Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học tiếng việt 1 CGD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.95 KB, 24 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn sáng kiến
Để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội chúng ta hiện nay, đòi hỏi con
người cần có một số phẩm chất và năng lực quan trọng hàng đầu như năng lực
làm việc nhóm, năng lực hoạt động thực tiễn và giải quyết vấn đề do cuộc sống
đặt ra, năng lực hợp tác và chia sẻ, năng lực thích ứng... Những yêu cầu trên đã
đặt ra cho giáo dục phải đổi mới toàn diện để đáp ứng tốt hơn nhu cầu giáo dục
của xã hội và cá nhân. Để làm tốt được điều đó, chúng ta cần tập trung đầu tư
ngay từ cấp tiểu học. Vì giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống
giáo dục quốc dân. Đây là bậc học mang tính chất nền móng để các em học tiếp
bậc cao hơn. Quá trình dạy học ở bậc tiểu học là nhằm cung cấp cho các em
những kiến thức, sự hiểu biết cơ bản, toàn diện về thể chất, nhân cách và trí tuệ.
“Những gì học ở tiểu học theo suốt cuộc đời mỗi con người”. Ngay từ trường
tiểu học, học sinh phải biết tự tin, chủ động, sáng tạo trong quá trình học tập và
hoạt động để hoàn thành các môn học và hình thành được một số phẩm chất và
năng lực theo mục tiêu giáo dục tiểu học đặt ra. Chính vì thế, Nghị quyết số
29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) đã đặt ra: "Đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế". Cốt lõi của việc đổi mới đó chính là : Tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ, đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục , đào tạo theo hướng coi
trọng phát triển phẩm chất năng lực của người học. Muốn phát triển tốt phẩm
chất và năng lực trước hết phải dạy cho các em cách giao tiếp, mà giao tiếp là
nhu cầu đặc biệt hằng ngày và rất quan trọng của mỗi con người. Dù bạn ở
trong hoàn cảnh nào, làm việc gì thì để đạt được mục tiêu của mình đòi hỏi bạn
phải có giao tiếp. Khả năng giao tiếp của bạn phụ thuộc vào các kĩ năng sử
dụng Tiếng Việt của chính bản thân bạn. Ở nước ta, Tiếng Việt là môn học rất
quan trọng của bậc Tiểu học, làm nền móng để học tốt các môn học khác và là
tiền đề tạo nên cơ sở vững chắc cho nền giáo dục của nước nhà.

1




Để thực hiện tốt mô hình Trường học mới Việt Nam ( VNEN ) thì dạy Tiếng
việt lớp 1- CNGD là một nhiệm vụ có tính chất chiến lược nhằm quản lý tốt
chất lượng đầu vào môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học. Do vậy, kiểu dạy học thầy
giảng - trò ghi nhớ trở nên lạc hậu, không còn đáp ứng được nhu cầu của nền
sản xuất và sự tiến bộ khoa học công nghệ. Giáo dục đứng trước sức ép phải
đổi mới, nhiều phương án dạy học đã ra đời, như: dạy học chương trình hóa,
nêu vấn đề, dạy học tình huống,…Trong đó, công nghệ dạy học là một chiến
lược dạy học đang dần xác định và chiếm ưu thế. Dạy học theo chương trình
Công nghệ giáo dục là kiểu dạy mà trẻ em không phải là đối tượng chịu sự tác
động của giáo dục một cách thụ động, mà là một chủ thể hoạt động để tự sinh
ra mình, trẻ em hoạt động để tự tạo ra sản phẩm giáo dục, để trở thành cá thể
người, một thành viên của xã hội có thể sống và hoạt động có kết quả trong xã
hội hiện đại. Cũng như các năm học trước, năm học 2018 – 2019, việc dạy
Tiếng Việt theo Công nghệ giáo dục được áp dụng trong toàn tỉnh Quảng Bình.
Thực hiện dạy tốt chương trình TV1 CGD 1 là thực hiện tốt việc đổi mới căn
bản và toàn diện Giáo dục- Đào tạo. Để góp phần nâng cao chất lượng của việc
dạy học TV1 CGD, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu “Một số biện pháp nâng cao
chất lượng dạy học Tiếng Việt 1 CGD”.
1.2. Điểm mới của sáng kiến
Thực tế có nhiều sáng kiến kinh nghiệm nghiên cứu về việc học công nghệ
Tiếng Việt 1 của Giáo Sư Hồ Ngọc Đại. Song nó chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu
điểm giống nhau và khác nhau giữa chương trình Tiếng Việt hiện hành và
chương trình Tiếng Việt Công Nghệ, nghiên cứu ưu thế của việc dạy Tiếng Việt
Công Nghệ chứ chưa đưa ra được biện pháp cụ thể để giúp đỡ học sinh.
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm đưa ra các giải pháp trong dạy học khơi
dậy sự tò mò, sáng tạo, chủ động của học sinh. Từ đó giúp các em từng bước tự
điều chỉnh chính mình trong việc tự tìm tòi khám phá tri thức chứ không ai có
thể làm thay được, khơi dậy lòng yêu thích học Tiếng Việt trong học sinh, giúp

các em mạnh dạn trong học tập và khả năng sáng tạo và học tốt môn CGD 1.

2


Đồng thời sáng kiến cũng đưa ra một số phương pháp giúp GV và HS vận dụng
và thực hiện tốt việc dạy và học Tiếng Việt CGD.
1.3. Phạm vi áp dụng của sáng kiến
Bản thân nghiên cứu sáng kiến nhằm mục đích đóng góp một phần công
sức của mình để có những biện pháp hữu hiệu, những bài học kinh nghiệm để
có thể áp dụng vào thực tiễn dạy học TV 1 CGD ở trường nói riêng và giáo dục
huyện nhà nói chung. Điều này càng có ý nghĩa nếu đề tài thành công, chất
lượng dạy học được nâng cao đáp ứng với định hướng đổi mới giáo dục hiện
nay.
Đề tài này nghiên cứu chương trình và nguyên tắc xây dựng chương trình
Tiếng Việt 1 CGD. Qua đó đưa ra các biện pháp nâng cao chất lượng dạy học
TV1 CGD theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Đây là nội
dung mới được đưa vào dạy học trong năm học này nên tôi chỉ mạnh dạn
nghiên cứu, áp dụng trong phạm vi đối với lớp 1.

2. PHẦN NỘI DUNG
2.1.Thực trạng tổ chức giảng dạy Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục
2.1.1. Chương trình, phương pháp và quy trình dạy TV CGD.
Căn cứ vào khung chương trình quy chuẩn về thời gian, dung lượng kiến
thức và mục tiêu chung của phân môn. TV1 CGD chia làm 37 tuần (10
tiết/tuần), bao gồm:
Phần chuẩn bị: Tuần 0 ( 2 tuần) học cách làm việc.
Học kỳ I: Tuần 1 đến tuần 17 (học phần âm và vần)
Học kỳ II: Tuần 18 đến tuần 35 (tiếp tục học vần, nguyên âm đôi và
luyện tập tổng hợp).

Phương pháp thực hiện chương trình.
Phương pháp Mẫu: Lập mẫu, sử dụng mẫu
Phương pháp Việc làm là phương pháp dạy học hoàn toàn mới, xây dựng
trên cơ sở sự hợp tác mới giữa thầy và trò. Trong đó, thầy tổ chức việc học của
trò thông qua những việc làm cụ thể và những thao tác chuẩn xác do các em tự
làm lấy.

