SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN GIÁO DỤC
CÔNG DÂN TẠI TRƯỜNG THPT LÊ VIẾT THUẬT
TP VINH – NGHỆ AN
MÔN: GIÁO DỤC CÔNG DÂN
1
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT LÊ VIẾT THUẬT
=====*=====
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN GIÁO DỤC
CÔNG DÂN TẠI TRƯỜNG THPT LÊ VIẾT THUẬT
TP VINH – NGHỆ AN
Họ và tên giáo viên: Lê Thị Thu Hà
Bộ môn
: GDCD - Tổ: KHXH
Đơn vị công tác
: Trường THPT Lê Viết Thuật,
TP Vinh, Tỉnh Nghệ An
Số điện thoại
: 0915 698 356
Năm học: 2019-2020
MỤC LỤC
MỤC LỤC.............................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài...............................................................................................3
Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định “Giáo dục và
đạo tạo cùng với Khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và
là động lực thúc đẩy CNH – HĐH đất nước. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho
sự phát triển. Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức, có văn hoá, có kĩ năng
nghề nghiệp, gắn học với hành, tài với đức..”.......................................................3
2. Mục đích nghiên cứu.........................................................................................4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.....................................................................4
4. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu..................................................................4
5. Thời gian nghiên cứu.........................................................................................4
Phần II. NỘI DUNG..............................................................................................5
1. Cơ sở lý luận......................................................................................................5
1.1. Vai trò của việc bồi dưỡng học sinh giỏi........................................................5
1.3. Những nguyên tắc cơ bản trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn
Giáo dục công dân.............................................................................................8
Phần III. KẾT LUẬN..........................................................................................36
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................38
PHỤ LỤC............................................................................................................39
Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định “Giáo
dục và đạo tạo cùng với Khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền
tảng và là động lực thúc đẩy CNH – HĐH đất nước. Đầu tư cho giáo dục là đầu
tư cho sự phát triển. Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức, có văn hoá, có kĩ
năng nghề nghiệp, gắn học với hành, tài với đức..”.
Đảng ta cũng khẳng định: “nhân tài không phải sản phẩm tự phát mà phải
được phát hiện và bồi dưỡng công phu”. Nhiệm vụ xây dựng chiến lược quốc
gia về nhân tài và chương trình quốc gia về đào tạo bồi dưỡng nhân tài cũng đã
được Đảng ta chú trọng.
Để định hướng trên đi vào Giáo dục một cách thiết thực trong nhiều năm
qua các cuộc thi Học sinh giỏi cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp huyện hay các cuộc
thi tìm ra nhân tài theo các hình thức khác nhau luôn được tổ chức và đi vào
chiều sâu nhằm chọn ra nhân tài cho đất nước.
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi (HSG) các môn văn hóa là một nhiệm
vụ quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, tạo nguồn lực, bồi
dưỡng nhân tài cho nhà trường nói riêng, cho địa phương nói chung. Việc phát
hiện, đào tạo và bồi dưỡng, tạo điều kiện để nhân tài được phát huy tài năng,
đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một công việc
rất quan trọng. Như vây, đào tạo bồi dưỡng học sinh giỏi là bước đầu tiên, là vấn
đề cần thiết và cấp bách, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới hội nhập đất
nước hiện nay.
Trong những năm gần đây nhà trường đã xác định rõ vai trò của công tác
giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi nên đã đề ra kế hoạch và phân công cụ thể
ngay từ đầu năm học. Bồi dưỡng HSG là một công việc khó khăn và lâu dài, đòi
hỏi nhiều công sức của thầy và trò. Qua các kỳ thi HSG tỉnh, môn GDCD đã gặt
hái được những thành công nhất định góp phần vào kết quả thi HSG chung của
toàn trường.
Với ý nghĩa đó, bản thân tôi luôn quan tâm, tìm tòi trong công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi và bước đầu đã đạt được những thành tích đáng kể, góp
phần không nhỏ vào thành tích chung của nhà trường. Chính vì vậy tôi mạnh
dạn chia sẻ những kinh nghiệm thực tế của bản thân trong công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi và đó cũng chính là lí do tôi quyết định viết đề tài “Một số biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi môn Giáo dục công dân
tại trường THPT Lê Viết Thuật - TP Vinh – Nghệ An”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Trên cơ sở lí luận trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, đề tài đưa ra
một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn
Giáo dục công dân tham gia kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh hàng năm tại trường
THPT Lê Viết Thuật.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Đội tuyển học sinh giỏi lớp 11
- Phạm vi nghiên cứu: Kết quả HSG tỉnh 5 năm từ năm học 2015 đến
2020 tại trường THPT Lê Viết Thuật.
- Một số trường vận dụng nghiên cứu: Trường THPT Dân tộc Nội trú tỉnh;
Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng; Trường THPT Cửa Lò II.
4. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
Từ sự vận dụng thành công sáng kiến, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra kinh
nghiệm của mình trao đổi với bạn bè đồng nghiệp trong công tác bồi dưỡng, ôn
luyện học sinh giỏi môn GDCD. Kinh nghiệm này dựa chủ yếu vào thực tế hoạt
động sư phạm của bản thân mà các nhà nghiên cứu, viết sách chưa đề cập đến.
5. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 2/2019 đến tháng 3/2020
Phần II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1. Vai trò của việc bồi dưỡng học sinh giỏi
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn “Đảng và Nhà nước ta phải luôn
coi trọng việc chăm lo cho giáo dục, đặc biệt là việc phát hiện và bồi dưỡng tài
năng của thế hệ trẻ, tạo điều kiện cho thế hệ trẻ được phát huy tài năng, sức lực
của mình vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc”. Trong bài viết của mình đăng
trên báo Cứu quốc, ngày 20-11-1946 bác Hồ đã cho rằng: “Chính phủ và mọi
người cần phải trọng dụng người hiền năng….Nơi nào có người tài đức, những
việc ích nước lợi dân thì phải báo ngay cho Chính phủ biết.
Luật giáo dục của nước ta cũng khẳng định: “Việc bồi dưỡng học sinh đạt
kết quả xuất sắc trong học tập nhằm phát triển năng khiếu của các em về một số
môn học trên cơ sở bảo đảm giáo dục phổ thông toàn diện”. Chiến lược phát
triển giáo dục Việt nam đến năm 2020 nêu rõ: “Đảm bảo cả yêu cầu về số lượng,
chất lượng, hiệu quả giáo dục. Đồng thời với việc nâng cao chất lượng toàn diện
học sinh, sinh viên diện đại trà, cần mở rộng diện đào tạo bồi dưỡng học sinh,
sinh viên tài năng để chuẩn bị đội ngũ nhân lực có trình độ cao, thạo ngoại ngữ,
đủ sức cạnh tranh trong khu vực và thế giới ”.
Đảng ta xem việc chọn nhân tài, bồi dưỡng nhân tài là một phần quan
trọng trong quốc sách phát triển con người, điều đó được thể hiện qua việc chỉ
đạo dạy và học trong các nhà trường. Nghị quyết TW2 khoá VIII đã chỉ rõ:
“Việc bồi dưỡng học sinh giỏi là nguồn nhân tài cho đất nước được các nhà
trường đặc biệt quan tâm và mọi giáo viên đều có nhiệm vụ phát hiện và bồi
dưỡng học sinh giỏi”. Việc tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi và thi học sinh giỏi
nhằm: “Động viên khích lệ những học sinh và giáo viên trong dạy và học, góp
phần thúc đẩy việc cải tiến, nâng cao chất luợng giáo dục, đồng thời phát hiện
học sinh có năng khiếu để tiếp tục bồi dưỡng ở cấp học cao hơn, nhằm đào tạo
nhân tài cho đất nước” (Điều 1 - Quy chế thi chọn học sinh giỏi ban hành theo
quyết định 3479/1997/QĐ- BGD&ĐT ngày 01/11/1997. Như vậy, Nhân tài, học
sinh giỏi là yếu tố tiên quyết, không thể thiếu được đối với bất kỳ một dân tộc,
một quốc gia nào. Vì vậy quá trình phát hiện và tổ chức bồi dưỡng nhân tài, bồi
dưỡng học sinh giỏi đang được đặt gia và tiến hành trong các nhà trường và
trường THPT Lê Viết Thuật cũng không nằm ngoài qui luật đó.
