược phát triển công nghiệp.
Lựa chọn chiến lược công nghiệp là việc xác định các mục tiêu và xem xét các
điều kiện đảm bảo thực hiện các mục tiêu đó, trong những bối cảnh và tình hình
thực tế, trong đó bao gồm cả môi trường chính sách. Các mục tiêu của việc lựa
chọn phát triển công nghiệp có thể nêu ra như sau: (1) Có tốc độ phát triển nhanh,
đóng góp phần quan trọng trong tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất
nước, góp phần nhanh chóng làm thay đổi cơ cấu kinh tế; (2) Đẩy nhanh quá trình
CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, qua đó làm xoay chuyển cơ cấu kinh tế và
cơ cấu lao động, nâng cao năng suất lao động xã hội, nâng cao sức cạnh tranh của
nền kinh tế; (3) Phát huy những lợi thế so sánh của đất nước, trước hết là đội ngũ
lao động đông đảo; (4) Góp phần hiện đại hoá nền kinh tế xã hội, rút ngắn khoảng
cách với các nước đi trước. Nâng cao mức sống của nhân dân, thu hẹp dần khoảng
cách giữa các vùng trong nước.
Nhận biết và đặt lại trọng tâm cho các ngành công nghiệp là một nội dung
trong chiến lược hội nhập tổng thể, trên cơ sở đó xác định các mức độ cam kết ràng
buộc với WTO. Điểm khó trong việc đưa ra các cam kết là nhận biết các ngành cần
có và có thể xuất hiện trong tương lai phù hợp với chiến lược công nghiệp hoá của
đất nước. Phát triển 3 thế hệ các ngành công nghiệp, phù hợp với các lợi thế so
sánh của đất nước. Việc phân ra 3 thế hệ ngành công nghiệp đã thể hiện tư tưởng
chiến lược của việc chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo các xu hướng: (1) Đi từ
những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lợi thế của Việt nam về nguồn lao động
và tài nguyên thiên nhiên (đặc biệt trong nông, lâm, thuỷ hải sản) sang các ngành
công nghiệp chế biến sâu; (2) Đi từ các ngành công nghiệp hạ nguồn, cần không
nhiều vốn, sang các ngành công nghiệp thượng nguồn trong mối liên kết công
nghiệp bền vững; (3) Nâng cấp công nghệ của ngành công nghiệp từ thấp đến cao,

gắn chặt chẽ phát triển công nghiệp với công nghệ. Tuy nhiên, việc chuyển dịch cơ
cấu đó có thể diễn ra vừa tuần tự, vừa đồng thời tuỳ theo các cơ hội cụ thể mà nền
kinh tế tạo ra được.
Trước mắt cần tập trung phát triển các ngành công nghiệp như may, da giầy,
các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu. Đồng thời cần từng bước chuẩn bị cho
việc phát triển các ngành công nghiệp chế biến thứ hai và thứ ba, đặc biệt các
ngành như công nghiệp cơ khí, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, những
ngành công nghiệp có vị trí quan trọng trong cơ cấu công nghiệp trong tương lai.
Có thể xem xét lựa chọn phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên theo các chỉ tiêu:
(1) Thu hút nhiều lao động; (2) Có thị trường cung cấp đầu vào và tiêu thụ sản
phẩm đầu ra, cả thị trường trong nước và quốc tế; (3) Tạo được mối liên kết công
nghiệp, có tác động lan toả đến chất lượng và năng suất đến các ngành công nghiệp
khác, góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội; (4) Tìm được nguồn vốn đầu
tư, Chính phủ không bao cấp; (5) Tạo được sự chuyển giao công nghệ, thu hút
được công nghệ mới, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp; (6)
Đảm bảo điều kiện môi trường, phát triển bền vững; (7) Có tác động đến các vấn
đề xã hội như việc làm, đói nghèo, cân đối phát triển vùng. Phát triển ngành công
nghiệp chế biến có chọn lọc, trước hết trên cơ sở nguồn tài nguyên sẵn có, cung
cấp nguyên liệu đầu vào, tạo cơ sở cho các ngành công nghiệp khác phát triển.
