Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn toán 6 ở trường trung học cơ sở (cấp tỉnh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.82 KB, 23 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.
PHẦN I - MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Là một giáo viên được đào tạo ngành Toán –Lý. Ra trường và đã gắn bó với
học sinh thân yêu, trên giảng đường hơn 10 năm... Với sự yêu nghề tôi đã nghiên cứu
tìm tòi học tập kinh nghiệm của các đồng nghiệp đi trước về dạy môn Toán. Môn toán
gắn bó với tôi như một phần máu thịt, giúp tôi dần trưởng thành trên con đường đi
mà mình đã chọn, mình cần phải làm gì để tận tìtnh giúp học sinh học giỏi về môn
toán.
Bởi vì toán học là một môn khoa học, có tầm quan trọng trong mọi lĩnh vực.
Đặc biệt toán học có vị trí đặc biệt trong việc nâng cao và phát triển dân trí, góp phần
tạo nên nguồn tài nguyên chất xám, nguồn tài nguyên chất quý nhất cho đất nước.
Đồng thời là cơ sở, điều kiện để tiếp thu khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức.
Việc bồi dưỡng học sinh giỏi - học sinh năng khiếu, ươm trồng những hạt giống nhân
tài cho đất nước là một nhiệm vụ rất quan trọng và cần thiết vì những người tài bao
giờ cũng là nhân tố quan trọng để thúc đẩy xã hội phát triển.
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một việc làm thường xuyên và cấp thiết
đối với mỗi cấp học nói chung và đối với cấp Trung học cơ sở nói riêng. Nó tạo điều
kiện cho người thầy giáo qua đó bồi dưỡng cho mình vốn kiến thức sâu sắc hơn,
phong phú hơn. Đối với học sinh thông qua việc học nhằm tạo cho mình niềm say mê
ham hiểu biết, giúp cho các em rèn luyện óc tư duy sáng tạo, trí thông minh, đức tính
kiên trì chịu khó tìm tòi, tạo tiền đề cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi các cấp học tiếp
theo. Việc bồi dưỡng học sinh giỏi phải mang lại hiệu quả thiết thực cho bản thân học
sinh, cho giáo viên cũng như các bậc cha mẹ học sinh.
Xuất phát từ những nhận thức trên bản thân tôi đã và đang bồi dưỡng đội tuyển
học sinh giỏi Toán lớp 6 không khỏi trăn trở, suy nghĩ tìm các biện pháp để bồi dưỡng
học sinh giỏi đạt hiệu quả. Trong phạm vi đề tài này, tôi mạnh dạn đưa ra “Một số
biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở
trường trung học cơ sở ” mà tôi đã và đang áp dụng.


2. Mục đích:
Nhằm phát huy tư duy lôgíc và phương pháp luận khoa học phát triển thế giới
quan duy vật biện chứng, tính tự lập, tự sáng tạo, chủ động trong mọi tình huống của
1


Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.
bài. Hình thành năng lực hoạt động, năng lực xử lý, năng lực tự học, kỹ năng diễn đạt,
trình bày bằng lời, bằng viết. Qua đó kích thích niềm đam mê, gây hứng thú học toán
cho các em, rèn luyện phương pháp học tập một cách khoa học.
3. Đối tượng - phạm vi - thời gian nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 6 ở bậc THCS.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài thực hiện trong phạm vi một nhóm học sinh giỏi.
- Thời gian nghiên cứu: 3 năm học: 2014- 2015 ; 2015– 2016 và 2016 -2017.
* Điểm mới của đề tài:
Đã có một số người nghiên cứu và làm đề tài này nhưng với tôi là một giáo viên
trẻ tuổi nghề còn non nên đây là một cuộc thi và là một sân chơi mới nên có không ít
khó khăn trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy cho học sinh. Vì vậy tôi mạnh dạn
đưa ra một số kế hoạch, biện pháp và cách làm nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng
học sinh giỏi Toán 6.
PHẦN II: NỘI DUNG
1/ Thực trạng công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
a/ Thuận lợi:
- Được sự chỉ đạo, quan tâm sâu sát và kịp thời của ban giám hiệu nhà trường,
có những kế hoạch cụ thể, lâu dài trong bồi dưỡng học sinh giỏi
- Trường từng bước khắc phục cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ tương đối
đầy đủ giúp cho việc dạy và học.
-Giáo viên được phân công bồi dưỡng có trình độ chuyên môn vững vàng, có
nhiều kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nhiều năm liền, rất tâm

huyết với nghề.
b/ Khó khăn:
- Cở sở vật chất của trường còn hạn chế cũng có ảnh ít nhiều đến việc dạy và
học.
- Đa số giáo viên dạy bồi dưỡng vừa phải đảm bảo chất lượng đại, vừa phải
hoàn thành chỉ tiêu chất lượng mũi nhọn và công tác kiêm nhiệm do đó cường độ làm
việc quá tải và việc đầu tư cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, do đó kết quả có
phần còn hạn chế.
2


Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.
- Học sinh học chương trình chính khóa phải học quá nhiều môn, lại phải học
thêm những môn khác, cộng thêm chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi nên rất hạn
chế về thời gian tự học, nên các em đầu tư ít thời gian cho việc bồi dưỡng học sinh
giỏi, do đó kết quả không cao là điều tất yếu.
- Một số học sinh tham gia bồi dưỡng chưa cố gắng nhiều nên kết quả thi học
sinh giỏi chưa cao.
- Giáo viên bồi dưỡng đều phải tự soạn chương trình dạy theo kinh nghiệm của
bản thân, theo chủ quan tự nghiên cứu, tự sưu tầm tài liệu.
- Kinh phí thực sự đầu tư cho viêc dạy học sinh giỏi, bồi dưỡng động viên cho
giáo viên dạy và học sinh đạt giải còn hạn chế.
- Học sinh vẫn chưa thực sự tích cực tham gia các đội tuyển để bồi dưỡng. Việc
bồi dưỡng học sinh để dự thi các cấp quá nặng nề vì tính chất thời vụ mà gây ảnh
hưởng nhiều đến tâm lý và sức khỏe của học sinh.
- Việc thống nhất nội dung, phương pháp, giới hạn bồi dưỡng còn lúng túng, tài
liệu bồi dưỡng chưa thật phong phú.
- Việc huy động các nguồn lực cũng như chế độ bồi dưỡng học sinh giỏi cho
giáo viên còn chưa đạt yêu cầu mong muốn.

- Công tác thi đua khen thưởng chưa đủ mạnh để khuyến khích cho học sinh và
giáo viên quyết tâm cao trong công việc.
- Việc xây dựng kế hoạch cho công tác bồi dưỡng HSG trong nhà trường đã
có nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành trong chiến lược phát triển giáo
dục và đổi mới phương pháp giáo dục.
- Bản thân giáo viên dạy bồi dưỡng học sinh giỏi ngoài việc bồi dưỡng còn dạy
nhiều tiết trên lớp và còn đảm nhận nhiều phần hành khác nên thời gian đầu tư cho
việc tìm tòi, nghiên cứu tài liệu còn nhiều hạn chế.
- Trong quá trình giảng dạy, giáo viên còn gặp một số khó khăn như bài tập
toán đa dạng, phong phú, nếu không đủ thời gian nghiên cứu và phương pháp lựa
chọn bài tập thích hợp thì dễ bị phiến diện, chọn bài tập dễ quá hoặc khó quá sẽ gây
cho học sinh tâm lí “sợ toán” hoặc chán nản. Từ đó chỉ chú ý vào thủ thuật giải mà
quên rèn luyện phương thức tư duy.

3


Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.
- Một bộ phận gia đình học sinh có hoàn cảnh khó khăn có phụ huynh còn thờ
ơ, ít quan tâm đến việc học tập của con em, không mua đủ tài liệu tham khảo... nên
ảnh hưởng đến việc bồi dưỡng của các em.
2/ Kết quả của thực trạng:
- Nếu giáo viên trong quá trình dạy bồi dưỡng, lại máy móc, cứng nhắc không
quan tâm đến tính chất và yêu cầu cụ thể của từng tiết dạy, bao giờ cũng phải kiểm tra
lý thuyết, không có các trò chơi giải trí, câu đố vui... thì không thể phát triển được tư
duy , mặt bằng văn hóa của học sinh không được nâng cao.
- Còn đối với học sinh mất dần hứng thú học toán, máy móc trong việc phát
hiện và giải quyết vấn đề nảy sinh trong bài tập, hạn chế khả năng sử dụng ngôn ngữ
chính xác, có thói quen ỉ lại, không mạnh dạn trình bày ý tưởng của mình.

Qua khảo sát cho học sinh làm bài kiểm tra để chọn đội tuyển bồi dưỡng của
trường (chưa áp dụng đề tài )
Tổng số

Giỏi

10

2

%

20

Khá
4
40

Trung bình

Dưới trung bình

2

2

20

20


Từ thực trạng trên, qua một thời gian tham gia công tác bồi dưỡng HSG, tôi
nhận thấy để nâng cao chất lượng trong công tác này cần thực hiện tốt những công
việc sau đây:
3/ Các giải pháp thực hiện
3.1.