Giáo dục công dân là môn học có tầm quan trọng đặc biệt trong việc
giáo dục nhân cách học sinh. Tầm quan trọng đặc biệt của môn học này trong
hệ thống các môn học ở trường phổ thông là ở chỗ môn Giáo dục công dân là
một hệ thống các kiến thức về nhiều lĩnh vực, nó góp phần hình thành thế giới
quan, nhân sinh quan lành mạnh ở học sinh, giúp học sinh biết phân biệt lẽ
phải, trái, biết tôn trọng bản thân và tôn trọng người khác, biết sống trung thực,
khiêm tốn, dũng cảm, biết yêu thương và vị tha. Đặc biệt, những kiến thức của
môn Giáo dục công dân giúp học sinh hình thành những kỹ năng sống cơ bản
để vững vàng bước vào đời: ý thức tổ chức kỷ luật, có thái độ đúng đắn trong
việc nhận thức và chấp hành pháp luật và cũng góp phần giúp học sinh có cơ
sở giải quyết những vấn đề của thực tế cuộc sống.
Mặc dầu có tầm quan trọng như vậy, nhưng vì nhiều lý do khác nhau, chất
lượng dạy và học môn Giáo dục công dân trong thời gian qua còn có nhiều bất
cập. Đã đến lúc phải có những đánh giá, nhìn nhận thực sự nghiêm túc cả từ
phía người dạy lẫn người học để từ đó có giải pháp nâng cao chất lượng dạy và
học môn học có vị trí đặc biệt quan trọng này, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng dạy và học môn Giáo dục công dân, trước
hết cần nghiêm túc nhìn nhận lại vai trò, vị trí của môn học này trong hệ thống
các môn học trong trường phổ thông từ đó đề ra các giải pháp cụ thể và có tính
khả thi.
Đối với người học, cần thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá vai trò của môn
học này trong việc trau dồi nhân cách, hoàn thiện bản thân, từ đó xác định đúng
động cơ và thái độ học tập.
Đối với giáo viên, cần có những nỗ lực trong việc cải tiến, đổi mới
phương pháp giảng dạy. Dạy học phải theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng cho học sinh năng lực tự học, khả năng
thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên, khắc phục thói quen học tập
thụ động theo kiểu: Cô giảng - trò nghe, cô hỏi - trò trả lời, cô đọc - trò chép và
học thuộc. Trong quá trình dạy giáo viên phải có những cách thức cụ thể trong
việc làm “mềm” hoá môn học vốn được xem là khô khan, trừu tượng này bằng
những ví dụ sinh động trong đời sống thực tế. Quá trình dạy phải gắn bó chặt
chẽ với thực tiễn cuộc sống của học sinh, giáo viên cần tăng cường sự dụng các
tình huống, các câu chuyện, các hiện tượng thực tế, các vấn đề “nóng” trong xã
hội để phân tích, đối chiếu, minh họa cho bài giảng. Đồng thời, cần hướng dẫn,
khuyến khích học sinh liên hệ, điều tra, tìm hiểu, phân tích đánh giá các sự kiện
trong đời sống của lớp học, nhà trường, địa phương, đất nước. Có thể thay cách
thuyết giảng một chiều bằng việc nêu những câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề thảo
luận nhằm phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong một số
tiết học, trong những tình huống cụ thể, để tạo sự hào hứng và cuốn hút học sinh
vào bài học, có thể dàn dựng những vở kịch ngắn do chính học sinh thể hiện.
Giáo viên cần khuyến khích học sinh nêu thắc mắc của mình trong khi nghe
giảng, đặt câu hỏi cho cô, cho bạn, trao đổi, tranh luận, phải huy động, khai thác
tối đa kinh nghiệm sống của học sinh, tạo cơ hội và động viên khuyến khích học
sinh bày tỏ quan điểm, ý kiến các nhân về vấn đề đang học tạo nên mối quan hệ
hợp tác trong giao tiếp giữa cô với trò, trò với trò trong quá trình chiếm lĩnh kiến
thức. Đồng thời giáo viên cần đầu tư hơn trong việc sưu tầm tư liệu, tranh ảnh
minh hoạ, cùng các dụng cụ trực quan tạo ra sự sinh động cho mỗi giờ lên lớp.
Có thể nói rằng quá trình dạy một bài giáo dục công dân phải là quá trình
học sinh được cuốn hút vào các hoạt động do giáo viên thiết kế, tổ chức và chỉ
đạo, để thông qua đó, học sinh có thể tự khám phá và nắm vững nội dung bài
học. Học sinh sẽ hứng thú, thông hiểu và ghi nhớ những gì học sinh đã nắm
được qua hoạt động chủ động, nỗ lực của chính mình. Từ đó sẽ làm cho học sinh
yêu thích môn Giáo dục công dân hơn, đam mê với môn học và cũng làm cho
giáo viên có điều kiện để chọn ra những em học sinh giỏi tham gia vào đội tuyển
học sinh giỏi cấp Tỉnh môn Giáo dục công dân hàng năm.
1.2. Tổng quan nghiên cứu về bồi dưỡng học sinh giỏi môn Giáo dục
công dân
Trong những năm gần đây, các đề tài nghiên cứu bồi dưỡng học sinh giỏi
khá nhiều. Các môn học, các lĩnh vực khác nhau đều có giáo viên nghiên cứu và
có những bài học kinh nghiệm cho đội ngũ giáo viên tham gia bồi dưỡng học
sinh giỏi. Ở tỉnh Nghệ An, các đề tài về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi trên
các lĩnh vực Văn, Toán, Lý, Hóa...được nhiều giáo viên quan tâm. Tuy nhiên, đề
tài nghiên cứu về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD còn rất ít. Nếu
có, các giáo viên mới chỉ nêu lên một số kinh nghiệm chưa khái quát thành hệ
thống đầy đủ.
Nhận thấy, đây là lĩnh vực mà bản thân tôi có nhiều kinh nghiệm. Hơn
nữa trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi đạt kết quả cao nên tôi khái quát đề
xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD
tại trường THPT Lê Viết Thuật trong bối cảnh hiện nay là vấn đề mới làm đề tài
nghiên cứu của mình.
1.3. Những nguyên tắc cơ bản trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
môn Giáo dục công dân
Trong giai đoạn hiện nay đất nước của chúng ta đang đứng trước một xã
hội tương lai: Xã hội thông tin và xã hội học tập, mà ở đó mỗi một con người
phải xác định cho mình một tương lai trên cơ sở của một nền giáo dục tốt, để từ
đó hình thành nên những năng lực, phẩm chất tốt đẹp của một người công dân
xứng đáng là là vị trí trung tâm của sự phát triển. Bồi dưỡng học sinh giỏi là
nhiệm vụ mũi nhọn quan trọng trong trường phổ thông. Để đạt kết quả tốt trong
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Giáo dục công dân cần đảm bảo các
nguyên tắc sau đây:
- Đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục: Tính khoa
học trong quá trình dạy học môn GDCD trước hết bằng chính nội dung dạy học.
Tính khoa học được thể hiện trong phương pháp dạy học, hình thức tổ chức dạy
học. Đảm bảo tính khoa học trong dạy học là dạy đúng, dạy đủ những tri thức
khoa học được quy định trong chương trình cấp học. Tính giáo dục là thuộc tính
bản chất của quá trình dạy học nhằm đạt tới sự phát triển nhân cách toàn diện
cho học sinh. Hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học và những phẩm chất
đạo đức của con người mới. Đảm bảo tính thống nhất giữa khoa học và giáo dục
là trong quá trình dạy học đồng thời giúp học sinh nắm tri thức khoa học và hình
thành phẩm chất đạo đức cho học sinh.
Vì vậy, yêu cầu mỗi giáo viên phải có trình độ chuyên môn vững vàng, kĩ
năng ngôn ngữ, tổ chức hợp lí các hoạt động dạy học, xử lí linh hoạt, sáng tạo
các tình huống có vấn đề. Bằng những kiến thức, giáo viên bồi dưỡng cho học
sinh một cách có hệ thống giúp học sinh có tình cảm đúng đắn đối với môn học.