3


Công nghệ giáo dục cũng dung nạp một số phương pháp truyền thống
như: Nêu vấn đề, trực quan, vấn đáp...coi đó như những hình thức, thủ pháp
dạy học nằm trong hệ thống của mình.
Quy trình dạy học gồm 3 loại:
Loại 1 : Tiết Lập mẫu: Gồm 4 việc
Việc 1: Chiếm lĩnh ngữ âm (chiếm lĩnh đối tượng)
Việc 2: Viết
Việc 3: Đọc
Việc 4: Viết chính tả
Loại 2: Tiết Dùng mẫu
Quy trình tiết Dùng mẫu giống quy trình của tiết Lập mẫu. Chủ yếu là tổ
chức cho học sinh luyện tập với vật liệu khác trên cùng một chất liệu với tiết
Lập mẫu. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với giáo viên là phải nắm chắc quy trình
tiết Lập mẫu, chủ động, linh hoạt trong quá trình tổ chức tiết học sao cho phù
hợp với từng đối tượng học sinh.
Loại 3: Tiết Luyện tập tổng hợp
Quy trình 4 việc ở tiết Luyện tập tổng hợp được sắp xếp lại nhằm tập
trung vào 2 kĩ năng đọc và viết:
Việc 1: Ngữ âm
Việc 2: Đọc

- Bước 1: Chuẩn bị

- Bước 2: Đọc bài

+ Đọc nhỏ

+ Đọc mẫu

+ Đọc bằng mắt

+ Đọc nối tiếp

+ Đọc to

+ Đọc đồng thanh
+ Đọc hiểu (tìm hiểu bài)

Việc 3: Viết
Việc 4: Viết chính tả
2.1.2. Thực trạng về việc thực hiện chương trình CGD
Năm học 2018 -2019, thực hiện theo công văn của Sở GDĐT Quảng
Bình về việc giảng dạy môn TV lớp Một theo CGD. Phòng GD Đào tạo Lệ
4


Thủy tiếp tục triển khai về việc dạy học TV lớp Một theo CGD. Qua triển khai,
đa số các thầy cô nắm được mục tiêu, nội dung, phương pháp giảng dạy và
cách thức đánh giá kết quả học tập của học sinh, nắm được kiến thức ngữ âm
Tiếng Việt. Có hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lý của học sinh; về đời sống,
kinh tế, xã hội xung quanh ở địa phương.

Khi dạy TV1 CGD, giáo viên đã tuân thủ thiết kế và quy trình dạy. Giáo
viên được khuyến khích tận dụng tối đa hiệu lệnh để tổ chức và điều khiển học
sinh học tập.
Sau khi thực hiện chương trình TV1 CGD tôi nhận thấy :
Đa số học sinh nhận biết và phân tích được cấu tạo của tiếng, phân biệt
được âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối và vị trí của chúng trong cấu trúc của
tiếng. Học sinh nhận biết được các kiểu vần, nắm vững luật chính tả khi viết.
Phát âm to, rõ ràng các âm, vần, chuẩn tiếng; đọc trôi chảy các tiếng, từ,
biết ngắt nghỉ hơi theo dấu câu.
Qua ba năm trực tiếp giảng dạy TV1 CGD , bản thân tôi thấy rằng; học sinh
học đâu biết đó, không những kĩ năng đọc, viết tốt mà ngay cả kĩ năng phân tích
vần và tiếng cũng rất tốt. Học sinh nắm chắc luật chính tả nên khi viết các em
không bị sai chính tả như ở chương trình Tiếng Việt hiện hành.
Phương pháp dạy học tiếng Việt 1 - CGD giúp cho giáo viên nắm vững
kỹ thuật dạy học theo hướng tích cực, lấy học sinh làm trung tâm, tiến trình giờ
dạy nhẹ nhàng, dễ thực hiện. Giáo viên không phải soạn bài nên có thời gian
nghiên cứu thiết kế bài giảng có sẵn của sách công nghệ giáo dục nên khi dạy
không bị áp lực. Giáo viên chỉ cần thực hiện đúng, đủ quy trình trong sách thiết
kế. Tài liệu thiết kế chi tiết cho các dạng bài, các mẫu của từng tiết dạy. Việc
chuẩn bị đồ dùng dạy học của giáo viên ít hơn, cũng đơn giản, nhẹ nhàng hơn,
đa số các thao tác đều có sẵn trong thiết kế bài giảng. Trong thiết kế ở 2 tuần
đầu (tuần 0) giáo viên chưa dạy chữ cho học sinh mà chỉ cho học sinh làm quen
với các hoạt động thông qua trò chơi, hướng dẫn kĩ các quy định nên các em có
nền nếp học tập tốt ngay từ đầu năm học và sẽ được duy trì trong suốt năm học.
Một điểm khác với phương pháp dạy học truyền thống nữa là giáo viên không
5


phải cầm tay giúp học sinh tập viết mà các em tự tư duy bài giảng dưới hình
thức nghe, hiểu và viết lại.

Trong quá trình thực hiện với bài có nhiều nội dung, tùy theo điều kiện
lớp hay trình độ học sinh mà giáo viên có thể tăng thời lượng để dạy chậm và
kỹ hơn. Ví dụ, bài có 4-6 vần thì giáo viên có thể linh động tách thành 2 tiết,
mỗi tiết dạy 2-3 vần, thực hiện đủ 4 việc dạy vào buổi chiều.
Chương trình này không đặt nặng về nghĩa của từ mà chỉ tập trung vào
ngữ âm của tiếng nên một phần thuận lợi cho học sinh. Ngoài ra, phương pháp
mới còn giúp học sinh làm theo sự hướng dẫn, những ký hiệu và hiệu lệnh của
giáo viên. Thay vì chỉ đánh vần, học sinh còn được phân tích âm, vần qua các
thao tác tay và các hoạt động phụ trợ khác, tạo sự hứng thú cho các em, giúp
các em chủ động trong việc tiếp thu bài học, làm chủ kiến thức.
Điểm mới của chương trình là học sinh được học kiến thức từ âm đến
chữ và khắc sâu hoạt động ngữ âm, cách phân tích cấu trúc ngữ âm, phương
pháp học này giúp học sinh xác định được vị trí các âm trong một tiếng, như:
âm đầu, âm đệm, âm chính và âm cuối. Kết quả, các em có thể đọc thông viết
thạo, khi viết chính tả không nhìn chép và ít viết sai chính tả vì khi dạy đều có
đưa luật chính tả. Ví dụ: Âm "cờ" đứng trước âm e, ê, i phải viết bằng con chữ
"ca" (k). Âm “ cờ” đứng trước âm đệm phải ghi bằng con chữ “cu” (q) và âm
đệm phải ghi bằng con chữ “u”.
Theo GS.TSKH Hồ Ngọc Đại, “cha đẻ” của chương trình này thì ưu điểm
của chương trình TV1-CGD là “Học đâu biết đấy, học đâu chắc đấy”. Chương
trình TV1- CGD giải quyết dứt điểm từng đơn vị học và nhắc lại thường xuyên,
nhắc lại khi có cơ hội. Chương trình phù hợp với mọi đối tượng, dù là học sinh
người Kinh hay người dân tộc thiểu số, học sinh ở vùng thuận lợi hay vùng khó
khăn, học sinh có được chuẩn bị tiếng Việt trước khi vào lớp 1 hay chưa có sự
chuẩn bị…
Chương trình đã tạo ra sự chuyển biến tích cực đối với cả học sinh và
giáo viên. Với học sinh, các em cảm thấy rất hứng thú với chương trình công
nghệ, nghe và hiểu được hiệu lệnh, hiểu được lời nói của giáo viên. Nhiều em
6