Đối với giáo viên dạy bồi dưỡng

- Trước hết người giáo viên phải có lòng nhiệt tình say mê lăn lộn với phong
trào, biết trăn trở trước những bài toán khó để tìm ra đường lối giải, phải luôn luôn có
ý thức tự rèn luyện, tích luỹ tri thức và kinh nghiệm, trau dồi chuyên môn, luôn xứng
đáng là “người dẫn đường tin cậy” cho học sinh noi theo. Phải thường xuyên tìm tòi
các tư liệu, các kiến thức nâng cao trên các phương tiện, đặc biệt là trên mạng
internet. Lựa chọn trang Web nào hữu ích nhất, tiện dụng nhất, tác giả nào hay có các
chuyên đề hay, khả quan nhất để sưu tầm tài liệu…
Do đó ta phải xác định vai trò của người thầy là hết sức quan trọng. Bởi vì
người thầy có vai trò chỉ đạo và hướng dẫn học sinh, gợi ý, dẫn dắt học sinh để đi đến
4


Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.
các phương pháp học nói chung và giải toán nói riêng. Nếu học sinh có kiến thức cơ
bản tốt, có tố chất thông minh mà không được bồi dưỡng, nâng cao tốt thì sẽ ít có
hiệu quả hoặc không có hiệu quả. Đồng thời giáo viên lại phải lựa chọn đúng đối
tượng học sinh vào bồi dưỡng và phải soạn thảo chương trình bồi dưỡng một cách
hợp lý, khoa học và sáng tạo.
- Trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, khâu đầu tiên là khâu tuyển chọn học
sinh khâu này rất quan trọng.
- Bước tiếp theo, sau khi lựa chọn được học sinh, chúng ta lập kế hoạch cho HS

và cho mình một cách cụ thể tránh tình trạng thích đâu dạy đó. Dạy theo chuyên đề là
biện pháp mà tổ chúng tôi thấy đó là hữu hiệu nhất mà tôi sử dụng.
- Nắm vững phương châm: dạy chắc cơ bản rồi mới nâng cao - Thông qua
những bài luyện cụ thể để dạy phương pháp tư duy - dạy kiểu dạng bài có quy luật
trước, loại bài có tính đơn lẻ, đặc biệt sau.
Nên tránh:
+ Một số giáo viên mới bồi dưỡng học sinh giỏi, thường hay nôn nóng, bỏ qua
bước làm chắc cơ bản, cho ngay bài khó, học sinh mới đầu đã gặp một “mớ bỏng
bong” không nhận ra và ghi nhớ được từng đơn vị kiến thức kĩ năng, kết quả là không
định hình được phương pháp từ đơn giản đến phức tạp, càng học càng hoang mang.
+ Một số lại coi những bài đơn lẻ không có quy luật chung là quan trọng, cho
học sinh làm nhiều hơn và trước những bài có nguyên tắc chung (coi những bài đó
mới là “thông minh”), kết quả là học sinh bị rối loạn, không học được phương pháp tư
duy theo kiểu đúng đắn khoa học và thông thường là: mỗi loại sự việc có một nguyên
tắc giải quyết, chỉ cần nắm vững một số nguyên tắc là giải quyết được hầu hết các sự
việc.
+ Cuối cùng là công tác kiểm tra kiến thức sau mỗi chủ đề để nắm chắc khả
năng tiếp thu, vận dụng của các em từ đó các em rút ra được những sai sót mà sửa
chữa, giáo viên cũng có kế hoạch bù đắp những lỗ hỏng (nếu có).
3.2. Lựa chọn đúng đối tượng học sinh
Giáo viên phải đánh giá học sinh một cách khách quan, chính xác, lựa chọn
đúng đối tượng học sinh để bồi dưỡng. Việc lựa chọn đúng không chỉ nâng cao hiệu
quả bồi dưỡng mà còn tránh được việc bỏ sót những em học sinh giỏi, hoặc chọn
nhầm những em không có tố chất theo học sẽ bị quá sức.
5


Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.
* Những căn cứ để lựa chọn:

+ Lựa chọn các đối tượng học sinh thông qua các giờ học:
- Những học sinh sáng dạ thường chú ý nghe giảng, hăng hái phát biểu ý kiến,
ý kiến thường đúng và có sáng tạo.
- Cũng cần phân biệt với những em hăng hái nhưng không thông minh thì
thường phát biểu chệch hướng dẫn dắt của giáo viên, có khi không đâu vào đâu.
- Ngược lại có những em tuy ít phát biểu nhưng khi gọi tên và yêu cầu trình
bày thì những em này thường trả lời chính xác hoặc có những ý hay.
+ Lựa chọn dựa vào việc chấm, chữa bài:
Những em thông minh, chắc chắn thường có ý thức học tập tốt, làm bài đầy đủ,
trình bày bài thường chặt chẽ, khoa học và thường có ý thức xung phong chữa bài tập
cũ hoặc có ý kiến hay, góp phần cho bài tập phong phú hơn.
+ Lựa chọn thông qua các vòng thi kiểm tra:
- Để việc thi, kiểm tra, đánh giá đúng chất lượng học sinh thì ngoài việc thực
hiện đúng quy chế thi cử như: sắp xếp chỗ ngồi (theo thứ tự a, b, c), giám sát chặt
chẽ, quán triệt học sinh không được nhìn bài của bạn, đồng thời cũng không để cho
bạn nhìn bài của mình, cũng cần chú ý sắp xếp những em hàng ngày ngồi gần nhau
thì đến khi thi hay kiểm tra phải ngồi xa nhau.
- Khi chấm bài thi, giáo viên cần phải vận dụng biểu điểm linh hoạt. Cần ưu
tiên điểm cho những bài làm có sự sáng tạo, trình bày bài khoa học.
- Tuy nhiên để việc thi cử, kiểm tra đạt hiệu quả, giáo viên cần phải ra đề trên
cơ sở những dạng bài tập đã được ôn và cần có một bài khó, nâng cao hơn đòi hỏi học
sinh vận dụng những kiến thức đã học để làm bài. Trên cơ sở đó, giáo viên đánh giá
được những em nào có năng lực thực sự trong học tập.
- Để đánh giá một cách chính xác và nắm được mức độ tiếp thu cũng như sự
tiến bộ của học sinh thì cần tổ chức thi, kiểm tra và sàng lọc qua nhiều vòng.
3.3. Về xây dựng chương trình bồi dưỡng
Hiện nay, chương trình bồi dưỡng không có sách hướng dẫn chi tiết, cụ thể
từng tiết, từng buổi học như trong chương trình chính khoá. Hơn nữa, hầu hết sách
nâng cao, sách tham khảo hiện nay không soạn thảo theo đúng trình tự như chương
trình học chính khoá, mà thường đi theo các dạng. Trong khi đó, các trường thường tổ

6


Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.
chức học sinh vừa học chính khoá vừa phối hợp nâng cao. Vì thế soạn thảo chương
trình bồi dưỡng là một việc làm hết sức quan trọng và rất khó khăn nếu như chúng ta
không có sự tham khảo, tìm tòi và chọn lọc tốt.
Điều cần thiết là giáo viên cần phải nắm vững nội dung, chương trình học, cần
phải soạn thảo nội dung dẫn dắt học sinh từ cái cơ bản của nội dung chương trình học
chính khoá, tiến tới chương trình nâng cao (tức là, trước hết phải khắc sâu kiến thức
cơ bản của nội dung học chính khoá, từ đó vận dụng để nâng cao dần).
Cần soạn thảo chương trình theo vòng xoáy: Từ cơ bản đến nâng cao, từ đơn
giản đến phức tạp. Đồng thời cũng phải có ôn tập, củng cố.
Ví dụ: Cứ sau 2 đến 3 tiết củng cố kiến thức cơ bản và nâng cao thì cần có 1
tiết luyện tập, củng cố và cứ 6 đến 7 tiết thì cần có 1 tiết ôn tập hay luyện tập chung
để củng cố khắc sâu. Hoặc qua mỗi chuyên đề kiểm tra một bài để nắm bắt kiến thức
học sinh.
- Cần phải soạn thảo nội dung chương trình cho việc bồi dưỡng đảm bảo thời
lượng: Tiết, tuần, tháng, học kì, cả năm.
Tuy nhiên, việc soạn thảo chương trình còn tuỳ thuộc vào mức độ tiếp thu của
từng học sinh (làm sao cho các em có thể “tiêu hoá” được).
Cần giúp các em tổng hợp các dạng bài, các phương pháp giải. Vì hầu hết các
em chưa tự mình tổng hợp được mà đòi hỏi phải có sự hướng dẫn, giúp đỡ của giáo
viên.
Để các em vững vàng kiến thức, mở rộng được nhiều dạng bài tập thì mỗi dạng
bài cần phải luyện tập nhiều lần, đưa ra nhiều cách giải. Đồng thời thỉnh thoảng phải
củng cố, tổng hợp lại để khắc sâu.
Giáo viên cần phải đầu tư nhiều thời gian, tham khảo nhiều tài liệu để đúc rút
và cô đọng nội dung chương trình bồi dưỡng, phù hợp với đối tượng học sinh và thời

gian ôn luyện.
3.4 .Tài liệu bồi dưỡng và thời gian bồi dưỡng
- Giáo viên sưu tầm các bộ đề thi các cấp trong tỉnh nhà và các tỉnh khác thông
qua công nghệ thông tin nhằm giúp các em tiếp xúc làm quen với các dạng đề, luôn
tìm đọc, tham khảo các tài liệu hay định hướng cho học sinh.