Ngược lại, tình cảm yêu mến môn học giúp các em có ý thức cao hơn trong quá
trình bồi dưỡng.
- Đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính thực tiễn: Đối với
môn GDCD, tính thực tiễn chiếm vị trí quan trọng trong quá trình dạy học. Mọi
lý luận học sinh học được nếu không có tính thực tiễn thì đó chỉ là lý luận
suông. Vì vậy, trong quá trình bồi dưỡng giáo viên không chỉ giúp học sinh nắm
vững kiến thức mà còn hình thành kĩ năng vận dụng thành thạo nhằm góp phần
cải tạo hiện thực, cải tạo bản thân. Qua thực tiễn, nó khẳng định tính đúng đắn
của khoa học.
- Đảm bảo sự thống nhất giữa dạy và học
Trong quá trình dạy học, hoạt động học đóng vai trò chủ đạo. Học sinh tự giác,
tự lực tiếp thu kiến thức dưới tác động của giáo viên. Thông qua vai trò của
người giáo viên, học sinh phát huy được tính tự giác, tích cực, ham mê tìm kiến
thức mới.
- Đảm bảo tính khoa học với tính vừa sức: Đây là một nguyên tắc vô cùng
quan trọng khi bồi dưỡng học sinh giỏi. Bởi yêu cầu, nhiệm vụ học tập phải phù
hợp với trí tuệ học sinh.
Dạy học phù hợp khả năng, năng lực, trình độ phát triển của đối tượng
học sinh, đảm bảo học sinh đều được phát triển ở mức cao nhất. Những kiến
thức chúng ta truyền tải đến học sinh phải được học sinh tiếp thu trên cơ sở phát
huy hết khả năng của mình. Bồi dưỡng học sinh giỏi không phải là dạy những
bài quá khó, những lý luận xa vời mà phải bắt đầu từ dạy chuẩn kiến thức, kỹ
năng theo khung chương trình giới hạn mà kế hoạch của Sở Giáo dục đã ban
hành từng khối lớp. Trên cơ sở chuẩn kiến thức, giáo viên có thể mở rộng, khắc
sâu kiến thức cho học sinh. Nếu đưa những kiến thức quá cao đối với các em,
các em không những không hiểu mà còn dẫn đến việc chán học, lâu dần các em
sẽ cảm thấy quá áp lực, xa vời không hứng thú với việc bồi dưỡng học sinh giỏi.
Hoặc nếu chỉ dừng lại ở việc cung cấp kiến thức theo chuẩn thì khó có học sinh
giỏi và không phát huy được tính sáng tạo, tích cực học tập của học sinh.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Giáo dục
công dân ở trường THPT
Như chúng ta đã biết, để có học sinh giỏi đạt kết quả cao trong các kỳ thi
do nhiều yếu tố: Tố chất học sinh, sự quan tâm của gia đình, nhà trường và xã
hội, ý thức học tập của học sinh, việc bồi dưỡng và không ngoại trừ yếu tố may
mắn. Tuy nhiên chúng ta không chỉ chờ đợi và cầu mong ở sự may mắn bởi vì
yếu tố may mắn chỉ là một phần rất nhỏ. Phương châm có câu: "Trở thành nhân
tài một phần do tài năng còn 99 phần là ở sự tôi luyện". Theo quan điểm của tôi,
điều quan trọng hơn cả là chúng ta phải trang bị cho các em vững vàng kiến thức
trước khi đi thi. Do vậy việc bồi dưỡng vẫn là yếu tố quan trọng hơn cả. Nhưng
chúng ta cần bồi dưỡng học sinh giỏi những nội dung gì? bồi dưỡng như thế nào
cho đạt hiệu quả? điều đó cần nhìn rõ thực trạng bồi dưỡng học sinh giỏi hiện
nay.
Trong những năm gần đây, môn GDCD đã được đưa vào chương trình thi
Trung học phổ thông quốc gia. Chính vì vậy, giáo viên, học sinh và phụ huynh
quan tâm hơn đến môn học này. Tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn rằng một thực
tế hiện nay là một bộ phận học sinh ít chú ý đến bộ môn GDCD. Tự bản thân
các em coi đó là môn phụ. Bởi vậy không ít các giờ học GDCD thường diễn ra
tẻ nhạt, nặng nề, học sinh ít quan tâm, dẫn đến không ít giáo viên cảm thấy chán
nản, mất hứng thú khi bước lên bục giảng. Cũng chính vì điều đó nên đã ảnh
hưởng không nhỏ đến việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD. Một vấn đề
luôn được đặt ra là làm thế nào để nâng cao chất lượng học tập bộ môn ? Làm
thế nào để học sinh yêu thích với bộ môn GDCD? Làm thế nào để mỗi giáo viên
khi bước lên bục giảng đều cảm thấy yêu nghề, được học sinh coi trọng? Làm
thế nào để học sinh tham gia kỳ thi học sinh giỏi đạt kết quả đáng khích lệ? Tất
cả những câu hỏi đó đòi hỏi người giáo viên phải không ngừng nỗ lực cố gắng
để đem lại kết quả cao cho bộ môn.
Có thể thấy công tác bồi dưỡng HSG GDCD ở các trường THPT trên địa
bàn tỉnh Nghệ An và trường THPT Lê Viết Thuật hiện nay đang gặp một số khó
khăn nhất định đó là công tác tuyển chọn học sinh bồi dưỡng, xây dựng chương
trình, nội dung bồi dưỡng, quy trình bồi dưỡng giảng dạy, tài liệu bồi dưỡng,
công tác kiểm tra, kiểm định chất lượng... Bởi lẽ trong thực tế, theo quan niệm
sai lầm của một số người: môn Toán, Văn, Ngoại ngữ mặc nhiên được coi là
“chính”, các môn khác bị coi là “phụ”, riêng môn Giáo dục công dân là “rất
phụ”. Quan niệm “chính” - “phụ” không chỉ có ở phụ huynh, mà còn có trong cả
người học, thậm chí ngay cả trong đội ngũ giáo viên. Mặt khác đa số các học
sinh không muốn tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi với các lý do: đây không
phải là môn khối, tâm lí ngại thi môn Giáo dục công dân, thi môn này không oai
với các bạn, mất thời gian,…
Thực tế đã có nhiều trường hợp xảy ra đối với bản thân tôi trong quá trình
lấy danh sách đội tuyển tham gia học sinh giỏi. Học sinh khi được giáo viên
chọn thi môn Giáo dục công dân tỏ ra không thích, thậm chí trả lời rất thẳng
thắn “Em không thi môn Giáo dục công dân đâu cô ạ!” còn có những trường
hợp phụ huynh khi biết con được giáo viên chọn đi thi môn Giáo dục công dân
phụ huynh cũng đã có phản ứng liền là không đồng ý vì sợ mất thời gian và làm
ảnh hưởng đến các môn khối. Ngay cả trong đội ngũ giáo viên cũng có những
người có sự tác động đến học sinh của mình không muốn cho tham gia thi môn
Giáo dục công dân. Chính những khó khăn đó luôn đè nặng trên vai và tâm trí
của người giáo viên môn Giáo dục công dân khi tham gia dạy bồi dưỡng học
sinh giỏi. Vì vậy ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả chất lượng học sinh giỏi
môn Giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông.
2.2. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi môn Giáo dục công dân ở trường THPT hiện nay
2.2.1. Thuận lợi
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD ở các trường THPT trên địa
bàn tỉnh Nghệ An nói chung và ở trường THPT Lê Viết Thuật nói riên hiện nay
có thế thấy có rất nhiều thuận lợi:
Thứ nhất, bên cạnh nhiệm vụ chuyên môn thường xuyên, Ban giám hiệu
các trường THPT đã rất quan tâm đến công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Đây
được coi là chất lượng mũi nhọn để xây dựng thương hiệu của nhà trường, vì
vậy, lãnh đạo nhà trường đã có sự chỉ đạo, quan tâm sâu sát kịp thời, có những
kế hoạch cụ thể và lâu dài cho công tác bồi dưỡng HSG.