trả lời được rành mạch, nói đủ câu rõ ràng. Các em có khả năng giao tiếp, mạnh
dạn, tự tin hơn trong học tập và thực hành cũng như giao tiếp với thầy cô và
bạn bè, nắm chắc được về ngữ âm, về luật chính tả, đọc tốt, viết tốt.
Chương trình luôn tạo cơ hội cho giáo viên sáng tạo trong tiết dạy. Giáo viên
không phải soạn bài nên có nhiều thời gian để quan tâm đến học sinh hơn,
nghiên cứu tài liệu, hiểu tâm sinh lý lứa tuổi, cách thức tổ chức thực hiện lên
lớp đối với học sinh.
Học sinh học TV1 CGD các em được tiếp thu kiến thức một cách vững
chắc, nắm vững cấu tạo ngữ âm tiếng Việt, nắm chắc luật chính tả, đọc thông,
viết thạo, phát âm tương đối chuẩn. Học sinh tích cực và chủ động hơn khi
tham gia vào các hoạt động học tạo ra sản phẩm cho chính mình. Hầu như
không còn hiện tượng học sinh không biết đọc, chỉ có những trường hợp học
sinh đọc chậm. Chương trình được thiết kế theo mô hình dạy học “Thầy thiết
kế - Trò thi công” nên sớm hình thành được ở học sinh phương pháp tự học,
học sinh mạnh dạn, tự tin.
Tuy nhiên chương trình này còn nhiều bở ngỡ với học sinh lớp 1. Ngay
bài đầu tiên, nhiều học sinh chưa biết chữ cái nhưng đã phải viết chính tả.
Trong quá trình học, các em còn phải phân biệt được các mẫu bài, dạng bài,
biết tiếng có âm đầu, tiếng có âm chính, tiếng có âm đệm, âm cuối… Trước
đây, học hết 8 tuần, các em thuộc bảng chữ cái và có thể ghép vần thành âm,
tiếng. Nay, hết 6 tuần, học sinh đã phải đọc những bài dài tới 50 tiếng. Cụ thể:
Khi dạy bài "Âm /tr/ sách Tiếng Việt CNGD tập 1 trang 60, 61 học sinh phải
đọc tới 50 tiếng chưa kể đọc 7 phụ âm ở cuối trang. Bài đầu tiên của phần vần
có âm đệm và âm chính sách Tiếng Việt CNGD tập 2 trang 8, 9 học sinh phải
đọc tới 65 tiếng. Chưa nói đến những bài tập đọc ở phần sau tập 3 quá dài, dài
hơn những bài tập đọc lớp 2 chương trình hiện hành….Ở tuần 10 trở đi, học
sinh chưa được học chữ hoa mà trong sách giáo khoa đưa chữ hoa vào bài đọc
vì thế học sinh không đọc được.
Nguyên nhân


7


Nhìn chung, từ những nội dung được tìm hiểu trên, ta có thể thấy nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng dạy học TV1 CGD:
- Do đặc thù của chương trình, nhiều phụ huynh còn băn khoăn về
phương pháp giảng dạy; một số phụ huynh quan tâm rèn thêm cho học sinh ở
nhà nhưng không đúng với phương pháp của thiết kế, khiến giáo viên gặp nhiều
khó khăn trong việc hướng dẫn học sinh.
- Sự tham gia học tập không chuyên cần của học sinh trong năm đều gặp
khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức và theo kịp chương trình.
2.2. Các biện pháp dạy học TV1 CGD
Biện pháp thứ nhất: Xác định mục tiêu, nội dung dạy học Tiếng Việt 1 CGD
Đổi mới việc xác định mục tiêu dạy học, đặc biệt là thay đổi cách xác
định mục tiêu bài học một cách cụ thể, rõ ràng, tường minh theo hướng chỉ rõ
mức độ người học phải đạt được về kiến thức, kỹ năng, thái độ, chú ý mục tiêu
rèn luyện phương pháp tự học cho người học
Lưu ý luật chính tả
Dấu thanh đặt ở âm chính. Khi đọc chính tả, trong quá trình viết giáo viên
có thể hỏi học sinh xem viết đúng chưa? Nếu sai bạn bên cạnh nhắc và viết lại,
không tẩy xóa chỉ gạch chữ sai ở dưới chân và viết ra bên cạnh, giáo viên cần quan
sát học sinh liên tục. Khi học sinh không viết được thì giáo viên cho học sinh phân
tích lại để viết, yêu cầu tùy theo đối tượng học sinh trong lớp để giáo viên giao bài
viết cho phù hợp.
Ví dụ: khi dạy chữ thì cần chú ý bộ nét, cơ bản là dạy đặt bút, chấm tọa
độ, kéo viết, kết thúc, tên nét phải nắm và thuộc, học sinh quên giáo viên cho
học sinh nhắc lại để nhớ, củng cố cho học sinh viết các nét và thuộc các nét.
Nếu học sinh không biết phân tích, không biết viết giáo viên phải hướng
dẫn yêu cầu học sinh học thuộc bảng chữ cái và viết hết bảng chữ cái cho nhớ,

sau đó sẽ hướng dẫn ghép các chữ với nhau.
Như vậy, sau khi học 4 việc, học sinh đã được cung cấp bộ công cụ Tiếng
Việt (về kiến thức về cấu trúc ngữ âm, luật chính tả) và hình thành kỹ năng sử dụng
Tiếng Việt. Từ đó giúp các em học tốt hơn phân môn Tiếng việt 1 - CNGD.
8


Biện pháp thứ hai: Đổi mới PPDH dạy học nhằm tích cực hóa hoạt
động học tập của học sinh
Tính tích cực chủ động học tập có vai trò quan trọng trong việc nâng cao
hiệu quả học tập của người học.Trong dạy học, tích cực hóa hoạt động học tập
của người học là một hướng đổi mới đã được đông đảo các nhà nghiên cứu, nhà
lý luận và các thầy cô giáo quan tâm.Tính tích cực là một trạng thái hoạt động
của người hành động. Tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động của người
học được đặc trưng bởi khát vọng học tập, sự cố gắng với nghị lực cao trong
quá trình nắm vững tri thức cho bản thân.
Bản chất của dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và
sáng tạo của người học phải xuất phát từ nhu cầu, động cơ và điều kiện của bản
thân người học. Chúng ta cần phải chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của
người học, nhất là cần chú ý đến trình độ tư duy của họ. Trong dạy học, không
được bắt ép, gò bó một lối suy nghĩ chung cho tất cả mọi người.
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn
đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người
thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài các
hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung
học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của
chương trình.
Để giúp học sinh lớp 1 nắm vững được hệ thống âm trong tiếng Việt 1,
trước hết giáo viên cần:
Giúp học sinh nắm vững được từng âm, giáo viên cần chú ý hai vấn đề

then chốt:
Yêu cầu đối với học sinh thuộc bảng chữ cái một cách thành thạo.
Nắm được kĩ năng về phát âm trong tiếng Việt 1, biết phân biệt nguyên
âm và phụ âm, biết cách lập mẫu và dùng mẫu, phân tích âm, tiếng, đọc được
theo các mức độ to - nhỏ - nhẩm - thầm theo lệnh và ký hiệu của giáo viên. Biết
phân biệt đâu là âm đệm, âm chính và đâu là âm cuối, học về luật chính tả.