Việt Nam có một số nguồn tài nguyên như dầu khí, một số loại khoáng sản có
trữ lượng tập trung, đó là cơ sở để có thể phát triển một số ngành công nghiệp sản
xuất ra các loại nguyên liệu cho phát triển các ngành công nghiệp chế tác. Việc có
được các ngành công nghiệp sản xuất ra các loại nguyên liệu sẽ giảm nhập khẩu,
nhưng điều quan trọng hơn là sẽ tạo được mối liên kết trong nội bộ ngành công
nghiệp, có thể chủ động điều hoà các chính sách nhằm tăng khả năng cạnh tranh
công nghiệp. Tuy nhiên phát triển các ngành công nghiệp này đòi hỏi vốn đầu tư
lớn và yêu cầu công nghệ cao. Do đó phải cân nhắc thận trọng và cần có sự chuẩn
bị nhiều mặt, hạn chế sự lạc hậu về công nghệ. Tiêu chuẩn chất lượng và hiệu quả
là tiêu chuẩn hàng đầu để xem xét khi ra quyết định, vì đến nay không thể xem xét
theo quan điểm khép kín, các ngành công nghiệp này được coi là những ngành

công nghiệp sản xuất thay thế nhập khẩu là chủ yếu.
Nâng cao sức cạnh tranh của ngành công nghiệp là điều kiện tiên quyết đảm
bảo cho việc giảm thiểu những thiệt hại và tranh thủ tối đa các lợi ích trong quá
trình hội nhập. Nâng cao sức cạnh tranh cũng là một biện pháp quan trọng phát huy
các tiềm năng đã có trong ngành công nghiệp. Có ba yếu tố chính tác động tới sức
cạnh tranh là: (1) Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định với các thiết chế chính trị vững
chắc; (2) Chất lượng của môi trường kinh doanh; (3) Chiến lược của các doanh
nghiệp và năng lực hoạt động trên thị trường của các doanh nghiệp.
Để có một nền công nghiệp có tính cạnh tranh, chất lượng hoạt động và chiến
lược của các doanh nghiệp phải được nâng cao. Muốn vậy cần phải tiếp tục đổi
mới cơ chế quản lý, chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp, tổ chức kiểm toán các doanh nghiệp nhà nước, đẩy nhanh quá trình cổ
phần hoá, tạo điều kiện để doanh nghiệp có thể tăng khả năng tự chủ trong sản xuất
kinh doanh...
Doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân. Gần 90% doanh nghiệp công nghiệp của Việt Nam là doanh nghiệp vừa
và nhỏ. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là khai thác mặt năng động của
doanh nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh công nghiệp, tạo môi trường thu hút
mạnh mẽ khu vực tư nhân đầu tư phát triển công nghiệp. Những rủi ro đối với nhà
nước trong phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ không lớn so với phát triển các
doanh nghiệp lớn.
Trong khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ có một bộ phận rất quan trọng đó là
công nghiệp nông thôn. Công nghiệp nông thôn là những doanh nghiệp gần với
việc sử dụng nguyên liệu từ nông nghiệp và nông thôn hay các doanh nghiệp có thể
phân bố ở nông thôn, sử dụng nguồn lao động tại chỗ. Công nghiệp nông thôn do
đó có vai trò quan trọng tác động mạnh mẽ đến công nghiệp hoá nông nghiệp và
nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn từ khu vực nông nghiệp sang
công nghiệp và dịch vụ.
