Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN TIÊU THỤ HÀNG HOÁ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ KINH DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.97 KB, 32 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN TIÊU THỤ HÀNG HOÁ VÀ
XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ KINH DOANH
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HẠCH TOÁN TIÊU THỤ HÀNG HOÁ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT
QUẢ KINH DOANH .
1. Khái niệm và đặc diểm của hàng hoá.
Hàng hoá là sản phẩm đã kết thúc giai đoạn cuối cùng của một quy trình
công nghệ sản xuất vầ đã được kiểm tra bảo đảm đủ tiêu chuẩn chất lượng và có
thểnhập kho hay đem bán.
Hàng hoá thực chất không giống nhau nhưng có cùng đặc điểm:
- Hàng hoá là sản phẩm đã hoàn tất ở giai đoạn cuối cùng của quy trnhf công
nghệ để dùng sản xuất ra hàng hoá đó, hoặc do các doanh nghiệp sản xuất ra hay
do thuê ngoài gia công chế biến.
- Hàng hoá là bộ phận đem đi tiêu thụ chủ yếu của các doanh nghiệp .
2. Tiêu thụ được thực hiện như thế nào ?
Tiêu thụ hàng hoá là quá trình trao đổi để thực hiện giá trị của hàng hoá, tức
là chuyển hoá vốn của doanh nghiệp từ trạng thái của vật chất tiền tệ và hình thành
kết qủa của bán hàng, trong đó doanh nghiệp giao hàng cho khách hàng và khách
hàng trả tiền cho doanh nghiệp theo giá thoả thuận. Thông qua quá trình tiêu thụ,
nhu cầu của người sử dụng một phần nào đó được thoả mãn và giá trị của hàng hoá
đó được thực hiện .
Quá trình tiêu thụ cơ bản được chia làm hai giai đoạn :
- Giai đoạn thứ nhất: Đơn vị bán xuất giao hàng cho đơn vị mua thông qua
hợp đồng kinh tế đã được ký. Đây là quá trình vận động của hàng hoá nhưng chưa
xác định được kết quả của việc bán hàng.
- Giai đoạn thứ hai: Khi khách hàng nhận được hàng theo đúng chủng loại
trên hợp đồng kinh tế, khách hàng trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền. Đến đây quá
trình bán hàng kết thúc, hàng hoá được coi là tiêu thụ và hình thành kết quả kinh
doanh .
Những đặc điểm của quá trình tiêu thụ :
- Có sự thỏa thuận giữa người mua, người bán về số lượng, chất lượng chất
loại của hàng hoá trên cơ sở hợp đồng kinh tế.


- Có sự thay đổi quyền sở hữu, quyền sử dụng hàng hoá từng người bán sang
người mua thông qua quá trình bán hàng.
- Người bán giao cho người mua một lượng hàng hoá và nhận được tiền
hoặc được chấp nhận thanh toán. Khoản tiền này được gọi là doanh thu bán hàng,
được dùng để bù đắp các khoản chi phí đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh
doanh và hình thành nên kết quả của việc tiêu thu hàng hoá trong kỳ của doanh
nghiệp.
Tiêu thụ hàng hoá bao gồm :
- Tiêu thụ ra ngoài: Là việc bán hàng cho các đơn vị khác hoặc cá nhân
trong và ngoài doanh nghiệp .
- Tiêu thụ nội bộ: Là việc bán hàng giữa các đơn vị thành viên cùng trong
tổng công ty, tập đoàn ...
Khi tiêu thụ hàng hoá được thực hiện thì doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa
vụ với Nhà nước theo luật định tính trên khối lượng sản phẩm tiêu thụ ra ngoài
doanh nghiệp hoặc tiêu thụ nội bộ .
Giá bán đơn vị sản phẩm là giá bán thực tế ghi trên hoấ đơn GTGT, là căn
cứ đểtính doanh thu bán hàng thực hiện được trong kỳ.
3. Các phương thức tiêu thụ hàng hoá :
Có 4 phương thức tiêu thụ hàng hoá chủ yếu.
a. Phương thức tiêu thụ trực tiếp :
Tiêu thụ trực tiếp là phương thức giao hàng cho người mua trực tiếp tại kho
(hoặc trực tiếp taị phân xưởng không qua kho) của doanh nghiệp. Hàng hoá khi
bàn giao cho khách hàng được khách hàng trả tiền hay chấp nhận thanh toán, số
hàng hoá này chính thức coi là tiêu thụ thì khi đó doanh nghiệp bán hàng mất
quyền sở hữu về số hàng hoá đó. Phương thức này bao gồm bán buôn bán lẻ:
- Bán buôn:
Bán buôn là quá trình bán hàng cho các đơn vị sản xuất các đn vị kinh doanh
thương mại để tiếp tục đưa vào quá trình sản xuất, gia công chế biến tạo ra sản
phẩm mới hoặctiếp tục được chuyển bán. Do đó đối tượng của bán buôn rất đa
dạng và phong phú có thể là cơ sở sản xuất, đơn vị kinh doanh thương mại trong