9


Tình trạng các em đọc vẹt nhiều, muốn khắc phục những hạn chế này
giáo viên nên tận dụng đồ dùng dạy học của chương trình hiện hành, làm thêm
đồ dùng dạy học và chủ động sắp xếp thời gian rèn luyện kỹ năng nói, đọc cho
học sinh.
Để giải quyết được hai vấn đề nêu trên, giáo viên phải nắm vững vị trí,
nhiệm vụ, yêu cầu dạy âm... trong môn Tiếng Việt 1.
Giáo viên phải hiểu rõ khả năng nhận thức cũng như các đặc điểm của
quá trình nhận thức của trẻ em. Bởi vì khả năng nhận thức của học sinh Tiểu
học đang hình thành và phát triển theo từng giai đoạn có quy luật riêng, người
giáo viên tiểu học cần phải hiểu trẻ em với đầy đủ nghĩa của nó, mới có thể tiến
hành dạy phần âm đạt hiệu quả được.
Lưu ý:
Tác phong lời nói, cử chỉ, điệu bộ của giáo viên cần phải chuẩn mực,
thân thiện.
Quy trình 4 việc cần phải thực hiện theo trình tự.
Câu lệnh của giáo viên cần phải dứt khoát, rõ ràng. Học sinh thực hiện theo
đúng yêu cầu của giáo viên hoạt động giữa giáo viên - học sinh cần diễn ra nhịp
nhàng.
Các hoạt động của lớp cần phải thực hiện theo “ký hiệu” trên bảng hoặc
ký hiệu bằng tay của giáo viên ( tùy theo quy định của giáo viên). Giáo viên

không phải nói nhiều mà phải ưu tiên các hoạt động cho học sinh.
Giáo viên cần phải thuộc các việc cơ bản ở mỗi bài.
Cần phải nhẹ nhàng, thân thiện và linh hoạt trong tổ chức các hoạt động
ở từng việc.
Quan tâm tới các em học sinh có nhận thức chậm trong lớp.
Tiết học buổi 2 giáo viên cần phải xác định được nội dung cần ôn tập chú
ý về các kỹ năng cần củng cố phù hợp với từng đối tượng học sinh nhằm giúp
các em nắm được bài tốt hơn.
Dạy đâu chắc đó, học sinh phải nắm được bài, không để học sinh ngoài
lề lớp học.
10


Cần dạy học phù hợp với đối tượng học sinh, phân hóa đối tượng học
sinh, cần đạt chuẩn ở mức độ thấp nhất như: học sinh tiếp thu bài kém….
Dạy học không cần viết tên bài trước, lập xong mô hình mới viết ở bảng,
cần phải tuân thủ dạy theo sách thiết kế, có thể linh hoạt lồng ghép.
Khen học sinh nhiều, không nên chê bai, nhắc nhở cho học sinh tiến bộ.
Khi dạy không nên trở về cái cũ, mỗi ngày chỉ thay đổi một thành phần,
khi giao việc giáo viên phải đứng trước lớp - học sinh làm việc giáo viên xuống
lớp kiểm tra khen học sinh.
Dạy lớp 1 dạy tiếng không dạy từ, không nên đưa những gì có sẵn cho
học sinh khi đến lớp.
Để đạt được mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh cần có sự vào
cuộc, phối hợp của người dạy và chính bản thân người học.
Biện pháp thứ ba: Giáo viên phải kích thích được nhu cầu, khơi gợi
hứng thú học tập cho người học thông qua tất cả các giai đoạn của tiết lên
lớp.
Việc kích thích nhu cầu, khơi gợi hứng thú khám phá tri thức cho người

học cần phải được thực hiện duy trì trong tất cả các giai đoạn của tiết lên lớp.
Đặt vấn đề vào bài, tổ chức lĩnh hội tri thức mới, củng cố hướng dẫn hoạt động
nối tiếp…Cách thức tổ chức lớp học khoa học giúp học sinh dễ tiếp thu bài
giảng, tích cực tham gia giờ học.
Biện pháp thứ tư: Xác định mục đích và xây dựng động cơ, thái độ
học tập
Trong quá trình hình thành và nâng cao năng lực tự học cho người học,
vai trò của người thầy là rất quan trọng. Người dạy cần hướng dẫn, tổ chức để
người học sinh xác định được động cơ học tập một cách đúng đắn. Tăng cường
các hình thức dạy học nhóm, trao đổi thảo luận, nêu lên chính kiến của mình...
Điều này sẽ buộc người học phải nghiên cứu tài liệu, phân tích, mổ xẻ các vấn
đề trên nhiều khía cạnh khác nhau để có thể tham gia đóng góp hoặc tranh luận
để bảo vệ ý kiến của mình.
11


Để định hướng cho người học vạch ra kế hoạch tự học cá nhân, giáo viên
cần đề ra kế hoạch dạy học cụ thể toàn bộ môn học (hoặc từng chương), cung
cấp trước để người học nghiên cứu để biết mình sẽ làm gì và làm như thế nào
trong quá trình học tập bộ môn.
Biện pháp thứ năm: Tổ chức các hoạt động vui chơi lồng ghép trong
quá trình dạy học
Có thể nói đây là một kỹ năng rất quan trọng giúp cho người giáo viên
nắm bắt và đo được kết quả học tập của học sinh qua một quá trình dạy học.
Qua hoạt động vừa chơi vừa học các em biết chia sẻ với nhau kinh nghiệm học
tập, các em biết tự mình kiểm tra kết quả học tập của mình và giúp nhau cùng
tiến bộ. Các em không những ham thích đến trường mà còn dần yêu thích môn
học này.
Giáo viên cần thường xuyên thay đổi các hình thức tổ chức trò chơi khác
nhau.

Qua một tiết học có thể tổ chức cho các em chơi những trò chơi gây
hứng thú trong học tập, điều này rất bổ ích thông qua các tiết học hàng ngày.
Ví dụ: Dạy bài vần oan/ oat giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi
“ Chèo thuyền”. Tìm tiếng chứa vần bài trước.
Một bạn lên điều hành nói: Gọi thuyền gọi thuyền
Lớp: Thuyền ai, thuyền ai
Học sinh điều hành hỏi: Thuyền Nga, thuyền Nga
Lớp: Thuyền Nga chở gì
Học sinh Nga trả lời: Chở khoai, chở khoai
Lớp phân tích tiếng vừa nêu: khoai
Trò chơi cứ tiếp tục như vậy với các từ khác chứa vần oai.
Biện pháp thứ sáu: Thường xuyên thay đổi các hình thức học tập cho
học sinh.
Việc đổi mới phương pháp dạy học có thành công, hiệu quả hay không là
một phần phải có hình thức tổ chức học tập phong phú và đa dạng. Hình thức
phải xây dựng phù hợp với nội dung và đối tượng học sinh. Do đó hình thức
12