Cần có các chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, cụ
thể: (1) Hình thành những tổ chức hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc

biệt là một cơ quan của Chính phủ chịu trách nhiệm về những chính sách xúc tiến
doanh nghiệp vừa và nhỏ; (2) Hình thành một mạng lưới bảo lãnh tín dụng để hỗ
trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc vay vốn phát triển sản xuất; (3) Hình thành
các tổ chức tư vấn cung cấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ những thông tin về
thị trường; giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ nâng cấp công nghệ, nâng cao khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ...
c. Khu vực kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực công
nghiệp. Tạo một môi trường kinh doanh và môi trường đầu tư thông thoáng, thu
hút được mọi thành phần tham gia phát triển công nghiệp là rất cần thiết. Trước
mắt, một sân chơi bình dẳng cho mọi thành phần kinh tế cần được hình thành. Xoá
bỏ mọi mặc cảm đối với khu vực công nghiệp tư nhân. Cần phải tạo quan hệ lành
mạnh và hiệu suất giữa Nhà nước và doanh nghiệp để khơi dậy tiềm năng của các
doanh nghiệp. Phải chuyển từ chính sách chủ yếu là thanh tra, kiểm soát, cấp phát
sang chính sách chủ yếu là khuyến khích, tạo điều kiện, nâng đỡ hoạt động của
giới doanh nghiệp.
d. Hướng mạnh về xuất khẩu hội nhập với quốc tế và khu vực, đồng thời thay
thế nhập khẩu có hiệu quả là một định hướng quan trọng trong chiến lược phát
triển công nghiệp. Do nhu cầu của công nghiệp hoá và hiện đại hoá, cần hội nhập
kinh tế quốc tế rộng hơn và trình độ cao hơn nhằm tạo được thế đứng trên trường
quốc tế, tranh thủ nguồn vốn và công nghệ, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Phải hội nhập để thúc đẩy sự vươn lên của các doanh nghiệp trong nước, thích ứng
với điều kiện cạnh tranh quốc tế, khắc phục tình hình thị trường trong nước còn
hạn hẹp do sức mua còn thấp. Để đảm bảo hội nhập thành công, giữ vững độc lập
tự chủ, cần phát huy tối đa nội lực, gắn với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của
quốc gia và của các doanh nghiệp. Kết hợp có hiệu quả các yếu tố nội lực với việc
tiếp thu ngoại lực.
Hội nhập vừa là một cơ hội, nhưng đồng thời cũng vừa là một thách thức cho
các doanh nghiệp của Việt Nam. Tuy nhiên, nếu không vượt qua được thách thức
này thì sẽ có nguy cơ mất cơ hội, do đó nâng cao năng lực cạnh tranh là vấn đề
quan trọng hàng đầu để chuẩn bị cho việc tham gia hội nhập. Để nâng cao năng lực

cạnh tranh thì đồng thời với việc tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, cần nâng
cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Việc sắp xếp lại khu vực doanh
nghiệp nhà nước và tạo một môi trường thuận lợi cho khu vực sản xuất tư nhân,
trong đó đặc biệt là khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất cần thiết, cần
thực hiện đồng bộ và khẩn trương.
Bước vào giai đoạn hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu 2001 – 2020, thế và
lực của Việt Nam đã khác so với 10 năm trước đây. Đất nước đã thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng và năng lực sản xuất được cải thiện đáng kể, thị
trường được mở rộng, đời sống của nhân dân được nâng cao. Với việc hội nhập
vào ASEAN, ký kết hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ, chúng ta đã
thay đổi được vị thế của Việt Nam trong con mắt của cộng đồng quốc tế, tạo tiền
đề cho quá trình đàm phán gia nhập WTO (dự kiến vào năm 2006), nhằm đưa nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Để thực hiện đầy đủ quá