nước và ngoài nước hoặc các công ty thương mại tư nhân.
Đặc trưng của phương thức này là kết thúc nghiệp vụ bán hàng, hàng hoá
vẫn nằn trng lĩnh vực lưu thông, chưa đivào lĩnh vực tiêu dùng. Hàng bán theo
phương thức này thường là với khối lượng lớn và nhiều hình thức thanh toán. Do
đó muốn quản lý tốt thì phải lập chứng từ cho từng lần bán .
Khi thực hiện bán hàng, bên mua sẽ có người đến nhận hàng trực tiếp tại kho
của doanh nghiệp. Khi người nhận đã nhận đủ số hàng và ký xác nhận trên chứng
từ bán hàng thì số hàng đó không thuoọc quyền sở hữu của doanh nghiệp nữa mà
được coi là hàng đã bán. Khi bên mua trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán thì doanh
nghiệp hạch toán vào doanh thu và doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ Nhà
nước.
Chứng từ kế toán sử dụng là hoá đơn GTGT hoặc phiếu xuất kho do doanh
nghiệp lập, chứng từ này được lập thành 3 liên: 1 liên giao cho người nhận hàng, 2
liên chuyển cho phòng kế toán để làm thủ tục thanh toá.
- Bán lẻ:
Theo hình thức này, hàng hoá đượcbán trực tiếp cho người tiêudùng, bán lẻ
là giai đoạn cuối cùng của quá trình vận động của hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi
tiêu dùng. Đối tượng của bán lẻ là mọi cá nhân trongvà ngoài nước muốn có một
giá trị sử dụng nào đó không phân biệt giai cấp, quốc tịch.
Đặc trưng cùa phương thức bán lẻ làkết thúc nghiệp vụ bán hàng thì sản
phẩm rời khỏi lĩnh vực lưu thông đi vào lĩnh vực tiêu dùng giá trị sử dụng của sản
phẩm được thực hiện. Hàng bán lẻ thường có khối lượng nhỏ, và thanh toán ngay
và thường bằng tiền mặt nên thường ít lập chứng từ chotừng lần bán. Bán lẻ
đượcchia làm 2 hình thức:
+.Bán lẻ thu hồi trực tiếp .
+ Bán lẻ thu hồi tập trung.
b. Phương thức tiêu thụ theo phương thức chuyển hàng chờ chấp nhận.
Căn cứ vào hợp đồng đã ký, đến ngày giao hàng, doanh nghiệp sẽ xuất kho
để chuyển hàng cho bên mua bằng phương tiện của mình hoặc đi thuê ngoài đến
địa điểm đã ghi trong hợp đồng, chi phí vận chuyển này do bên nào chịu tuỳ thuộc