phù hợp thì tạo nên tiết học sinh động, đạt hiệu quả cao và phát huy được tính
tích cực tự học, chủ động và tự sáng tạo của học sinh.
Luôn có ý thức nâng cao trình độ kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ
Cần chú trọng bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên về lý luận dạy học hiện
đại, về các phương pháp giảng dạy tiên tiến nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động và sáng tạo của học sinh. Để đạt kết quả tốt nhất trong học tập, đòi hỏi
giáo viên không những nghiên cứu nội dung sách giáo khoa của môn học mà
cần nghiên cứu thêm các tài liệu, các sách báo, tạp chí có liên quan đến môn
học. Chính vì vậy, việc trang bị đầy đủ các sách báo, tạp chí … trong thư viện
trường cho giáo viên mượn đọc tham khảo là cần thiết. Việc đọc các tài liệu
tham khảo, sách báo… không những giúp giáo viên mở rộng thêm kiến thức

mà còn giúp giáo viên thấy được ý nghĩa thực tiễn của môn học, từ đó góp phần
nâng cao hứng thú dạy học của giáo viên.
Biện pháp thứ bảy: Cần chủ động rèn luyện tính tự học cho học sinh.
Tự học có thể hiểu là tự mình lao động trí óc để chiếm lĩnh kiến thức.
Bước đầu quá trình tự học có thể học sinh còn có nhiều lúng túng nhưng đó
cũng chính là động lực giúp các em tư duy để thoát khỏi những khó khăn, lúng
túng đó, nhờ vậy mà thành thạo lên.
Trong quá trình tự học của học sinh, đọc sách được coi là khâu quan
trọng đầu tiên giúp các em tiếp thu tri thức và phát triển phương pháp tự học
hiệu quả.
Biện pháp thứ tám: Tăng cường tổ chức hoạt động tự học của người
học
Giáo viên giao nhiệm vụ tự học cho học sinh một cách đầy đủ, rõ ràng
với yêu cầu từ dễ đến khó. Khi giao nhiệm vụ học tập, cần hướng dẫn tài liệu
học tập cho các em.
Tăng cường công tác kiểm tra việc tự học của học sinh một cách hệ
thống, thường xuyên; nên kiểm tra việc tự học của học sinh hàng ngày, hàng
tuần để có thể nhận được thông tin phản hồi từ phía học sinh, từ đó đề ra các

13


biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng học tập của
học sinh.
Biện pháp thứ chín: Xây dựng môi trường học tập thân thiện.
Một môi trường học tập bao gồm các yếu tố, các quan hệ diễn ra xung quanh
hoạt động học tập của học sinh. Trong đó, có các mối quan hệ đặc trưng: quan hệ
giáo viên - học sinh; quan hệ học sinh - học sinh; quan hệ học sinh - tập thể (học
sinh),… Qua thực tế điều tra, chúng tôi nhận thấy nhiều giáo viên chưa tạo được sự
gần gũi, thân thiện với tất cả học sinh, giữa học sinh với học sinh chưa có sự hỗ trợ,

giúp đỡ nhau trong học tập. Mặt khác, phần lớn học sinh ở vùng khó thường có đặc
tính rụt rè, nhút nhát, các em thường ít chủ động tham gia vào các hoạt động học tập.
Sự rụt rè, nhút nhát ấy cũng do một phần các em chưa có sự chuẩn bị cho một môi
trường mới, nơi có bạn bè, thầy cô và các hoạt động học tập đặc trưng.
Trong môi trường học tập thân thiện, tích cực học sinh sẽ được phát huy
năng lực học tập của mình ở trạng thái tốt nhất. Do vậy, việc tạo một môi
trường học tập thân thiện là rất cần thiết để giúp các em mạnh dạn, tự tin, hứng
thú tham gia các hoạt động học tập, yêu thích đến lớp, đến trường.
Giáo viên cần nắm được hoàn cảnh gia đình và đặc điểm tâm sinh lí của
mỗi học sinh, mặt mạnh và mặt còn hạn chế của các em, nên ghi nhận những
thông tin ấy vào trong sổ tay riêng. Để biết được tính cách học sinh, giáo viên
có thể tìm hiểu thông qua trò chuyện với các em, quan sát các em trong học tập
và vui chơi,…giáo viên nên dành một ít thời gian đến thăm gia đình những học
sinh có hoàn cảnh khó khăn trong lớp của mình. Có hiểu học sinh thì người
giáo viên mới có thể gần gũi và tạo niềm tin nơi các em, giúp các em phát huy
ưu điểm và khắc phục phần còn hạn chế.
Biện pháp thứ mười: Quan tâm, hỗ trợ học sinh kịp thời
Trong quá trình dạy học, giáo viên cần quan tâm, hỗ trợ học sinh kịp
thời. Gợi ý, hướng dẫn khi các em gặp khó khăn, tuyên dương, khen thưởng khi
các em thực hiện đúng yêu cầu; phải tạo cơ hội cho tất cả các em đều được
tham gia đầy đủ các hoạt động học tập, nhất là với học sinh chậm tiến bộ.

14


Giáo viên phải hiểu và nắm vững thiết kế, có như vậy mới có thể điều
khiển, tổ chức các hoạt động dạy học linh hoạt và nhẹ nhàng, giáo viên có thời
gian để quan sát, giúp đỡ học sinh hoàn thành nhiệm vụ học tập.
Giáo viên cần chú ý về giọng nói và ngôn ngữ sử dụng khi đánh giá,
nhận xét học sinh, phải thể hiện sự tôn trọng, động viên và khuyến khích các

em, tránh những lời lẽ chê bai, xúc phạm học sinh.
Ngoài ra, đối với học sinh có hoàn cảnh khó khăn, sự quan tâm còn thể
hiện ở việc hỗ trợ các em có đầy đủ dụng cụ học tập cần thiết. Nguồn hỗ trợ
được vận động từ các mạnh thường quân hoặc trích từ nguồn xã hội hóa giáo
dục của nhà trường.
Biện pháp thứ mười một: Thiết lập vai trò của bạn bè trong học tập.
Giúp học sinh nhận ra mỗi bạn đều có mặt mạnh, mặt yếu, có thể bạn
giỏi trong hoạt động này nhưng lại làm chưa tốt trong học động khác. Vì thế,
cần có sự hợp tác, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Giáo viên cần rèn được cho học
sinh có sự chủ động trong việc giúp đỡ bạn, ví dụ, khi phân tích tiếng hay luyện
đọc, những bạn làm tốt sẽ hướng dẫn, làm mẫu cho bạn làm chưa tốt.
Tổ chức đôi bạn cùng tiến, giúp học sinh xây dựng mối quan hệ bạn bè
trong học tập và vui chơi. Giáo viên nên bố trí một học sinh khá giỏi cùng một
học sinh trung bình, yếu để em học sinh giỏi có thể hỗ trợ học sinh yếu trong
học tập.
Biện pháp thứ mười hai: Tổ chức giao lưu, sinh hoạt tập thể.
Nhà trường cần tổ chức và duy trì các hoạt động giao lưu giữa học sinh
các khối lớp với nhau nhằm tăng cường mối liên hệ, tiếp xúc giữa các em, giúp
các em mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. Các hình thức giao lưu nên có sự đan
xen giữa kiến thức, kĩ năng (theo từng đối tượng học sinh) và các trò chơi tập
thể. Nên tổ chức định kì mỗi tuần hoặc mỗi tháng 1 lần.
Một số hình thức giao lưu gợi ý: giao lưu “Tiếng Việt của chúng em”; kể
chuyện sách, diễn kịch, thực hiện tốt các tiết Trại đọc qua sự kết hợp có hiệu
quả của giáo viên chủ nhiệm, Tổng phụ trách Đội và cán bộ thư viện.