trình hội nhập vào ASEAN và AFTA trong thời gian tới, chúng ta cần có các định
hướng đúng đắn, cụ thể nhằm đưa ra những giải pháp hợp lý và vạch ra một lộ
trình tối ưu cho việc thực hiện các cam kết kinh tế - thương mại trong khuôn khổ
ASEAN. Nếu đặt mốc cho năm 2006 cho việc hội nhập hoàn toàn của Việt nam
vào ASEAN thì triển vọng hợp tác đó có thể qui tụ ở những nét chính sau:
• Qui mô thương mại hàng hoá - dịch vụ giữa Việt nam với các nước ASEAN ngày
càng được mở rộng. ASEAN là một thị trường khá lớn và khi Việt Nam hoàn thành
AFTA, hàng hoá của các nước ASEAN càng có điều kiện thuận lợi hơn trong việc
xâm nhập vào thị trường Việt Nam trong khi khả năng xuất khẩu gạo, dầu thô sang
khu vực này của Việt Nam sẽ giảm. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đối
với các nước chủ chốt trong ASEAN sẽ gia tăng với một tốc độ nhanh chóng với
các mặt hàng xuất của chúng ta sẽ là hải sản, nông sản, thực phẩm, cao su, than đá,
giày da… và mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt nam từ thị trường này chủ yếu
là phân bón, máy móc, thiết bị công nghệ cao, chất dẻo nguyên liệu, linh kiện điện
tử tin học…
• Quá trình chuyên môn hoá, hợp tác hoá và phân công lao động giữa Việt Nam với
các nước trong ASEAN ngày càng sâu sắc. Các mặt hàng mà Việt Nam sẽ tăng

cường tập trung sản xuất cho xuất khẩu sang thị trường các quốc gia trong ASEAN
là: cà phê, gạo, cao su, thuỷ sản… và đặc biệt là dầu mỏ cùng các sản phẩm dầu
mỏ. Về nhập khẩu, Việt Nam sẽ nhập nhiều mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật cao
do những mặt hàng này thắng thế trong cạnh tranh với các nhà sản xuất Việt Nam.
Thêm vào đó, các hình thức hợp tác thương mại và đầu tư sẽ được đa dạng hoá với
sự trợ giúp của công nghệ thông tin như thương mại điện tử có thể tạo ra một bước
ngoặt lớn trong hợp tác kinh tế quốc tế, nâng cao hơn nữa quá trình chuyên môn
hoá và phân công lao động giữa các nước thành viên. Điều này cũng cho thấy,
chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam phải gắn với chiến lược phát triển kinh
tế chung của ASEAN và chịu ảnh hưởng chung một khi quan hệ hợp tác kinh tế
ngày càng khăng khít.
• Cơ cấu thương mại và hợp tác đầu tư giữa Việt Nam với ASEAN ngày càng đổi
mới. Hoa Kỳ sẽ là nước chiếm tỷ trọng lớn trong quan hệ thương mại và đầu tư với
Việt Nam nhằm tạo thế ảnh hưởng và lãnh đạo ASEAN, tạo đối trọng với Trung
Quốc. Mặt khác, một số mặt hàng phi dầu mỏ và nông sản của Việt Nam xuất khẩu
sang các nước ASEAN sẽ giảm so với trước đây do Hiệp định thương mại Việt
Nam – Hoa Kỳ có hiệu lực, nhiều hàng hoá nước ta được xuất trực tiếp sang Hoa
Kỳ và thị trường Bắc Mỹ, không cần qua các nước trung gian ở khu vực này.
• Các liên kết về tài chính, tiền tệ sẽ ngày càng chặt chẽ hơn, nhằm kích thích sự lưu
chuyển các dòng vốn đầu tư giữa các nước, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và khả
năng đối phó với các cuộc khủng hoảng tài chính trong tương lai. Triển vọng này
được nhấn mạnh trong Kế hoạch hành động Hà nội của các nước ASEAN, với
chương trình 6 năm (1999 – 2004), bao gồm các nội dung cơ bản: tăng cường sử
dụng các đồng tiền ASEAN, phát triển thị trường vốn, tăng cường giám sát thường
xuyên các dòng vốn, hợp tác trong tiến trình tự do hoá dịch vụ tài chính, nghiên
cứu khả năng thiết lập đồng tiền chung ASEAN, tăng cường hợp tác về thuế và tài
chính Nhà nước, hợp tác về bảo hiểm và tăng cường hệ thống tài chính. Kế hoạch
này được xem là bước đầu tiên trong một loạt kế hoạch hành động dẫn đến mục
tiêu cảu Tầm nhìn ASEAN 2020.