vào sự thoả thuận của hai bên và được ghi trong hợp đồng kinh tế. Hàng gửi đi vẫn
thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, khi người mua thông báo đã được nhận
hàng vàchấp nhận thanh toán thì số hàng đó được coi là tiêu thụ, doanh nghiệp
hạch toán và doanh thu.
Chứng từ sử dụng trong trường hợp này là hoá đơn GTGT hoặc hoá đơn
kiêm phiếu xuất kho do doanh nghiệp lập, chứng từ này được lập thành 4 liên: 1
liên gửi cho người mua, 2 liên gửi cho phòng kế toán để làm thủ tục thanh toán, 1
liên thủ kho giữ .
c. Phương thức bán hàng qua các đại lý ( ký gửi) .
Hàng hoá gửi đại lý bán vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp và chưa
được coi là tiêu thụ.Doanh nghiệp chỉ được hạch toán và doanh thu khi bên nhận
đại lý thanh toán tiền hoặc chấp nhận thanh toán. Khi bán được hàng thì doanh
nghiệp phải trả chongười nhận đạilý một khoản tiền gọi là hoa hồng. Khoản tiền
này được coi như một phần chi phí bán hàng và được hạch toán vào tài khoản bán
hàng .
Doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp thuế tiêu thụ mà không được trừ đi phần hoa
hồng trả cho bên nhận đạilý.
* Các trường hợp hàng hoá gửi đi được coi là tiêu thụ .
- Hàng hoá bán xuất hiện trong phương thức bán hàng trực tiếp.
- Hàng hoá gửi bán chỉ được coi làtiêu thụ và hạch toán vào doanh thu vào
hàng gửi bán trong các trường hợp sau :
+ Doanh nghiệp nhận được tiền do khách hàng trả.
+ Khách hàng đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán.
+ Khách hàng đã ứng trước số tiền mua hàng về số hàng sẽ chuyển đến.
+ Số hàng gửi bán áp dụng phương thức thanh toán theo kế hoạch thông qua
nhân hàng.
d. Phương thức bán hàng trả góp:
Theo phương thức này, khi giao hàng cho người mua thì lượng hàng chuyển
giao được coi là tiêu thụ và doanh nghiệp mất quyền sở hữu lượng hàng đó. Theo
phương thức này người mua sẽ trả tiền làm nhiều lần theo hợp đồng ban đầu và giá

bán bao giờ cũng cao hơn giá bán theo phương thức thông thường. Phần chênh
lệch này chính là tiền lãi phát sinh do khách trả chậm, trả nhiều lần, số tiền lãi này
được hạch toán vào toản thu nhập của hoạt động tài chính. Doanh nghiệp bán hàng
được phản ánh ngay tại thời điểm giao hàng cho khách hàng theo giá bán lẻ bình
thường. Người mua sẽ thanh toán lần đầu tại thời điểm mua. Số tiền còn lại người
mua chấp nhận thanh toán dần ở các kỳ tiếp theo và phải chịu một tỷ lệ lãi xuất
nhất định. Thông thường số tiền thanh toán ở các kỳ bằng nhau, trong đó một phần
là doanh thu gốc một phần là lãi suất trả chậm.
e. Phương thức tiêu thụ nội bộ.
Tiêu thụ nội bộ là việc mua bán sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ giữa
các đơn vị chính với các đơn vị trực thuộc hay giữa các đơn vị trực thuộc ới nhau
trong cùng một công ty, tập đoàn, liên hiệp các xí nghiệp ...Ngoài ra , coilà tiêu thụ
nội bộ còn bao gồm các khoản sản phẩm, hàng hoá dịch vụ xuất biến, tăng, xuất trả
lương, thưởng, xuất dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
4. Các yêu cầu quản lý tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả kinh doanh .
a. Nội dung yêu cầu quản lý nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá và xác định kết
quả kinh doanh
- Nắm chắc sự vận động của từng nhóm, loại hàng hoá trong quá trình xuất,
nhập và tồn kho trên các chỉ tiêu số lượng, chất lượng và giá trị, theo dõi tình hình
thực hiện kế hoạch bán ra ở từng cửa hàng, bộ phận kinh doanh xuất phát từ
nguyên tắc nhà quản lý phải biết kinh doanh mặt hàng nào có hiệu qủa và có triển
vọng nhất. Việc quản lý chủ yếu kết thức khi người sở hữu hàng hoá được chuyển
giao và doanh nghiệp có doanh thu bán hàng.
- Nắm bắt, theo dõi chặt chẽ việc thực hiện biển giá cả hợp lý cho từng loại
sản phẩm hàng hoá, từng phương thức bán hàng, từng địa điiểm kinh doanh. Có
làm tốt việc quản lý giá sẽ giúp hàng hoá của doanh nghiệp thích ứng được với thị
trường, tiêu thụ hàng hoá được nhiều, đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu của người
tiêu dùng.
- Quản lý, đôn đốc thu hồi nhanh và đầy đủ tiền bán hàng cụ thể là kiểm tra
số tiền thu được sau khi tiêu thụ được hàng chuyển về doanh nghiệp dưới hình thức