15


Cuối mỗi tuần học, trong tiết sinh hoạt giáo viên nên tổng kết thi đua
khen thưởng kịp thời cho những học sinh tích cực trong học tập và rèn luyện,

nhắc nhở động viên những học sinh chưa tiến bộ, đồng thời có những biện pháp
cụ thể phù hợp động viên, khích lệ các em vươn lên trong học tập.
Biện pháp thứ mười ba: Xây dựng nề nếp học tập cho học sinh
Chương trình TV1 CGD có thiết kế 2 Tuần 0 để giáo viên dạy học sinh
làm quen với môi trường học tập mới, hướng dẫn học sinh biết cách nhận lệnh,
thực hiện và báo cáo kết quả (sản phẩm). Hai tuần này dù học sinh không được
học một chữ nào nhưng được đánh giá là có giá trị định hướng cho mọi việc về
sau. Làm tốt Tuần 0 thì sẽ dễ làm tốt các tiết học về sau. Song, không phải giáo
viên nào cũng nhận ra vai trò của tuần 0. Trong phần tự nhận xét của mình,
nhiều giáo viên thừa nhận chưa thực hiện tốt việc rèn nề nếp học tập cho học
sinh. Nề nếp học tập không tốt ảnh hưởng không ít đến quá trình tổ chức tiết
học (giáo viên mất nhiều thời gian hơn trong điều khiển, tổ chức lớp học; phải
nói nhiều vì lặp lại hiệu lệnh; khó kiểm soát kết quả việc làm của học sinh...) và
nó gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. Vì thế, xây dựng
tốt nề nếp học tập cho học sinh là điều cần phải thực hiện để góp phần nâng cao
chất lượng dạy học TV1 CGD.
Trong hai Tuần 0, học sinh được hướng dẫn và thực hành theo các nội dung:
Làm quen (giữa giáo viên - học sinh, giữa học sinh - học sinh)
Đồ dùng học tập và cách sử dụng (cách dùng và tư thế sử dụng bảng con,
phấn, khăn lau; cách dùng và tư thế sử dụng bút chì, vở; hướng dẫn viết các nét
cơ bản)
Xác định vị trí trên/ dưới; trái/ phải; trước/ sau; trong/ ngoài (kết hợp
chấm điểm tọa độ và viết các nét cơ bản).
Làm quen với kí hiệu
Luyện tập - củng cố kĩ năng
Qua “Tiết học chuẩn bị”, học sinh được làm quen và chuẩn bị những
điều cơ bản, cần thiết nhất cho các hoạt động học tập chính thức. Với những
nội dung trên, việc học sinh chưa qua mẫu giáo hay học sinh vùng khó đều
16



không phải là trở ngại. Nhưng khi tổ chức thực hiện các tiết này, đòi hỏi giáo viên
phải giao việc rõ ràng ngay từ đầu để đưa học sinh vào nề nếp, làm nghiêm túc, kỉ
luật nghiêm; khuyến khích học sinh nhiệt tình tham gia, rèn luyện tinh thần tập
thể. Giáo viên phải tuân thủ quy trình làm việc, làm việc nào chắc việc ấy. Khen
học sinh làm tốt, không chê em làm kém trước lớp.
Biện pháp thứ mười bốn: Quy ước các kí hiệu sử dụng trong tiết học
Ngoài những nội dung được hướng dẫn trong thiết kế, giáo viên nên
dùng các kí hiệu, tín hiệu để quy ước với học sinh trong hoạt động học tập.
Những kí hiệu, tín hiệu quy ước sẽ giúp giáo viên hạn chế việc nói nhiều (việc
sử dụng câu lệnh hay lời hướng dẫn dài dòng sẽ mất thời gian và dễ gây nhiễu
thông tin đối với học sinh, đồng thời nó giúp các hoạt động của lớp học diễn ra
nhịp nhàng, trật tự và nhanh gọn hơn. Ví dụ:
- Hiệu lệnh chuẩn bị - hiệu lệnh bắt đầu thực hiện - hiệu lệnh kết thúc:
1 tiếng gõ thước nhẹ - 2 tiếng gõ thước nhẹ - 1 tiếng gõ thước nhẹ hoặc tiếng
gõ thứ nhất - tiếng gõ thứ 2 - tiếng gõ thứ 3.
- Các kí hiệu sử dụng đồ dùng học tập: S/16 (sách giáo khoa, trang 16);
B (bảng con); V (vở trắng - viết chính tả); TV/24 (tập viết, trang 24),… Khi
viết các kí hiệu ấy vào một góc riêng trên bảng lớp, học sinh nhìn thấy sẽ tự
động thực hiện yêu cầu (lấy sách giáo khoa - mở ra trang 16; chuẩn bị bảng con
- phấn - giẻ lau hay lấy vở tập viết - mở ra trang 24,…), khi xóa kí hiệu ấy đi
thì học sinh sẽ tự biết là kết thúc hoạt động và cất những vật dụng đó vào.
Giáo viên giữ vai trò chủ chốt trong việc chọn lựa những kí hiệu, hiệu
lệnh quy ước với học sinh, sao cho những kí hiệu phải đơn giản, dễ nhận biết.
Sau khi đã thống nhất, giáo viên dành thời gian tổ chức huấn luyện cho học
sinh thực hiện theo những kí hiệu đã được quy ước ấy (kết hợp hướng dẫn thực
hiện trong các tiết chuẩn bị của Tuần 0).
Tăng cường sự hợp tác của cha mẹ học sinh
Cha mẹ học sinh là một trong những lực lượng gián tiếp tác động đến chất
lượng học tập TV1 CGD. Cha mẹ cần quan tâm, nhắc nhở con em trong học tập.

Không bắt các em nghỉ học phụ việc gia đình, cho các em học trước chương trình
17


hay dạy không đúng cách đều có tác động xấu đến các em. Vì vậy, nhà trường,
giáo viên và cha mẹ học sinh cần tăng cường sự hợp tác chặt chẽ với nhau.
Biện pháp thứ mười lăm: Hướng dẫn CMHS về cách học TV1 CGD
Căn cứ theo nhu cầu và nguyện vọng của CMHS, nhà trường có thể tổ chức
một buổi họp phụ huynh để hướng dẫn CMHS một cách cơ bản về cách dạy
học TV1 CGD. Nhà trường cần có kế hoạch tổ chức cụ thể, chi tiết, nhất là
chọn lọc nội dung cần hướng dẫn CMHS. Nội dung buổi họp phụ huynh cần
phải thông qua ý kiến của Phòng GD&ĐT trực tiếp quản lí, để đảm bảo tính
thống nhất và chặt chẽ trong chỉ đạo chuyên môn, tránh những sai sót không
đáng có trong quá trình thực hiện. Buổi họp nên tổ chức tập trung CMHS toàn
khối 1, không nên tổ chức theo từng lớp và nên chọn giáo viên có kinh nghiệm
dạy TV1 CGD để hướng dẫn mẫu cho CMHS. Ban giám hiệu cần theo sát buổi
họp để kịp thời giải đáp những thắc mắc của CMHS khi cần thiết. Qua những
buổi gặp mặt trong cuộc họp phụ huynh, giáo viên là người hướng dẫn cho
CMHS về cách thức dạy các cháu cách tự học ở nhà. Góp phần nâng cao chất
lượng về môn Tiếng Việt, để từ đó có kết quả cao hơn vào cuối năm học. Tuyên
truyền trong phụ huynh và các lực lượng xã hội làm cho phụ huynh vững tin
vào CGD, không nóng vội. Yêu cầu phụ huynh tuyệt đối không tự dạy đọc viết
ở nhà khi không có sự kiểm soát hoặc yêu cầu của giáo viên.
Biện pháp thứ mười sáu: để dạy tốt TV1 CGD GV phải thường xuyên
trau dồi kiến thức, tự hoàn thiện bản thân mình:
Để dạy tốt lớp 1 CGD không có cách nào hơn là phải thuộc Thiết kế và
thành thạo các thao tác, bởi vậy ngay từ đầu, mỗi giáo viên cần phải tranh thủ
đọc thiết kế và tập dạy trong nhóm; tập theo từng loại mẫu, quan trọng nhất là
phải nhớ đúng quy trình của các mẫu. Quá trình thực hiện nếu thấy có vướng
mắc cần hội ý tổ hoặc hỏi ngay cán bộ cốt cán; nếu chưa kịp hỏi, hoặc vẫn chưa