Tại hầu hết các Hội nghị gần đây, các nước ASEAN đều nhất quán tinh thần

hợp tác giữa các nước thành viên vì sự phát triển ổn định và lâu dài trong những
năm tới, nhằm biến Đông Á thành khu vực thịnh vượng và năng động nhất thế
giới. Tại Hội nghị cấp cao không chính thức lần thứ 4 họp tại Singapore vào tháng
11/ 2000 vừa qua, các nhà lãnh đạo ASEAN đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
tăng cường liên kết ASEAN, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển, về công
nghệ, thông tin và củng cố tinh thần đoàn kết trong phạm vi toàn khối đối với sự
phát triển của khu vực.
3.2. ĐỊNH HƯỚNG THỰC HIỆN CÁC CAM KẾT VỚI AFTA VÀ
NHỮNG NỘI DUNG CÔNG VIỆC CHỦ YẾU CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.2.1. Định hướng chủ yếu cho việc thực hiện có hiệu quả các cam kết
kinh tế - thương mại với ASEAN và AFTA [7], [20], [57]
Nhìn chung, nguyên tắc chủ đạo để định hướng cho việc thực hiện một cách
có hiệu quả các cam kết kinh tế - thương mại của Việt Nam trong khuôn khổ
ASEAN và AFTA là đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, kiên trì, bền bỉ điều chỉnh lại
hệ thống cơ chế chính sách cho phù hợp với những qui tắc và chuẩn mực quốc tế
trong các khối này, thích ứng với những điều kiện cụ thể của đất nước. Khi tham
gia vào ASEAN và AFTA, Việt Nam cũng như các nước khác phải chấp nhận “luật
chơi”, điều này có nghĩa là chúng ta phải thừa nhận các nguyên tắc cũng như các
nghĩa vụ trong phạm vi ASEAN và AFTA: dành Đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN), Đãi
ngộ quốc gia (NT), các ưu đãi miễn trừ về thuế và phi thuế quan, chấp nhận cùng
các nước thành viên mở cửa thị trường cho nhau trên cơ sở đàm phán nhưng thực
hiện từng bước theo một lộ trình thời gian nhất định. Do đó, có thể nói, việc thực
hiện các cam kết kinh tế - thương mại của Việt Nam đối với ASEAN và AFTA
trong thời gian tới được tiến hành theo những định hướng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đặt trọng
tâm trước hết vào lĩnh vực hợp tác kinh tế - thương mại với các nước ASEAN và
AFTA, đồng thời quan tâm một cách đúng mức các lĩnh vực khác. Đây không chỉ
là định hướng chung cho ASEAN và AFTA mà còn là định hướng chung cho toàn
bộ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Định hướng này được khẳng

định trong chiến lược phát triển xuất nhập khẩu Việt Nam, giai đoạn 2001 – 2010
trong đó coi thị trường Châu Á - Thái bình dương là thị trường trọng điểm để phát
triển thương mại quốc tế, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo điều
kiện để kinh tế Viêt Nam hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế thế giới.
Thứ hai, tiến trình thực hiện các cam kết kinh tế - thương mại của Việt Nam
trong ASEAN và AFTA cần được tiến hành theo lộ trình hợp lý, nhất quán với
chiến lược phát triển kinh tế xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra tại Đại hội
IX. Lộ trình này được vạch ra nhằm đảm bảo hoàn thành các cam kết đúng thời
gian, nhưng được linh hoạt trong toàn bộ quá trình, phù hợp với điều kiện Việt
Nam là một nước có nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi.
Thứ ba, thực hiện các cam kết kinh tế - thương mại của Việt Nam trong khuôn
khổ ASEAN và AFTA phải phục vụ cho việc rút ngắn lộ trình gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) cảu Việt Nam. Đây là mục tiêu lớn mà Việt Nam ưu
tiên trong thời gian tới và quá trình thực hiện các cam kết kinh tế - thương mại của
Việt Nam trong ASEAN và AFTA được vận hành theo hướng tạo tiền đề cho Việt
Nam tham gia WTO.