nào, số lượng là bao nhiêu, chiều hướng phát sinh các khoản nợ khó đòi như thế
nào..... kể từ khi doanh nghiệp ký kết hợp đồng cho đến khi doanh nghiệp thực sự
thu được tiền và các nghiệp vụ phát sinh trong kỳ như chiết khấu, giảm giá, hàng
bán bị trả lại, nhận trước tiền hàng. Sau khi quá trình tiêu thụ kết thúc cần phải
quản lý việc xác định kết quả kinh doanh, đảm bảo tính đúng, tính đủ kết quả kinh
doanh đã đạt được và thực hiện nghiêm túc cơ chế phân phối lợi nhuận ( nếu có).
Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước.
b. Nội dung yêu cầu kế toán hàng hoá và xác định kết quả kinh doanh.
- Kết hợp hạch toán tổng hợp với hạch toán chi tiết. Để thực hiện nội dung
này cần kết hợp kế toán tài chính và kế toán quản trị, kế toán tài chính cung cấp
các thông tin về tình hình tài chính của toàn doanh nghiệp, được thể hiện cụ thể
trên hệ thống các báo cáo tài chính của kế toán và nhằm mục đích cung cấp thông
tin cho đối tượng sử dụng thông tin bên ngoài doanh nghiệp. Trái lại, kế toán quản
trị phải cung cấp hà nộiững số liệu kế toán kịp thời, thích hợp, chi tết cụ thể cho
người sử dụng thông tin trong nội bộ doanh nghiệp mà chủ yếu là ban lãnh đạo
doanh nghiệp. Kế toán quản trị không mang tính pháp lệnh và các báo cáo của nó
không được phổ biến rộng rãi ra ngoài doanh nghiệp.
Công tác tổ hạch toán kế toán tronh doanh nghiệp phải được xây dựng theo
đúng yêu cầu quản lý của doanh nghiệp giúp cho nhà quản lý có thể nắm bắt được
quá trình hoạt động của mỗi bộ phận, đánh giá đúng hiệu quả kinh doanh theo từng
mặt hàng, nhóm hàng và từng địa điểm kinh doanh.
- Các thông tin do kế toán cung cấp phải đầy đủ và có ích cho người sử dụng
thông tin. Chính vì vậy hạch toán quá trình này phải dựa trên các chuẩn mực kế
toán hiện hành, đồng thời phải biết linh hoạt trong từng điều kiện cụ thể song
không quên các nguyên tắc cơ bản trong hệ thống bán hàng.
Trong công tác hạch toán các nghiệp nêu trên, nếu thực hiện tốt các yêu cầu
đã trình bày sẽ góp phần thực hiện tốt chức năng của kế toán. Các thông tin mà kế
toán cung cấp sẽ trở nên thích hợp, góp phần giúp cho các nhà quản lý đưa ra
những quyết định đúng đắn cho công tác tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả
kinh doanh, tạo điều kiện tốt cho phát triển doanh nghiệp.

5. Vai trò của kế toán trong quản lý tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả
kinh doanh.
a. Ý nghĩa của việc tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả kinh doanh.
Tiêu thụ là một quá trình lao động nghiệp vụ kỹ thuật phức tạp của các
doanh nghiệp,nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội cũng như sự tồn tại của
doanh nghiệp. Chỉ có thông tiêu thụ thì tính hữu ích của hàng hoá mới được thực
hiện, mới được xác định về giá trị và thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Đồng
thời tiêu thụ cũng là công tác xã hội,chính trị, nó biểu hiện quan hệ giữa hàng và
tiền, giữa người mua và người bán. Việc thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá ở doanh
nghiệp này là cơ sở, điều kiện tiền đề để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ
hàng hoá ở các đơn vị kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân.
Tiêu thụ, nếu xét trên phạm vi toàn xã hội là điều kiện để tiến hành tái sản
xuất xã hội.Bởi lẽ, trong 4 khâu của quá trình tái sản xuất xã hội có mối quan hệ
mật thiết với nhau, một khâu có vấn đề sẽ ảnh hưởng không tốt tới các khâu khác.
Ngoài ra tiêu thụ còn góp phần điều hoà giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa khả
năng và nhu cầu, giữa hàng và tiền.... là điều kiện đảm bảo sự phát triển cân đối
trong từng nghành, từng khu vực cũng như trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Tiêu thụ là vấn đề cần quan tâm hơn cả trong nền kinh tế thị trường và ngày
càng trở nên quân trọng khi kinh tế thị trường phát triển ở giai đoạn cao. Kinh tế
thị trường là kiểu tổ chức kinh tế xã hội trong đó các quan hệ kinh tế, pKinh tế thị
trường là kiểu tổ chức kinh tế xã hội trong đó các quan hệ kinh tế, phân phối sản
phẩm, phân chia lợi ích đều cho các quy luật của thị trường điều tiết với đặc trưng
là mối chủ thể kinh tế theo đuổi mục đích kinh doanh của riêng mình nếu thấy lợi,
còn vấn đề bán được hay không lại do thị trường quyết định. Trong điều kiện kinh
tế cơ chế mở, hàng hoá bung ra như hiện nay, doanh nghiệp nào tạo được uy tín
với khách hàng, doanh nghiệp đó sẽ bán được hàng và bán với số lượng lớn, sẽ tiếp
tục tồn tại và phát triển. Ngược lại, doanh nghiệp có nguy cơ đi đến phá sản, thất
bại trong kinh doanh. Một doanh nghiệp được coi là kinh doanh có hiệu quả khi và
chỉ toàn bộ chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất, kinh doanh đều được bù đắp
bằng doanh thu và có lợi nhuận. Từ đó doanh nghiệp có điều kiện để mở rộng kinh