hiểu thì trước mắt cứ làm theo thiết kế.
Việc phản ánh chất lượng học tập của học sinh hay những khó khăn
vướng mắc đối với cán bộ quản lí các cấp hoặc giáo viên cốt cán cần hết
sức đúng sự thật, không dấu dốt, không chạy theo thành tích vì bất kì một lí do
18


nào. Công nghệ giáo dục không cho phép bất kì một sự dối lừa nào và không có
sự dối lừa nào không được phát hiện khi kiểm chứng các sản phẩm công nghệ.
Tính chất tuyến tính của chương trình Công nghệ giáo dục là hết sức
khắt khe nên nếu những bài đầu, việc đầu mà chưa làm được thì tuyệt đối chưa
làm việc tiếp theo. Cũng vì thế việc duy trì sĩ số, động viên học sinh đi học
chuyên cần, đúng giờ là hết sức quan trọng, giáo viên rất cần sự hỗ trợ của phụ
huynh trong vấn đề này. Cách tiếp cận của chương trình Tiếng Việt 1 CGD là
từ Âm đến Chữ, bởi vậy trong quá trình sử dụng các vật liệu đòi hỏi giáo viên
và học sinh phải phát âm thật chuẩn mực, rõ ràng. Cố gắng khắc phục các lỗi
phát âm địa phương để đi dần từ “chính âm” đến “chính tả”.
Giáo viên chỉ giao việc một lần; câu lệnh hoặc kí hiệu phải rõ ràng, đảm
bảo 100% học sinh nghe và hiểu. Khi giao việc và làm mẫu giáo viên phải
đứng ở vị trí thích hợp để tất cả học sinh đều nghe và quan sát được ( trung tâm
trước bục giảng). Khi giao việc xong giáo viên phải đi xuống lớp để kiểm soát
việc làm của tất cả học sinh, giúp đỡ, hướng dẫn học sinh; phải đảm
bảo 100% học sinh hoàn thành một việc mới giao việc khác. Nhận xét, đánh giá
phải trên cơ sở động viên, khích lệ học sinh để lấy việc phát huy ưu điểm mà
khắc phục nhược điểm qua 4 mức độ: làm được, làm đúng, làm đẹp, làm nhanh.
Phải thường xuyên có ý thức để ý theo dõi học sinh để biết được các nhu
cầu, nguyện vọng…ở giai đoạn đầu nhiều học sinh không dám trình bày với
bạn, với cô các nhu cầu cần sự giúp đỡ cho phép (cả về sức khỏe và học tập).
Những thói quen về vệ sinh lớp học, vệ sinh cá nhân cũng cần được hình thành
ngay từ những buổi học đầu tiên này.

Dạy Tiểu học nói chung và đặc biệt là dạy lớp 1 rất cần phải rèn luyện chữ
viết, nhất là chữ viết bảng cần viết ít, đủ nhưng đúng và đẹp (chú ý cả về kĩ
thuật viết các nét chữ, kích thước, khoảng cách… và luật chính tả trong khi
viết, trình bày bảng và cả trong chấm chữa, ghi lời phê của cô giáo).
Biện pháp thứ mười bảy: Hướng dẫn học sinh ngồi viết đúng tư thế.
Tư thế ngồi học, ngồi viết: đảm bảo sự thoải mái, hợp vệ sinh (chú ý các yếu
tố liên quan).
19


Tư thế đứng phát biểu: đứng thẳng, mắt nhìn thẳng vào cô giáo hoặc người
cần trả lời (tuyệt đối không vòng tay trước ngực khi trả lời).
Nói, hát: Phát âm phải to, rõ ràng, dõng dạc, dứt khoát.
Khoảng cách và kĩ thuật cầm bút: Cầm bút cao từ 2 - 2,5 cm; cầm bút bằng
3 ngón tay; dứt khoát phải kiểm soát được kĩ thuật và khoảng cách cầm bút của
học sinh trước và trong khi các em viết chữ (điều này cần có thủ thuật). Để học
sinh có thói quen cầm bút đúng khoảng cách và viết nhẹ tay, giai đoạn đầu dứt
khoát phải yêu cầu học sinh sử dụng bút chì do chính cô giáo gọt.
Đồ dùng học tập của học sinh: Sách giáo khoa, vở Em tập viết, bảng con,
phấn viết, con nhựa, bút chì, vòng, que ngắn, que dài, bộ chữ rời (đồ dùng cần
gọn, đảm bảo phù hợp kích cỡ và vệ sinh). Bảng con học sinh cần thống nhất,
đồng bộ trong các lớp để giáo viên dễ hướng dẫn vẽ mô hình và viết chữ đúng
kĩ thuât, tọa độ.
Đồ dùng dạy TV 1 của giáo viên: Thước, bảng con, phấn viết, que chỉ, nam
châm, vòng, que ngắn, que dài, gọt bút chì, bộ chữ học vần, bộ chữ mẫu tập
viết… ngoài ra cần có một số đồ dùng của học sinh dự phòng (các loại đồ dùng
học sinh hay hỏng, hay quên như bút chì, bảng con, phấn viết,…). Bảng lớp của
khối 1 cần mua sắm loại bảng chống lóa có kẻ sẵn dòng ô li để giáo viên tiết
kiệm thời gian và thuận lợi trong các thao tác hướng dẫn viết chính tả và trình
bày bảng.