Thứ hai, đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, nhiều thầy,
cô có kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG và đặc biệt là có nhiệt huyết
lớn trong công tác bồi dưỡng HSG. Ở trường THPT Lê Viết Thuật 4/4 giáo viên
đã từng tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi đều có kết quả tốt. Đây là yếu tố quan
trong tạo nên kết quả học sinh giỏi tỉnh hàng năm cao.
Thứ ba, nhận thức của phụ huynh, học sinh đã có nhiều thay đổi đối với
môn học. Đặc biệt có nhiều em học sinh muốn tham gia thi chọn vào đội tuyển
học sinh giỏi tỉnh; phụ huynh quan tâm nhiều hơn đến môn học.
Thứ tư, để hỗ trợ cho công tác dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả, nhà
trường đã có sựu quan tâm đặc biệt và có những biện pháp hỗ trợ đúng mức, tạo
điều kiện cho giáo viên và học sinh tham gia bồi dưỡng như có chế độ thưởng
cho giáo viên và học sinh ngoài quy định thưởng của tỉnh. Đó là một động lực
để giáo viên và học sinh thấy mình có trách nhiệm hơn với công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi.
2.2.2. Khó khăn
Trong công tác bồi dưỡng HSG của một số trường thường gặp những hạn
chế về kết quả. Điều đó xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu như sau:
- Đa số giáo viên dạy bồi dưỡng vừa phải bảo đảm chất lượng đại trà, vừa
phải hoàn thành chỉ tiêu chất lượng mũi nhọn và công tác kiêm nhiệm. Do đó
việc đầu tư cho công tác bồi dưỡng HSG cũng có phần bị hạn chế.
- Công tác tự nghiên cứu, tự bồi dưỡng để nâng cao chất lượng dạy học
sinh giỏi đòi hỏi nhiều thời gian, tâm huyết. Cùng với đó trách nhiệm lại nặng
nề, áp lực công việc lớn cũng là những khó khăn không nhỏ với các thầy cô giáo
tham gia BD HSG.
- Ngoài ra, không phải không có trường hợp có những thầy, cô giáo có
chuyên môn giỏi và có kinh nghiệm nhưng chưa thật mặn mà với công tác
BDHSG vì nhiều lí do khác nhau.
- Học sinh luôn đứng trước sự lựa chọn giữa học chuyên sâu để thi HSG
và học để thi Đại học, các em không yên tâm vì phải mất nhiều thời gian và ảnh
hưởng đến kết quả học tập ôn thi Đại học sau khi thi HSG.
- Bên cạnh đó nội dung bồi dưỡng thiếu định hướng và thiếu tính liên
thông trong hệ thống chương trình. Tất cả giáo viên dạy bồi dưỡng đều phải tự
soạn, tự nghiên cứu và tự sưu tầm tài liệu; Học sinh, một số không yên tâm khi
tham gia lớp bồi dưỡng HSG vì phải mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến sức
khỏe và kết quả học tập chung ở trên lớp; Giáo viên dạy bồi dưỡng vẫn phải
hoàn tất công tác giảng dạy như các giáo viên khác, đôi khi còn kiêm nhiệm
nhiều công tác khác như: chủ nhiệm, tổ trưởng bộ môn, công đoàn… đó là một
thực tế do BGH lúc nào cũng muốn giao công tác cho những giáo viên tốt, có uy
tín. Chính vì lý do đó, việc đầu tư cho công tác bồi dưỡng HSG cũng có phần bị
hạn chế; Việc giáo viên dạy bồi dưỡng phải dựa trên đối tượng HS phải “đạt yêu
cầu” mới được chọn để bồi dưỡng. Cho nên việc chọn lựa cần đúng đối tượng.
Đó là công việc phát hiện rồi chọn lọc và phân loại.
3. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi
môn Giáo dục công dân ở trường THPT Lê Viết Thuật
3.1. Tuyển chọn học sinh tham gia đội tuyển học sinh giỏi
Trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi người thầy đóng vai trò quan
trọng nhưng học sinh là yếu tố quyết định sự thành công. Thông thường những
em có tố chất thông minh, học lực khá - giỏi bao giờ cũng đăng ký vào đội tuyển
các môn học theo khối như: Toán, Lý, Hoá, Văn, Ngoại ngữ… rồi cuối cùng mới
đến GDCD. Đó cũng là điều dễ hiểu. Vậy làm thế nào để học sinh say mê, thích
học môn GDCD? Điểm xuất phát phải bắt đầu từ người thầy. Thầy phải thực sự
coi bộ môn mình dạy như cái nghiệp của mình để chuyên tâm gắn bó và sáng tạo
không ngừng. Ngoài năng lực truyền thụ tri thức lí luận khoa học, thầy phải
nhập vai là minh chứng sống động trong thực tiễn để học sinh thấy được sự thú
vị cũng như ý nghĩa của bộ môn có tính định hướng và tính giáo dục cao. Niềm
say mê ấy phải được bộc lộ qua từng bài giảng, trong từng câu chuyện đời
thường và giải quyết những tình huống xảy ra trong thực tế cuộc sống.
Vì thế tôi nhận thấy, giáo viên dạy đội tuyển môn GDCD phải là người
truyền được “lửa” cho học sinh. Tức là phải khơi dậy ở các em sự yêu thích môn
học, niềm tin và lòng say mê để các em tự giác tham gia với động cơ đúng đắn
và có quyết tâm thi đạt kết quả cao. Có thể nói, đây là khâu quan trọng nhất tác
động đến tâm lý học sinh thực sự có hiệu quả vì nó quyết định việc các em sẽ
học và thi như thế nào. Để làm được điều này, theo tôi giáo viên vừa đóng vai
trò là người thầy đồng thời cũng là người bạn lớn của các em, để phân tích và
chỉ ra cho các em thấy được những lợi thế khi tham gia đội tuyển học sinh giỏi.
Đó chính là phương pháp học như thế nào để nhớ nhanh, nhớ kỹ và nhớ chính
xác nhất. Điều này đặc biệt quan trọng và cần thiết đối với kiến thức các môn xã
hội. Ngoài ra, còn giúp các em kỹ năng xác định đề, phân tích đề, khả năng lập
luận tư duy, vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề trong các môn khoa học tự
nhiên. Và điều quan trọng hơn đó là các em được trải nghiệm phương pháp học
tập cũng như tâm lý khi bước vào kỳ thi, từ đó có sự điều chỉnh bổ sung phù hợp
kịp thời. Có thể nói, đó chính là những bước đi ngắn giúp các em tiến đến các kỳ
thi nói chung và kỳ thi HSG nói riêng.
Ngoài phương pháp truyền thống là cho học sinh tự đăng ký, qua từng tiết
học, từng bài kiểm tra đánh giá, giáo viên cần phát hiện những học sinh có khả
năng trình bày bài, khả năng vận dụng và giải quyết vấn đề, giải quyết tình
huống, cách lập luận tốt và thông qua giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn
giới thiệu để lựa chọn, động viên các em tham gia đội tuyển học sinh giỏi cấp
trường tạo nguồn đội tuyển học sinh giỏi cấp tỉnh. Từ nguồn học sinh như trên,
sau khi thi học sinh giỏi cấp trường tôi tiến hành lựa chọn danh sách đội tuyển,
theo thang điểm từ cao xuống thấp và lấy từ 3 đến 5 em.
Có thể nói rằng việc chọn nguồn học sinh giỏi và thành lập đội tuyển là
khâu đầu tiên có vai trò rất quan trọng trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi.
Bởi vì bên cạnh vai trò hướng dẫn của giáo viên thì học sinh là yếu tố quyết định
đến sự thành công. Tuy nhiên việc chọn nguồn lại là một vấn đề gặp rất nhiều
khó khăn đối với bộ môn của tôi. Cụ thể:
- Về phía phụ huynh học sinh: Đa số tâm lí của phụ huynh không muốn
cho con mình thi môn Giáo dục công dân. Bản thân tôi đã từng gặp những phụ
huynh như vậy trong thực tế, thậm chí khi tôi gọi điện trao đổi họ còn từ chối
một cách thẳng thắn.