Thứ tư, thực hiện các cam kết kinh tế - thương mại của Việt Nam trong khuôn
khổ ASEAN và AFTA phải tranh thủ được vốn và công nghệ bên ngoài, phát huy
tối đa nội lực, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững một nền kinh tế mở, đa thành
phần. Ơ đây cần nhấn mạnh các biện pháp hỗ trợ nền sản xuất trong nước, chuẩn bị
cho các doanh nghiệp thích ứng với môi trường kinh doanh mới, khi Việt Nam
hoàn thành các cam kết trong khuôn khổ ASEAN và AFTA.
3.2.2. Những nội dung công việc chủ yếu đối với doanh nghiệp Việt Nam
trong thời gian tới [4], [7], [22], [32], [51]
Xuất phát từ những yếu kém đã nêu ở trên, các doanh nghiệp Việt Nam cần
chủ động nâng cao sức cạnh tranh của mình. Khi AFTA được thực hiện thì hầu như
các doanh nghiệp không còn cơ may được nhận sự bảo hộ trực tiếp của Chính phủ.
Bởi vậy, để thực hiện hội nhập thành công vào AFTA, các doanh nghiệp cần thực
hiện tốt các công việc chủ yếu sau đây:
3.2.2.1. Về mặt nhận thức.

• Để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, con đường tất yếu là phải đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực.
• Cũng cần nhận thức rõ rằng: hội nhập kinh tế quốc tế về bản chất là quá trình vừa
hợp tác vừa đấu tranh mở rộng thị trường cho hàng hoá và thương nhân nước ta
vươn mạnh ra thị trường quốc tế và khu vực, đồng thời tạo cơ hội tranh thủ những
tiến bộ về khoa học, công nghệ mới phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nước nhà, trong đó nâng cao sức cạnh tranh của chính mình là
yếu tố quyết định thành công.
• Có thể nói Đảng ta đã có quyết sách rất đúng đắn và kịp thời cho quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế. Xu thế chung của quốc tế là chuyển đổi cơ cấu kinh tế cho
phù hợp với những tiến bộ như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật,
đồng thời đẩy nhanh liên minh, liên kết khu vực và quốc tế để tạo thế và lực cạnh
tranh giành giật thị trường, mở đường cho sản xuất phát triển. Tất cả các nước lớn,
nhỏ trên thế giới đang vận động theo xu thế này bởi họ nhận thức rằng nếu đơn
độc, đứng ngoài cuộc sẽ bị cô lập, nghèo nàn, lạc hậu. Chính vì thế, Nghị quyết
Đại hội VIII đã vạch rõ: “phải đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới”. Đây cũng là một trong những nội dung rất quan trọng của đường lối đổi mới
mà Đảng ta đã khởi xướng ngay từ năm 1986. Truyền thống hàng ngàn đời nay của
cha ông ta là: “giàu vì bạn”. Do vậy, để thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng và văn minh chúng ta không thể không hội nhập. Đổi mới với Hội nhập
kinh tế quốc tế là phù hợp với nhau. Hội nhập để thực hiện đổi mới. Đổi mới để
đẩy nhanh quá trình hội nhập trên cơ sở phát huy nội lực, đẩy mạnh hợp tác quốc
tế, giữ gìn bản sắc dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa, phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
• Mục tiêu cuối cùng của hội nhập về mặt kinh tế là mở rộng thị trường và tranh thủ
tiếp thu khoa học – kỹ thuật mới, tạo thế và lực mới cho đất nước ta vươn lên
ngang tầm quốc tế. Trong quá trình đó, thách thức và vận hội đan xen. Chúng ta
cần các nước mở cửa thị trường cho hàng hoá, dịch vụ và thương nhân của chúng
ta, thì ngược lại họ cũng cần chúng ta như vậy. Với nguyên tắc có đi có lại thì

những yêu cầu về cắt giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan để mở đường cho