doanh,tăng doanh thu, mở rộng thị trường kinh doanh,củng cố và khẳng định vị trí
của doanh nghiệp trên thương trường, đứng vững và phát triển mạnh trong điều
kiện cạnh tranh như ngày nay.
b. Vai trò của kế toán trong quản lý tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả
kinh doanh.
Kế toán được coi là một công cụ hữu hiệu nhất phục vụ cho công tác quản lý
nói chung và trong quản lý hàng hoá cả hai mặt hiện vật và giá trị, tình hình thực
tế kế toán tiêu thụ, đánh giá đúng năng lực của doanh nghiệp thông qua kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thông tin do kế toán cung cấp là căn cứ để đánh giá tính hiệu quả của hoạt
động sản xuất kinh doanh, phù hợp với các quyết định tiêu thụ hàng hoá đã được
thực thi, từ đó phân tích và đưa ra các biện pháp quản lý,chiến lược kinh doanh
phù hợp với các điều kiện thực tế, khả năng của doanh nghiệp nhằm nâng cao
doanh lợi hơn nữa.
6. Nhiệm vụ của kế toán trong quản lý tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả
kinh doanh.
Để đáp ứng yêu cầu nói trên, kế toấn tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả
kinh doanh có những nhiệm vụ sau:
- Phản ánh và ghi chép đầy đủ, chính xác và kịp thời khối lượng và hàng hoá
bán ra và giá vốn chính xác của chúng nhằm xác định đúng kết quả kinh doanh nói
chung hoặc từng loại hàng hoá, nhóm hàng hoá, hàng hoá riêng lẻ nói riêng, các
khoản chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, cũng như phân bổ chúng
cho các đối tượng có liên quan.
- Cung cấp thông tin về tình hình tiêu thụ giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp
quản lý và điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông qua việc ghi chép
hạch toán quá trình tiêu thụ mà kiểm tra được tiến độ thực hiện kế hoạch tiêu thụ
kế toán và lợi nhuận, các kỹ thuật thanh toán, các dự toán chi phí, quản lý chặt chẽ
tiền bán hàng, theo dõi quá trình thanh toán tiền bán hàng và tỷ lệ thu nhập cho
ngân sách.
- Xác định chính xác kết quả của từng loại hoạt động sản xuất kinh doanh