- Về phía học sinh: Học sinh cảm thấy môn học này khó vì kiến thức khô
khan, khó hiểu cụ thể như kiến thức của phần kinh tế, phần chính trị - xã hội…
Tâm lí ngại sợ các bạn trêu vì không phải thi môn chính. Có nhiều em khi được
chọn vào đội tuyển Văn, Sử, Địa rất vui vẻ nhưng nếu được chọn vào đội tuyển
thi môn Giáo dục công dân thì không vui lắm.
- Về phía giáo viên bồi dưỡng: Ngoài những khó khăn gặp phải về phía
phụ huynh, học sinh như đã nêu trên thì trong quá trình chọn nguồn vẫn còn
không ít những khó khăn khác. Bởi lẽ thông thường các em có tố chất thông
minh, học lực khá, giỏi đều muốn đăng kí dự thi vào các đội tuyển Toán, Văn,
Ngoại ngữ, Sử, Địa… Do vậy việc chọn nguồn học sinh giỏi môn Giáo dục công
dân bao giờ cũng là diễn ra sau cùng, các môn chọn ngược chọn xuôi, thậm chí
loại ra khi đó mới đến lượt môn Giáo dục công dân. Khi giáo viên đã chọn được
rồi cũng đâu dễ dàng để học sinh theo mình và đi thi cho mình. Đứng trước
những khó khăn đó bản tôi luôn trăn trở để tìm ra hướng giải quyết tốt nhất và
cuối cùng tôi đã có những bước đầu thành công trong việc chọn nguồn.
Ngoài ra, trong quá trình bồi dưỡng tôi còn tiếp tục thi khảo sát ít nhất ba
lần để đánh giá chính xác khả năng của từng em. Từ đó có thể lấy bổ sung thêm
hoặc loại bớt một số em không tiến bộ trong đội tuyển. Như vậy, để chọn đội
tuyển một cách hiệu quả cần thực hiện tốt các bước sau đây:
Thứ nhất, Người giáo viên phải làm cho học sinh hiểu và nhận thức đúng
về tầm quan trọng của môn Giáo dục công dân, yêu môn học, say mê từng tiết
học. Muốn vậy giáo viên phải thật sự coi môn mình dạy như là một cái nghiệp
của mình, chuyên tâm gắn bó, trau dồi chuyên môn, đổi mới phương pháp dạy
học, thiết kế bài giảng đa dạng, sáng tạo tránh nhàm chán cho học sinh. Từ đó sẽ
cuốn hút học sinh khiến cho các em thích thú với môn học. Hầu hết các tiết dạy
của tôi luôn diễn ra sôi nổi, học sinh phát huy hết năng lực của mình. Trên cơ sở
đó tôi sẽ dễ dàng phát hiện ra những em học sinh có tố chất tốt, có tư duy thông
minh động viên các em vào nguồn bồi dưỡng của mình.
Thứ hai, khi đã tìm được nguồn học sinh giỏi thì lúc này tôi nghĩ giáo
viên phải là người truyền lửa cho học sinh, truyền sự say mê, niềm đam mê của
mình cho học sinh. Khơi dậy trong các em niềm tin, tạo ra động lực để các em tự
giác tham gia với động cơ đúng đắn và có quyết tâm cao. Giáo viên phân tích
cho các em những lợi thế khi được chọn vào đội tuyển thi học sinh giỏi tỉnh. Khi
tham gia thi học sinh giỏi giúp các em có cơ hội để thể hiện mình. Hệ thống kiến
thức môn Giáo dục công dân giúp cho các em vận dụng rất nhiều trong cuộc
sống như các kiến thức phần đạo đức, phần kinh tế. Khi tham gia kỳ thi học sinh
giỏi các em có cơ hội để thể hiện mình, sẽ có những sự trải nghiệm thú vị, rèn
luyện cho các em sự tự tin, có cơ hội gặp gỡ, tranh tài với các bạn đến từ những
ngôi trường có tiếng trong tỉnh. Đặc biệt qua kỳ thi đó cũng chính là bước khởi
đầu các em rèn luyện tâm thế thi cử để bước vào ký thi đại học với tâm thế tự tin
hơn.
Thứ ba, Việc chọn nguồn nên tập trung ở các lớp có nhiều học sinh khá
giỏi của trường. Bởi vì những lớp này học sinh có sự cạnh tranh trong học tập
cao. Mặt khác các em được chọn phải rất tâm huyết, có lòng đam mê, có niềm
tin, có bản lĩnh. Đối với bản thân tôi ngoài việc các em có kĩ năng nhớ tốt thì
còn phải có tư duy sáng tạo biết vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề, các
tình huống trong cuộc sống. Bởi lẽ đặc trưng của bộ môn Giáo dục công dân về
kiến thức được vận dụng vào thực tiễn rất nhiều. Sau khi đã phát hiện nguồn tôi
động viên các em tham gia vào đội tuyển học sinh giỏi cấp trường và tiến hành
quan sát, bồi dưỡng các em. Thông thường việc lập đội tuyển diễn ra sau học kì
I của lớp 10 và đội tuyển chính thức thì sau học kì II của lớp 10 sẽ đánh giá và
chốt danh sách đội tuyển học sinh giỏi. Tất nhiên muốn chọn được đội tuyển có
chất lượng thì giáo viên phải có những lần khảo sát thực chất để đảm bảo tính
khách quan, chính xác. Đề ra phải chuẩn, chấm và chữa kịp thời thì mới đánh
giá đúng năng lực học sinh.
3.2. Xây dựng chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi
Xây dựng chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi là một trong những yếu tố
quan trọng để người giáo viên xác định được nhiệm vụ của mình dạy cho học
sinh nội dung gì và dạy như thế nào.
Để thực hiện nhiệm vụ này, giáo viên cần căn cứ vào kế hoạch của Sở
Giáo dục&Đào tạo, nhiệm vụ của nhà trường về công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi, khung chương trình và cấu trúc đề thi để xây dựng chuyên đề bồi dưỡng
cho đúng trọng tâm kiến thức.
Cụ thể, với kinh nghiệm của nhiều năm qua, tôi đã xây dựng hệ thống
chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi như sau:
Chuyên đề 1: Công dân với đạo đức
Chuyên đề 2: Công dân với tình bạn, tình yêu, hôn nhân và gia đình.
Chuyên đề 3: Công dân với cộng đồng
Chuyên đề 4: Công dân với đất nước
Chuyên đề 5: Công dân với những vấn đề cấp thiết của nhân loại.
Chuyên đề 6: Công dân với việc tự hoàn thiện bản thân
Chuyên đề 7: Công dân với kinh tế.
Chuyên đề 8: Công dân với các vấn đề về chính trị - xã hội.
Chuyên đề 9: Công dân với việc hình thành lý tưởng sống.
Chuyên đề 10: Công dân với những vấn đề xã hội hiện nay.
Với 10 chuyên đề xây dựng theo cấu trúc thi học sinh giỏi đã khái quát
toàn bộ khung chương trình thi. Trên cơ sở đó có sự phân bố thời gian hợp lý để
học sinh có khả năng tiếp thu đầy đủ nội dung đã xây dựng.
Mỗi chủ đề được xây dựng theo trình tự sau:
- Mục tiêu của chủ đề
- Kiến thức, kĩ năng cần bồi dưỡng: bao gồm kiến thức cơ bản, kiến thức
mở rộng và nâng cao, kĩ năng thực hành.
- Phương pháp trả lời cho từng dạng đề: có chú ý đến những phương pháp
trả lời khác nhau.
- Câu hỏi/Bài tập mẫu.
- Câu hỏi/Bài tập luyện tập gồm câu hỏi/bài tập cơ bản, câu hỏi/bài tập
nâng cao
- Đề kiểm tra hết chủ đề.
- Rút kinh nghiệm giảng dạy.
- Sưu tập các bộ đề đã sử dụng làm tài liệu tham khảo.
Ví dụ: Xây dựng chuyên đề: Công dân với đạo đức
- Mục tiêu: Học sinh nắm được
+ Về kiến thức: Quan niệm về đạo đức; Phân biệt đạo đức với pháp luật;
vai trò của đạo đức đối với cá nhân, gia đình, xã hội. Một số phạm trù cơ bản
của đạo đức.