thương mại và đầu tư phát triển, thực hiện tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và
đầu tư đã trở thành nhu cầu chung của tất cả các nước trên thế giới. Điểm khác biệt
giữa các nước chỉ là vấn đề thời gian. Xu hướng phổ biến hiện nay là các nước
phát triển đòi hỏi quá trình trên được thực thi nhanh. Việt nam và các nước đang
phát triển và chậm phát triển khác không thể thực hiện được bởi trình độ phát triển
kinh tế và sức cạnh tranh còn thấp. Trong quá trình này, cộng đồng quốc tế, WTO
tuy vận động cho tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư nhưng vẫn thừa
nhận sự cần thiết của bảo hộ vì trình độ phát triển của các nước khác nhau. Tuy
nhiên họ chỉ thừa nhận bảo hộ bằng các biện pháp thuế quan, không thừa nhận bảo
hộ bằng các biện pháp phi thuế quan khác và bảo hộ phải hợp lý và có giới hạn
thời gian. Ví dụ, các nước ASEAN ấn định mốc thực hiện AFTA với nước gia nhập
trước là năm 2003; với Việt nam là năm 2006; Lào, Mianma là 2008. APEC ấn
định mốc tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư vào năm 2010 với các nền
kinh tế phát triển và năm 2020 với các nền kinh tế đang phát triển.
• Thực tiễn trên đây chỉ ra rằng: những điều mà các tổ chức kinh tế quốc tế và khu
vực đòi hỏi nước ta cam kết cũng chính là những điều nước ta cần đòi hỏi ở họ để
mở đường cho hàng hoá và thương nhân của chúng ta vươn ra thị trường quốc tế.
Những ân hạn về mức độ và thời gian cam kết sẽ được thực hiện thông qua đàm
phán, có đi có lại. Như vậy, nhiệm vụ hàng đầu của các doanh nghiệp cả sản xuất
và kinh doanh là phải biến các cam kết quốc tế thành chương trình hành động cụ
thể của mình, bằng chính sức mình, năng động, sáng tạo vươn lên, mạnh dạn đổi
mới khoa học – kỹ thuật, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh để vươn ra khẳng
định mình trên thị trường quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng
và Nhà nước. Chúng ta đang trong quá trình thử nghiệm, vừa làm vừa rút kinh
nghiệm, vận hội cũng nhiều nhưng thách thức cũng không nhỏ. Do vậy, những
nhận thức cơ bản về tiến trình này cần được quán triệt thông suốt từ trung ương tới
các điạ phương, từ các cấp quản lý tới các nhà doanh nghiệp, cả sản xuất và kinh
doanh trong cả nước để có định hướng và hành động đúng đắn, giữ gìn được bản

sắc dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy phát huy nội lực làm nền tảng,
tranh thủ hợp tác quốc tế để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nước nhà.
3.2.2.2. Về mặt hành động.
Trước mắt các doanh nghiệp cần triển khai sớm sáu việc sau đây:
• Tổ chức nghiên cứu quán triệt các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung
ương Đảng về vấn đề phát huy nội lực và hợp tác kinh tế quốc tế, nhất là Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII) để có định
hướng đúng đắn, đồng thời đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu rõ nội dung cụ thể của các
chương trình hợp tác của các tổ chức WTO, ASEAN, APEC, ASEM, vv…, nhằm
định hình được rõ nết những việc mình cần làm, trước mắt và lâu dài, cho phù hợp
với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế chung của cả nước.
• Cần khẳng định rằng trong quá trình hội nhập kinh tế vươn ra thị trường quốc tế và
khu vực, Nhà nước chỉ hỗ trợ, tạo môi trường pháp lý thông thoáng và thuận lợi.