Như vậy, muốn giáo dục một con người, muốn thay đổi một thế hệ,
muốn cải tổ một nền giáo dục phải bắt đầu từ lớp Một, cấp Một; phải thực sự
coi “Lớp Một là móng, cấp Một là nền”; đầu tư cho lớp Một, cho giáo dục tiểu
học là cách đầu tư khôn ngoan nhất và có lãi nhất! Giáo viên lớp Một là người
mang trên mình sứ mệnh quan trọng nhất trong việc hình thành các động hình
kĩ năng học tập, hành vi, ngôn ngữ giao tiếp, thói quen sinh hoạt… và tất cả
những gì khởi đầu cho việc hình thành nhân cách một con người.
Trong hoạt động dạy học tích cực hóa học tập, phương pháp dạy học là một
nhân tố của hoạt động dạy học, luôn có mối quan hệ chặt chẽ với các nhân tố
khác. Mỗi phương pháp dạy học chỉ phù hợp với nội dung của từng bài dạy hay
20


môn học nhất định. Nội dung dạy học mang tính toàn diện thì phương pháp dạy
học cũng phải tính đa dạng. Các phương pháp dạy học, dù là phương pháp dạy
học tích cực cũng có những ưu điểm và hạn chế riêng không có phương PPDH
nào là phương pháp tối ưu. Do vậy, cần lựa chọn và vận dụng phối hợp các
phương pháp dạy học một cách linh hoạt và sáng tạo, không có một phương
pháp dạy học tích cực nào là “vạn năng”.
2.3. Kết quả học tập môn Tiếng Việt lớp 1 của học sinh
Qua quá trình áp dụng các biện pháp dạy học TV1 CGD và kết quả của
HS trong năm học 2018 -2019 vừa qua, tôi nhận thấy:
Kĩ năng đọc: Các em đọc to rõ ràng, lưu loát hơn. Các em nắm chắc về
ngữ âm; biết phân biệt cấu tạo của tiếng.
Kĩ năng viết: Các em nắm chắc luật chính tả nên khi viết các em không
bị sai chính tả. Tốc độ viết của các em cũng đảm bảo nhanh hơn.
Kết quả khảo sát cuối năm năm học 2018 – 2019 tại lớp 1 khi đã thực
hiện chương trình TV CGD:
Số HS
24


Điểm 10 Điểm 9 Điểm 8
3
9
6

Điểm 7
4

Điểm 6
1

Điểm 5
1

Dưới 5
0

Như vậy, sau khi học chương trình TV CGD học sinh đọc tốt hơn, không
còn học sinh chưa hoàn thành môn Tiếng Việt. Các em không những đọc, viết
tốt mà các em còn nắm chắc phần ngữ âm và luật chính tả. Điều này chưa thể
hiện rõ ở chương trình Tiếng Việt hiện hành.

3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến:
Như vậy, dạy Tiếng Việt 1 theo CGD là một yêu cầu cấp thiết trong hoạt
động giáo dục. Việc dạy tốt Tiếng Việt CGD là góp phần thực hiện tốt công
cuộc đổi mới căn bản và toàn diện Giáo dục- Đào tạo. Đề tài “Một số biện
pháp nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt 1 CGD” đã chỉ ra được thực
trạng về việc dạy TV1 CGD và đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng

dạy học TV1 CGD. Đề tài này giúp cho người đọc nói chung và những người
21


trực tiếp giảng dạy TV1 CGD hiểu rõ hơn về mục tiêu và nội dung của môn
TV1 CGD và đưa ra được các giải pháp để họ có thể tham khảo và vận dụng
vào thực tiễn giảng dạy của mình nhằm nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy.
Góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục.
Để thực hiện tốt mục tiêu của giáo dục đòi hỏi mỗi người giáo viên phải
nghiên cứu kĩ các giải pháp và áp dụng thực hiện tốt các giải pháp đó. Trước
hết cần xác định rõ mục tiêu, nội dung dạy học TV1 CGD. Xác định rõ mục
tiêu sẽ là cơ sở để chúng ta thực hiện tốt nhiệm vụ đặt ra. Đồng thời đổi mới
phương pháp dạy học nhằm tích cự hóa hoạt động của học sinh. Giải pháp này
không chỉ cho học sinh mà còn có giá trị như một giải pháp đổi mới phương
pháp giáo dục và phương pháp quản lý cho giáo viên. Với học sinh, kết quả học
tập không chỉ là Tiếng Việt, mà còn là phương pháp tư duy ngôn ngữ và các
quan hệ học tập hiện đại. Ngoài ra, để dạy học TV1 CGD có hiệu quả chúng ta
cần chú ý đến nhóm biện pháp hỗ trợ. Nếu thực hiện tốt nhóm hỗ trợ xem như
chúng ta đã thành công được một nửa trong dạy học TV1 CGD.
Mỗi biện pháp có ý nghĩa và chức năng khác nhau nhưng giữa chúng có
sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau.Vì thế, cần phải thực hiện các biện pháp
trên một cách đồng bộ. Đồng thời, để thực hiện được các biện pháp này cần có
sự chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ giữa các cấp; sự nỗ lực của bản thân giáo viên các
trường tham gia dạy học TV1 CGD nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn
học này.
3.2. Kiến nghị, đề xuất:
Đối với nhà trường:
Quán triệt tinh thần triển khai dạy học TV1 CGD cho giáo viên nhận thức
rõ khó khăn, thuận lợi và phải quyết tâm thực hiện đạt hiệu quả.
Tổ chức thường xuyên các hội thảo chuyên đề, tạo cơ hội cho cán bộ

quản lí và giáo viên học tập, trao đổi kinh nghiệm trong quản lí, giảng dạy.
Phân công giáo viên dạy TV1 CGD một cách hợp lí, đảm bảo tính ổn
định. Nên chọn giáo viên có năng lực, trách nhiệm, tâm huyết dạy TV1 CGD.

22


Trang bị đầy đủ thiết bị dạy học phục vụ tốt cho hoạt động dạy học: nam
châm, bảng lớn có kẻ li (cho giáo viên), xốp hoặc nắp chai ( cho học sinh).
Tuyên truyền cho phụ huynh học sinh để tạo sự đồng thuận về việc dạy
học TV1 CGD.
Tổ chức giới thiệu cho phụ huynh biết về cơ chế đánh vần mới và một số
cách đọc các âm khác với cách đọc trước đó để phụ huynh biết và có thể giúp
đỡ con em mình khi các em quên cách đọc. Nếu phụ huynh không rõ phải trao
đổi với giáo viên.
Tâm lý của phụ huynh cũng rất hoang mang khi những tháng đầu kết quả
học tập của con em chưa đạt như chương trình cũ, để các bậc phụ huynh yên
tâm hơn, nhà trường cần phải tuyên truyền cho các bậc phụ huynh thường
xuyên khuyến khích, động viên các em tự học, kiên nhẫn, biết đợi và biết lắng
nghe những điều các em chia sẻ.
Về phía phụ huynh:
Lưu ý CMHS tạo mọi điều kiện thuận lợi để học sinh đi học đầy đủ, hạn
chế việc nghỉ học thường xuyên. không hướng dẫn con học ở nhà theo phương
pháp dạy học Tiếng Việt của chương trình hiện hành;.
Nên thường xuyên khuyến khích con tự học.
Nên kiểm soát việc học của con bằng cách đặt câu hỏi.
Không nên nóng giận và đặt suy nghĩ của mình cho trẻ.
Không nên tạo áp lực cho trẻ về thành tích.
Nên kiên nhẫn, biết đợi và lắng nghe những điều con nói.
Nên khen con thường xuyên.

Mua sắm đầy đủ dụng cụ học tập, sách vở cho học sinh.
Trên đây là một số kinh nghiệm, biện pháp tôi đã làm trong trong quá trình
dạy Tiếng việt 1 – công nghệ giáo dục và kiến nghị của bản thân. Tôi đã mạnh
dạn áp dụng và thu được những thành công nhất định. Tuy nhiên trong quá
trình thực hiện đề tài, không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận sự
đóng góp ý kiến của các đồng chí, bạn bè đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo quan

23


tâm giúp đỡ tạo điều kiện để nâng cao chất lượng môn Tiếng việt 1 CGD trong
quá trình dạy học.

24



×