trong doanh nghiệp, phản ánh, giám đối tình hình phân phối lợi nhuận.
- Lập và gửi báo cáo tiêu thụ, doanh thu, kết quả kinh doanh theo yêu cầu
quản lý của ban lãnh đạo. Định kỳ phân tích kinh tế đối với hoạt động tiêu thụ
hàng hoá, thu nhập và phân phối lợi nhuân, tư vấn cho ban lãnh đạo lựa chọn
phương án kinh doanh cnó hiệu quả nhất.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó kế toán tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả
kinh doanh cần thực tốt các nội dung sau:
Thứ nhất: Tổ chức tốt hệ thống chứng từ ghi chép ban đầu và trình tự luân
chuyển chứng từ.
Thứ hai: Kế toán phải đầy đủ các chứng từ hợp pháp ban đầu quy định từng
nghiệp vụ tiêu thụ, tổ chức luân chuyển chứng từ ghi sổ kế toán một cách khoa
học, hợp lý nhằm phản ánh được các số liêụ phục vụ cho công tác quản lý sản
xuất, kinh doanh,tránh ghi chép trùng lặp không cần thiết, nâng cao hiệu quả của
công tác kế toán. Căn cứ vào các trường hợp hàng được coi là tiêu thụ để phản ánh
đúng đắn, kịp thời doanh số bán hàng cung cấp các thông tin cho nhà quản lý về số
hàng đã bán và số hàng hiện còn trong kho.
Thứ ba: Báo cáo kịp thời, thường xuyên tình hình tiêu thụ hàng hoá và thanh
toán theo từng loại hàng hoá, nhóm hàng hoá, từng hợp đồng kinh tế, từng đối
tượng thanh toán ... Đảm bảo yêu cầu quản lý, giám đốc hàng bán trên các yếu tố:
số lượng, chất lượng, chủng loại, thời gian ....Đôn đốc việc thu nhập tiền bán hàng
về doanh nghiệp kịp thời, tránh bị chiếm dụng vốn và các hiện tượng tiêu cực sử
dụng tiền hàng cho mục đích cá nhân.
Thứ tư: Tổ chức vận dụng tốt hệ thống tài khoản kế toán, hệ thống sổ sách
kế toán sao cho phù hợp với đặc điểm sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiện nay hệ thống kế toán thống nhất áp dụng cho các doanh nghiệp (Ban
hành theo quyết định 1141 TC/ CĐKT ngày 1- 11- 1995 của Bộ trưởng Bộ tài
chính. Đã sửa đổi bổ sung) gồm 74 tài khoản tổng hợp và 09 tài khoản ngoài bảng
cân đối kế toán. Đối với hệ thống các tài khoản chi tiết, kế toán trưởng của doanh
nghiệp cần bàn bạc và xây dựng để ghi chép kế toán chi tiết theo yêu cầu quản lý
của doanh nghiệp. Tuỳ hình thức kế toán áp dụng mà doanh nghiệp chọn số lượng

và kết cấu sổ kế toán phù hợp cho sử dụng tai doanh nghiệp.
II. ĐÁNH GIÁ HÀNG HOÁ.
1. Đánh giá hàng hoá theo giá vốn :
- Giá thành hàng hoá nhập kho được xác định phù hợp với từng nguồn nhập:
+ Hàng hoá do doanh nghiệp sản xuất, chế tạo được đánh giá theo chi phí
sản xuất, kinh doanh thực tế bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí sản
xuất chung.
+ Hàng hoá thuê ngoài gia công, được đánh giá theo chi phí thực tế gia công
gồm: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp đem gia công. Chi phí thuê noài gia công và
các chi phí khác liên quan trực tiếp đến quá trình gia công như chi phí vạan
chuyển, chi phí làm thủ tục xuất kho nguyên vật liệu đem gia công, nhập kho thành
phẩm để hoàn thành gia công.
- Đối với hàng hoá xuất kho cũng phải được thể hiện theo giá vốn thực tế.
Hàng hoá xuất kho cũng có thể theo những giá thực tế khác nhau ở từng thời điểm
trong kỳ hạch toán, nên việc hạch toán xác định giá trị thực tế hàng hoá xuất kho
có thể áp dụng một trong các phương pháp chủ yếu sau :
+ Phương pháp giá đơn vị bình quân:
Theo phương pháp này, giá thực tế vật liệu xuất dùng trong kỳ được tính
theo giá bình quân ( bình quân cả kỳ dự trữ, bình quân cuối kỳ trước hoặc bình
quân sau mỗi lần nhập).
Giá thực tế vật
liệu xuất dùng
=
Số lượng vật liệu xuất
dùng
x
Giá đơn vị bình
quân
Trong đó:
Giá đơn vị bình