+ Về kỹ năng: Học sinh biết vận dụng những kiến thức đã học để giải
quyết những tình huống trong thực tiễn. Biết nhận diện được các phạm trù đạo
đức từ những tình huống, bài tập.
- Thời gian bồi dưỡng: 2 buổi.
Buổi 1: Đạo đức là gì? Phân biệt đạo đức với pháp luật. Vai trò của đạo
đức đối với cá nhân, gia đình và xã hội.
Buổi 2: Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học: Nghĩa vụ, lương tâm,
nhân phẩm, danh dự, hạnh phúc.
- Một số câu hỏi, bài tập tình huống:
Câu 1: Trong bài hát “Một đời người, một rừng cây” nhạc sĩ Trần Long
Ẩn có viết “Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ dành phần ai”.
Dựa vào kiến thức đã học, em hãy làm rõ ý nghĩa của lời bài hát trên.
Câu 2: H là con lớn trong gia đình. H không những là học sinh giỏi của
lớp và còn là người con ngoan, luôn yêu quý, kính trọng, hiếu thảo với bố mẹ.
Những khi ở nhà, ngoài công việc học hành, H còn thường xuyên giúp bố mẹ
trong một số công việc gia đình. Ai cũng khen H là người chăm chỉ và ngoan
ngoãn.
Khi nói về H, các bạn trong lớp có các ý kiến khác nhau:
- Một số bạn nói việc H yêu quý bố mẹ, kính trọng và giúp đỡ bố mẹ khà
thực hiện nghĩa vụ của người con đối với cha mẹ theo quy định của pháp luật.
- Một số bạn khác lại cho rằng đấy chẳng phải là nghĩa vụ theo pháp luật
mà là xuất phát từ tình cảm của H, là hành vi xử sự theo chuẩn mực đạo đức.
1. Quan điểm của em về các ý kiến trên.
2. Trình bày mối quan hệ giữa đạo đức với pháp luật.
Câu 3: Câu chuyện: Thượng đế và con người.
“Thượng đế lấy đất sét nặn ra con người. Khi Ngài nặn xong vẫn còn thừa ra
một mẫu đất.
- Còn nặn thêm cho mày cái gì nữa, con người? – Ngài hỏi.
Con người suy nghĩ một lúc: có vẻ như đã đầy đủ chân, tay, đầu..., rồi nói:
- Xin Ngài nặn cho con hạnh phúc.
Thượng đế dù đã thấy hết, biết hết nhưng cũng không hiểu được hạnh phúc là
gì. Ngài trao cục đất cho con người và nói:
- Này, tự đi mà nặn lấy hạnh phúc cho mình.
Hỏi: Dựa vào kiến thức đã học em hãy làm rõ thông điệp từ câu chuyện trên?
Câu 4: Trong cuộc chiến chống lại quân Nguyên Mông lần thứ 2 tháng 1 năm
1285, Trần Bình Trọng đã tổ chức cuộc đánh chặn ngay tại bãi Thiên Mạc. Do sự
chênh lệch quá lớn về quân số, Trần Bình Trọng bị bắt. Sau khi bắt được Trần Bình
Trọng, tướng Nguyên tìm mọi cách để khai thác thông tin, dọa nạt, dụ dỗ ông. Tuy
nhiên, Trần Bình Trọng kiên quyết không khuất phục. Khi được hỏi có muốn làm
vương đất Bắc không, Trần Bình Trọng khẳng khái trả lời: “Ta thà làm quỷ nước
Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Ta đã bị bắt thì có một chết mà thôi, can gì
mà phải hỏi lôi thôi”
1. Câu chuyên trên thuộc về phạm trù nào của Đạo đức học? Hãy giải thích.
2. Em rút ra được bài học gì từ câu chuyện đó?
Câu 5: Trong giờ kiểm tra môn Sinh, có một số câu hỏi lý thuyết, T có nhớ
nhưng không chắc chắn lắm. Ngồi bên cạnh, bạn M đã làm xong, T chỉ cần liếc qua
nhanh là có thể “giải quyết” được. Và còn cách khác nữa: Cô giáo đang ngồi trên bục
giảng, không hề chú ý về hướng T nên em có thể thao tác thật nhanh gọn và an toàn,
để rồi T sẽ được điểm cao. Thế nhưng…T không làm như vậy. Nộp bài rồi, mấy bạn
trong lớp nói T dại thế, giở sách một chút thì có ảnh hưởng gì đến đạo đức đâu! Nhưng
T không nghĩ thế. Em cảm thấy thật thanh thản trong lòng!
1. Hành vi của T thuộc phạm trù nào của đạo đức học?
2. Tại sao mặc dù làm bài chưa thật tốt nhưng T lại cảm thấy thanh thản trong lòng?
- Cách trả lời các dạng đề:
Câu 1, câu 2: Học sinh vận dụng kiến thức về nghĩa vụ để nêu được ý
nghĩa của lời bài hát và nội dung yêu cầu của đề thi.
Câu 3: dựa vào kiến thức về hạnh phúc để giải thích và nêu thông điệp từ
câu chuyện trên. Hạnh phúc là tự mỗi người đấu tranh, tìm kiếm mới có được.
Hạnh phúc không phải do thần linh, thượng đế hay ai đó ban phát cho. Học sinh
biết liên hệ đến bản thân và trả lời câu hỏi: bản thân làm thế nào để có hạnh
phúc?
Câu 4: Dựa vào yêu cầu của câu hỏi để trả lời. Nội dung câu chuyện trên
đề cập đến phạm trù danh dự. Trên cơ sở kiến thức học sinh giải thích và nêu ý
nghĩa câu chuyện.
Câu 5: Tình huống đề cập đến phạm trù Lương tâm. Học sinh giải thích
được tình huống và lần lượt trả lời các câu hỏi. Qua đó liên hệ đến trách nhiệm
của bản thân phải làm gì để lương tâm luôn thanh thản.
- Sau thời gian 2 buổi dạy học sinh nắm vững kiến thức và biết vận dụng
những kiến thức đã học vào giải quyết tình huống thực tiễn, giáo viên kiểm tra
học sinh bằng cách cho học sinh làm bài. Thời gian kiểm tra 30 phút cho một
câu hỏi. Qua đó sẽ củng cố kiến thức cho các em học sinh và rèn luyện được kỹ
năng làm bài.
Thông qua việc xây dựng chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi tôi nhận
thấy: Đây là bước quan trọng quyết định đến kết quả thi của học sinh. Nếu người
giáo viên không có kế hoạch bồi dưỡng, không nắm chắc cấu trúc, yêu cầu của
đề thi học sinh giỏi, thấy cái gì hay, cái gì khó thì dạy mà không có hệ thống thì
sẽ dẫn đến học sinh không khái quát được kiến thức, nội dung, làm cho học sinh
hoang mang, không khắc sâu nội dung giáo viên hướng dẫn.
Học sinh nắm nội dung giáo viên hướng dẫn một cách logic, rèn luyện
được kỹ năng làm bài.
Khi tôi xây dựng chuyên đề theo hệ thống đã phủ kín hết toàn bộ chương
trình theo yêu cầu, các dạng đề thi học sinh giỏi. Vì vậy, khi học sinh bước vào
kỳ thi cho dù bắt gặp đơn vị kiến thức nào, dạng đề nào thì học sinh không bị
ngợp mà các em vẫn rất tự tin để làm bài.