Sự thành công tới đâu trong quá trình này là tuỳ thuộc vào sức cạnh tranh, tính
năng động, sáng tạo của các doanh nghiệp. Do vậy, các doanh nghiệp phải thực sự
vào cuộc, vì sự sống còn của mình. Tư tưởng trông chờ vào Nhà nước hỗ trợ tất
yếu sẽ dẫn tới sự đào thải. Trong quá trình cạnh tranh vươn lên này, Nhà nước sẽ
hỗ trợ thích đáng cho các doanh nghiệp, nhưng sự hỗ trợ đó phải có chọn lọc, có
điều kiện, có thời gian. Như vậy, con đường tất yếu cho các doanh nghiệp là: kết
hợp chặt chẽ sản xuất với kinh doanh. Mỗi đơn vị cần có chiến lược riêng cho đơn
vị mình. Một mặt qui hoạch sản xuất, điều chỉnh cơ cấu, ưu tiên tập trung đầu tư
cho sản xuất các mặt hàng chủ lực có thế mạnh, có khả năng cạnh tranh của đơn vị,
của địa phương mình. Không nên đầu tư dàn trảI, cần chuyên sâu theo thế mạnh.
Một mặt cần đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh, khai thác lợi thế từ các cam kết
trong hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu
tư. Kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất và kinh doanh tiêu thụ trên thị trường trong và
ngoài nước. Xem thị trường trong nước là hậu thuẫn, là thế mạnh cho việc thâm
nhập thị trường nước ngoài.
• Cần nghiên cứu nắm vững cam kết cụ thể của các nước đối với nước ta, và của

nước ta đối với các nước về vấn đề ưu đãi thuế quan, các cam kết cắt giảm hàng
rào phi thuế quan, cắt giảm quota, chế độ giấy phép, thủ tục và chế độ hải quan,
các qui định về tiêu chuẩn chất lượng, kiểm dịch động, thực vật, … Các doanh
nghiệp cần đảm bảo rằng các thông tin, tư liệu trên đây phải luôn luôn cập nhật tới
tay đơn vị mình kịp thời. Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Bộ Thương
mại và các Bộ, ngành chủ quản là các cơ quan có trách nhiệm phải cung cấp,
hướng dẫn các doanh nghiệp phân tích, sử dụng các thông tin, tư liệu này.
• Mỗi đơn vị, doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ cần lập ngay bộ phận chuyên trách, thu
thập nghiên cứu các tài liệu thông tin nói trên để biến các cam kết quốc tế thành
chương trình hành động của đơn vị mình.
Ví dụ: Thực hiện CEPT/AFTA, mặt hàng giấy bìa không tráng, ding làm nền
cho giấy bồi tường (mã số HS 4802.40):
Việt Nam cam kết: thuế suất từ 10% (1998) giảm còn 5% (2004).
Thái lan cam kết: thuế suất từ 20% (1998) giảm còn 5% (2004)
Vậy doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mặt hàng này cần:
+ Thực hiện đúng các thủ tục để được hưởng ưu đãi thuế nói trên khi đàm
phán, ký kết, giao hàng với bạn hàng của mình ở Thái lan, nhằm đẩy mạnh được
xuất khẩu sang thị trường này.
+ Nghiên cứu đối mới công nghệ, đổi mới quản lý, tăng năng suất để đảm
bảo rằng với mức thuế Việt Nam cam kết như trên, dù mặt hàng của các nước
ASEAN có nhập vào Việt Nam cũng không thể cạnh tranh được với mặt hàng do
nước ta sản xuất;
+ Theo hướng trên, các doanh nghiệp cần xây dựng chương trình hành động
cụ thể của mình kết hợp giữa năng lực sản xuất với năng lực kinh doanh để đảm
bảo không ngừng nâng cao sức cạnh tranh, kết hợp với các lợi thế cam kết quốc tế,
đưa được hàng của mình ra thị trường nước ngoài, khẳng định được vị trí trên
trường quốc tế.
• Tập trung xây dựng chiến lược doanh nghiệp để đạt được mục tiêu phát triển hữu
hiệu nhất ở tầm dài hạn:

×