quân cả kỳ dự trữ
=
Giá thực tế vật liệu tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Lượng thực tế vật liệu tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Phương pháp giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ tuy đơn giản, dẽ làm nhưng
độ chính xác không cao. Hơn nữa, công việc tính toán dồn vào cuối tháng gây ảnh
hưởng đến công tác quyết toán chung.
Giá đơn vị bình
quân cuối kỳ trước
=
Giá thực tế đơn vị tồn đầu kỳ (hoặc cuối kỳ trước)
Lượng thực tế vật liệu tồn đầu kỳ (hoặc cuối kỳ trước)
Phương pháp này mặc dầu quá đơn giản và phản ánh kịp thời tình hình biến
động vật liệu trong kỳ tuy nhieen không chính xác vì không tính đến sự biến động
của giá vật liệu kỳ này.
Giá đơn vị bình quân
sau mỗi lần nhập
=
Giá thực tế vật liệu tồn trước khi nhập cộng số nhập
Lượng thực tế vật liệu tồn trước khi nhập cộng lượng nhập
Phương pháp giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập lại khắc phục nhược
điểm của 2 phương pháp trên, vừa chính xác, vừa cập nhật. Nhược điểm của
phương pháp này là tốn nhiều công sức, tính toán nhiều lần.
+ Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO).
Theo phương pháp này, giả thiết rằng số vật liệu nhập trước thì xuất trước,
xuât hết số nhập trước mới đến số nhập sautheo giá thực tế của từng số hàng xuất.
Nói cách khác, cơ sở của phương pháp này là giá thực tế vật liệu mua trước sẽ
được dùng làm giá thực tế vật liệu xuất trước và do vậy giá trị vật liệu tồn kho
cuối kỳ sẽ là giá thực tế của số vật liệu mua vào sau cùng. Phương pháp này thích
hợp trong trường hợp giá cả ổn định hoặc có xu hướng giảm.

+ Phương pháp nhập sau xuất trước (LIFO).
Phương pháp này giả định vật liệu mua sau cùng sẽ được xuất trước tiên,
ngược lại với phương pháp nhập trước, xuất trước ở trên. Phương pháp nhập sau
xuất trước thích hợp trong trường hợp lạm pháp.
+ Phương pháp trực tiếp:
Theo phương pháp này, vật liệu được xác định giá trị theo đơn chiếc hay
từng lô và giữ nguyên từ lúc nhập vào cho đến lúc xuất dùng (trừ trường hợp điều
chỉnh). Khi xuất vật liệu nào sẽ tính theo giá thực tế của vật liệu đó. Do vậy,
phương pháp này còn có tên gọi là phương pháp đặc điểm riêng hay phương pháp
giá trị thực tế đích danh và thường sử dụng với các loại vật liệu có giá trị cao và có
tính tách biệt.
+ Phương pháp giá hạch toán:
Theo phương pháp này, toàn bộ vật liệu biến động trong kỳ được tính giá
hạch toán (Giá kế hoạch hoặc một loại giá ổn định tronh kỳ). Cuối kỳ kế toán sẽ
tiến hành điều chỉnh từ giá hạch toán sang giá thực tế theo công thức:
Giá vật liệu thực tế xuất
dùng (hoặc tồn kho cuối kỳ)
=
Giá hạch toán vật liệu xuất
dùng (hoặc tồn kho cuối kỳ)
x
Hệ số giá
vật liệu
Hệ số giá có thể tính cho từng loại, từng nhóm hoặc từng thứ vật liệu chủ
yếu tuỳ thuộc vào yêu cầu và trình độ quản lý.
2. Đánh giá hàng hoá theo giá hạch toán.
Việc đánh giá hàng hoá theo giá thực tế đôi khi không đáp ứng được yêu cầu
kịp thời của công tác kế toán, bởi vì giá thành sản xuất thực tế thường cuối kỳ hạch
toán mới xác định được mà công việc nhập xuất hàng hoá lại diễn ra thường xuyên
vì vậy người ta còn sử dụng giá hạch toán.

Giá hạch toán là giá ổn định trong kỳ. Nó có thể là giá thành kế hoạch hoặc
giá nhập kho thống nhất. Đánh giá hàng hoá theo giá hạch toán đến cuối kỳ phải
tính chuyển giá hạch toán sang giá thực tế bằng cách:
Trị giá thực tế hàng hoá
xuất kho trong kỳ
=
Trị giá hạch toán hàng hoá
xuất kho trong kỳ
x Hệ số giá
Hệ số giá =
Trị giá thực tế hàng
hoá tồn kho đầu kỳ
+
Trị giá thực tế hàng hoá
nhập kho trong kỳ
Trị giá hạch toán hàng
hoá tồn kho đầu kỳ
+
Trị giá hạch toán hàng
hoá nhập kho trong kỳ

×