Tuy nhiên, thông qua việc xây dựng chuyên đề cũng cần lưu ý rằng, sau
bước xây dựng chuyên đề bồi dưỡng, giáo viên phải có kế hoạch dạy phù hợp,
chuẩn bị tài liệu chu đáo. Giáo viên cần cung cấp và hướng dẫn tài liệu cho học
sinh. Đối với bộ môn này thì thực sự mà nói tài liệu hầu như không có gì nhiều
ngoài sách giáo khoa giáo dục công dân 10 và giáo dục công dân 11. Do đó
ngoài việc giáo viên giới thiệu chương trình sách giáo khoa, các loại sách tham
khảo thì giáo viên phải tự tìm tòi nguồn tài liệu bằng cách truy cập Internet để
tìm tài liệu, khai thác các thông tin để có thể vận dụng trong quá trình giảng
dạy. Ngoài ra sưu tầm các quyển sách về các tình huống đạo đức, các câu
chuyện đạo đức, các tình huống trong thực tiễn cuộc sống, các vấn đề trong xã
hội để vận dụng kiến thức vào nhằm giải quyết các vấn đề đó. Đồng thời phải
sưu tầm các bài văn nghị luận xã hội hay về các vấn đề đạo lí hoặc các vấn đề
xã hội để phục vụ cho quá trình dạy bồi dưỡng. Bởi vì đề thi môn Giáo dục
công dân hướng vận dụng rất cao và có một câu nghị luận xã hội về các vấn đề
đạo đức, đạo lí hoặc các vấn đề trong xã hội…
Trong quá trình bồi dưỡng, trên cơ sở chuyên đề xây dựng, người giáo
viên cần dạy học sinh nắm chắc chắn kiến thức cơ bản rồi mới dạy nâng cao.
Học sinh phải nhớ kiến thức của từng bài nhuần nhuyễn thì mới có khả năng giải
quyết tình huống vận dụng trong thực tiễn.
Sau khi học sinh nhớ các kiến thức cơ bản thì giáo viên sẽ hướng dẫn học
sinh biết cách giải quyết, khai thác một đơn vị kiến thức, một bài tập hay vận
dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề đặt ra. Từ đó rèn luyện cho các em khả
năng tư duy logic, tư duy độc lập sáng tạo và biết cách tương tự hóa, mở rộng
hóa, tổng quát hóa một vấn đề của kiến thức.
Giáo viên bồi dưỡng không được nhồi nhét kiến thức cho các em một
cách thụ động mà phải dạy những kiến thức các em cần phù hợp theo từng cấp
độ từ thấp đến cao. Đừng hiểu nhầm học sinh giỏi, cái gì các em cũng biết, cái gì
các em cũng dễ dàng tiếp thu. Vì vậy giáo viên bồi dưỡng không nên giao cho
các em những nhiệm vụ bất khả thi mà giao bài tập hay nhiệm vụ phải phù hợp
với từng đối tượng học sinh, để tạo niềm tin, say sưa, đam mê, hứng thú trong
học tập cho các em. Bên cạnh đó giáo viên cần nhắc nhở học sinh phải có thái
độ học tập nghiêm túc, ghi bài và làm bài đầy đủ, có đầy đủ tài liệu học tập theo
hướng dẫn của giáo viên, trong đó bao gồm các bài tập hay, các đề và đáp án,
các kiến thức tự tìm hiểu, đúc kết sau một quá trình học tập,… Những ghi chép
này rất cần thiết cho việc học tập, rèn luyện nâng cao kiến thức của học sinh giỏi.
3.3. Sử dụng phương pháp dạy học tích cực để phát huy tính sáng tạo
của học sinh trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
Phương pháp dạy học tích cực là các biện pháp, cách thức hành động của
giáo viên và học sinh trong trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện
và điều khiển quá trình dạy học. Với cách dạy này đòi hỏi giáo viên phải có bản
lĩnh, chuyên môn tốt và kiên trì xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ
động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Tuy nhiên, khi đổi mới phương pháp
dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động
dạy với hoạt động học thì mới thành công.
Phương pháp dạy học tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập
cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là
một mục tiêu dạy học. Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh chóng, với sự
bùng nổ thông tin, khoa học, kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão thì không
thể nhồi nhét vào đầu óc học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải
quan tâm dạy cho học sinh phương pháp học như thế nào mới có hiệu quả. Bên
cạnh đó hướng dẫn học sinh tự học cũng là một yếu tố cốt lõi để có hiệu quả.
Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự
học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con
người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội.
Trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi, việc sử dụng các phương pháp
dạy học tích cực để phát huy tính tư duy độc lập sáng tạo của học sinh là rất cần
thiết và giữ vai trò quyết định đến kết quả thi của các em học sinh. Bởi lẽ khi
giáo viên rèn luyện cho học sinh tư duy độc lập, sáng tạo thì học sinh có thể làm
chủ trong mọi tình huống. Đặc biệt khi gặp những câu hỏi khó, học sinh không
lúng túng mà các em có thể bình tĩnh, đủ tự tin để chinh phục.
Các phương pháp dạy học tích cực tôi thường sử dụng trong quá trình bồi
dưỡng học sinh giỏi đó là: phương pháp động não, phương pháp giải quyết vấn
đề, phương pháp tình huống kết hợp với một số kỹ thuật dạy học tích cực để
tăng thêm hiệu quả.
3.3.1. Phương pháp giải quyết vấn đề
Đây là phương pháp dạy học trong đó giáo viên tạo ra những tình huống
có vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ
động, sáng tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đó chiếm lĩnh tri thức, rèn
luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập khác. Đặc trưng cơ bản của
dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là "tình huống gợi vấn đề" vì "Tư duy chỉ
bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề".
Căn cứ vào đề thi học sinh giỏi tỉnh hàng năm, tôi nhận thấy rằng việc áp
dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề rất phù hợp và hiệu quả trong qua trình
dạy bồi dưỡng học sinh giỏi. Phương pháp dạy học này rất quan trọng giúp cho
các em học sinh biết nhận diện và giải quyết vấn đề.
Ví dụ khi dạy ở chuyên đề 1: Công dân với đạo đức với chủ đề Quan
niệm về đạo đức giáo viên đã đưa ra tình huống có vấn đề:
“H là con lớn trong gia đình. H không những là học sinh giỏi của lớp và
còn là người con ngoan, luôn yêu quý, kính trọng, hiếu thảo với bố mẹ. Những
khi ở nhà, ngoài công việc học hành, H còn thường xuyên giúp bố mẹ trong một
số công việc gia đình. Ai cũng khen H là người chăm chỉ và ngoan ngoãn.
Khi nói về H, các bạn trong lớp có các ý kiến khác nhau:
- Một số bạn nói việc H yêu quý bố mẹ, kính trọng và giúp đỡ bố mẹ là
thực hiện nghĩa vụ của người con đối với cha mẹ theo quy định của pháp luật.
- Một số bạn khác lại cho rằng đấy chẳng phải là nghĩa vụ theo pháp luật
mà là xuất phát từ tình cảm của H, là hành vi xử sự theo chuẩn mực đạo đức.
1. Quan điểm của em về các ý kiến trên.
2. Trình bày mối quan hệ giữa đạo đức với pháp luật.”
Với tình huống trên giáo viên hướng dẫn học sinh giải quyết theo các bước:
Bước 1: Phát hiện vấn đề và giải thích và chính xác hóa tình huống để
hiểu đúng vấn đề được đặt ra.
Giáo viên đặt câu hỏi gợi mở để học sinh phát hiện vấn đề: Tình huống
trên thuộc nội dung bài học nào? Liên quan đến đơn vị kiến thức nào? Việc con
cái làm những công việc nhà để giúp đỡ bố mẹ có phù hợp với chuẩn mực đạo
đức không? Em biết được quy định nào của pháp luật về nghĩa vụ của con cái
đối với cha mẹ không?
Những câu hỏi gợi mở vấn đề giúp học sinh nhận diện và phát hiện ra vấn
đề để đi đến câu trả lời chính xác.
Bước 2: Hướng dẫn HS tìm hướng giải quyết vấn đề. Cần thu thập, tổ
chức dữ liệu, huy động tri thức; sử dụng những phương pháp, kĩ thuật nhận thức,
tìm đoán suy luận liên quan những vấn đề đã học; phương hướng đề xuất có thể
được điều chỉnh khi cần thiết. Kết quả của việc đề xuất và thực hiện hướng giải
quyết vấn đề là hình thành được một giải pháp. Nếu đưa ra lựa chọn và giải
thích đúng thì đi đến học sinh có thể tiếp tục trình bày. Nếu đưa ra lựa chọn sai
thì quay lại phân tích vấn đề để tìm ra đáp án phù hợp nhất.
Với những câu hỏi giáo viên gợi mở, học sinh chọn câu trả lời. Trong tình
huống trên, học sinh đưa ra quan điểm mỗi ý kiến có ý đúng nhưng chưa đủ.
Bước 3: Giải thích, trình bày phương án đã chọn.
Trên cơ sở phương án đã chọn, học sinh giải thích vì sao mỗi ý kiến có ý
đúng nhưng chưa đủ, từ đó đưa ra quan điểm của mình.
Bước 4: Tìm hiểu khả năng ứng dụng của kết quả, liên hệ.
Sau bài viết, học sinh có sự đánh giá, nhận xét và liên hệ đến bản thân học sinh.
Trong chuyên đề 2: Công dân với kinh tế với chủ đề Thực hiện nền kinh
tế nhiều thành và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước giáo viên nêu tình
huống có vấn đề:
“Thông tin: “Đầu tư nước ngoài đang ngày càng trở thành kênh cấp vốn
quan trọng, trực tiếp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, đóng góp đáng
kể vào ngân sách nhà nước. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có mặt ở
hầu hết các địa phương, tham gia vào nhiều lĩnh vực trên phạm vi cả nước...”
(Nguồn: báo hanoimoi.com.vn ngày 13/12/2019)
1. Thông tin trên nói đến thành phần kinh tế nào? Trình bày hiểu biết của
em về thành phần kinh tế đó.
2. Trong tương lai em có dự định làm việc trong thành phần kinh tế nào?
Giải thích sự lựa chọn của em?”
Để giải quyết vấn đề trên, trong quá trình bồi dưỡng giáo viên hướng dẫn
cho sinh những vấn đề cơ bản nhất trong thành phần kinh tế ở nước ta. Giáo viên
đặt câu hỏi cho các thành phần kinh tế khác để học sinh có thể nắm vững kiến
thức đồng thời qua đó phân biệt được các thành phần kinh tế khác nhau. Thành
phần kinh tế nào giữ vai trò chủ đạo, nắm giữ các lĩnh vực then chốt trong nền
kinh tế? Thành phần kinh tế nào giữ vai trò là một động lực của nền kinh tế?
Thành phần kinh tế nào dựa trên hình thức sở hữu vốn của nước ngoài?...
Trên cơ sở các câu hỏi gợi mở, học sinh nắm được đặc trưng cơ bản nhất
của các thành phần kinh tế từ đó nhận diện vấn đề chính xác và giải quyết vấn
đề phù hợp nhất.
Trong chuyên đề: Công dân với các vấn đề về chính trị - xã hội với chủ đề
Chính sách tài nguyên và bảo về môi trường giáo viên nêu tình huống có vấn đề:
“Có ý kiến cho rằng: Con người vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm của
tình trạng hủy hoại môi trường”
1.Em có đồng ý với ý kiến đó không? Hãy giải thích.
2. Nếu mục tiêu và phương hướng của chính sách tài nguyên và bỏa vệ
môi trường.
Tương tự như các vấn đề trên, giáo viên đưa ra tình huống có vấn đề, học
sinh nhận diện và giải quyết vấn đề.
Thông qua phương pháp dạy học giải quyết vấn đề tôi nhận thấy:
- Phương pháp này góp phần tích cực vào việc rèn luyện tư duy phê phán,
tư duy sáng tạo cho học sinh. Trên cơ sở sử dụng vốn kiến thức và kinh nghiệm
đã có học sinh sẽ xem xét, đánh giá, thấy được vấn đề cần giải quyết.
- Đây là phương pháp phát triển được khả năng tìm tòi, xem xét dưới
nhiều góc độ khác nhau. Trong khi phát hiện và giải quyết vấn đề, học sẽ huy
động được tri thức và khả năng cá nhân, khả năng hợp tác, trao đổi, thảo luận
với bạn bè để tìm ra cách giải quyết vấn đề tốt nhất.
- Thông qua việc giải quyết vấn đề, học sinh được lĩnh hội tri thức, kĩ
năng và phương pháp nhận thức. "Giải quyết vấn đề" không còn chỉ thuộc phạm
trù phương pháp mà đã trở thành một mục đích dạy học, được cụ thể hóa thành
một mục tiêu là phát triển năng lực giải quyết vấn đề, một năng lực có vị trí
hàng đầu để con người thích ứng được với sự phát triển của xã hội.
- Thông qua phương pháp này cũng đòi hỏi GV phải đầu tư nhiều thời
gian và công sức, phải có năng lực sư phạm tốt mới suy nghĩ để tạo ra được
nhiều tình huống gợi vấn đề và hướng dẫn tìm tòi để phát hiện và giải quyết vấn
đề. Việc tổ chức dạy học theo phương pháp giải quyết vấn đề đòi hỏi phải có
nhiều thời gian hơn so với các phương pháp thông thường, vì vậy giáo viên phải
đầu tư nhiều mới tạo ra những tình huống có vấn đề để học sinh giải quyết.
3.3.2. Phương pháp động não (công não)
Đây là một phương pháp đặc sắc dùng để phát triển nhiều giải đáp sáng
tạo cho một vấn đề. Phương pháp này hoạt động bằng cách nêu các ý tưởng tập
trung trên vấn đề, từ đó, rút ra rất nhiều đáp án căn bản cho nó.
Phương pháp này có thể tiến hành bởi một hay nhiều người. Số lượng
người tham gia nhiều sẽ giúp cho phương pháp tìm ra lời giải được nhanh hơn
hay toàn diện hơn nhờ vào nhiều góc nhìn khác nhau bởi các trình độ, trình tự
khác nhau của mỗi người.
Tuy nhiên, trong bồi dưỡng học sinh giỏi, chỉ có 3 học sinh nên phương
pháp công não chủ yếu áp dụng cho các cá nhân. Tùy một số nội dung mà giáo
viên có thể áp dụng cho cả 3 học để tìm ra các ý tưởng nhanh nhất.
Trong phương pháp động não có nhiều loại như động não công khai, động
não không công khai, động não viết. Động não viết là một hình thức biến đổi
của động não. Trong động não viết thì những ý tưởng không được trình bày
miệng mà được từng thành viên tham gia trình bày ý kiến bằng cách viết chung
vào giấy, bảng,..., bằng các từ khóa thành một bản đồ tư duy, hay một bài viết
hoàn chỉnh về một chủ đề. Động não không công khai là một hình thức của động
não viết. Mỗi một thành viên viết riêng ra giấy, nhưng chưa công khai, những ý
đồ giải quyết vấn đề theo cách riêng của mình, mà không có sự tham khảo ý
kiến hay bị tác động của người khác. Sau đó nhóm mới tập hợp các ý tưởng
riêng đó và thảo luận chung về các ý kiến hoặc tiếp tục phát triển các ý tưởng
tốt. Việc bồi dưỡng học sinh giỏi tôi nhận thấy sử dụng động não viết và không
công khai là hiệu quả nhất. Bởi qua đó giáo viên có thể nắm bắt được khả năng
tư duy và tập hợp ý tưởng của học sinh đầy đủ nhất đồng thời qua đó giáo viên
có thể khái quát và định hướng cho các em học sinh dễ dàng hơn.
Ví dụ trong chuyên đề Công dân với kinh tế các đề thi học sinh giỏi hàng năm
đều có những câu hỏi đòi hỏi học sinh phải có những đánh giá, nhận xét về sự
phát triển kinh tế ở địa phương như: Em có nhận xét gì về sản xuất hàng hóa tại
địa phương em? Em có nhận xét gì về tình hình cung-cầu hàng hóa trên đại bàn
tỉnh Nghệ An hiện nay? Em có nhận xét gì về cạnh tranh trong sản xuất hàng
hóa ở địa phương em?..Dựa vào kỹ thuật công não, giáo viên cho học sinh viết
nhận xét bằng cách dàn ý, viết càng nhiều ý càng tốt sau đó giáo viên tổng hợp
lại các ý kiến của học sinh để rút ra những nội dung cơ bản nhất.Trong chuyên
đề Công dân với đạo đức đây là phần vận dụng nên việc giáo viên bồi dưỡng
đưa ra một số vấn đề để học sinh tìm ra những ý tưởng, giải pháp là điều quan
trọng. Khi học sinh biết các dạng vận dụng bởi tập hợp những ý tưởng thì học
sinh có thể nắm bắt được toàn bộ nội dung phần này.