7


Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh các tài liệu, sách vở, phù hợp với trình độ của
các em để tự rèn luyện thêm ở nhà. Đồng thời cung cấp hoặc giới thiệu các địa chỉ
trên mạng để học sinh có thể tự học, tự nghiên cứu, bổ sung kiến thức.
- Để chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả thì nhà trường đã có kế
hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi liên tục và đều đặn, không dồn ép ở tháng cuối trước
thi vừa quá tải đối với học sinh vừa ảnh hưởng đến quá trình tiếp thu kiến thức ở môn
học khác của học sinh (thông thường thì ít nhất 2 buổi/ tuần ).
3.5. Bồi dưỡng kĩ năng và năng lực giải toán.
a/ Bồi dưỡng năng lực định hướng đường lối giải bài toán
Công việc định hướng tìm đường lối giải bài toán là một vấn đề khó khăn cho
những học sinh . Để giải quyết tốt bài toán thì cần phải có định hướng giải đúng. Do
đó việc định hướng giải bài toán là một vấn đề rất cần thiết và rất quan trọng.
Việc xác định đường lối giải chính xác sẽ giúp cho HS giải quyết các bài toán
một cách nhanh chóng, dễ hiểu, ngắn gọn và tránh mất được thời gian. Chính vì vậy,
đòi hỏi mỗi GV cần phải rèn luyện cho HS khả năng định hướng đường lối giải bài
toán là điều không thể thiếu trong quá trình dạy học toán.
Các ví dụ minh họa
Ví dụ 1 ( Ví dụ 62 ôn tập Toán 6 tr 94 )
Tính: S 


1
1
1
1


 ... 
2.3 3.4 4.5
19.20

Định hướng giải bài toán
Đối với những bài toán như thế này thì chúng ta không thể tiến hành quy đồng
mẫu để tính tổng được vì làm như vậy chỉ làm mất thời gian của ta. Khi chúng ta gặp
những bài toán như thế này thì cần phải tìm ra quy luật của nó.
GV: Hãy phân tích số hạng thứ nhất thành hiệu ?
HS:

1
1 1
 
2.3 2 3

GV: Tương tự hãy phân tích các số hạng tiếp theo.

8


Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.

1 1 1
1
1 1
  ;
  ; ... ;
3.4 3 4 4.5 4 5
HS:
1
1 1
 
19.20 19 20

Giải
1
1 1 1 1 1
1
1 1
1
1 1
  ;
  ;
  ; ... ;
 
2.3 2 3 3.4 3 4 4.5 4 5
19.20 19 20
1
1
1
1
1 1 1 1

1 1


 ... 
     ...  
2.3 3.4 4.5
19.20 2 3 3 4
19 20
1 1 10 1
9
 



2 20 20 20 20

S

Bài toán này nhằm tăng khả năng tư duy và lập luận cho HS một cách chặt chẽ.
Tìm ra được qui luật chung để giải hợp lí và nhanh hơn.
Ví dụ 2 ( Bài 7 Em học giỏi Toán 6 tr 92 )
Một số có ba chữ số, chữ số tận cùng bên trái là 4. Nếu chuyển chữ số 4 này
xuống cuối thì được một số mới bằng

3
số ban đầu. Tìm số đó.
4

Phân tích bài toán
GV: Bài toán yêu cầu làm gì ?

HS: Tìm số có ba chữ số thỏa mãn bài toán.
GV: Theo đề bài, ban đầu ta có số có ba chữ số nào ?
HS: 4ab
GV: Các em viết số có ba chữ số đó dưới dạng tổng của các số ?
HS: 4.100 + 10.a + b = 400 +10a + b.
GV: Nếu ta đổi chữ số 4 sang phải thì ta được số có ba chữ số nào ?
HS: ab4
GV: Các em viết số có ba chữ số đó dưới dạng tổng của các số ?
HS: a.100 + 10.b + 4 = 100a +10b + 4
GV: Giữa số ban đầu và số mới có quan hệ như thế nào ?

9


Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.
3
4

HS: ( 400 +10a + b ) . = ( 100a +10b + 4 )
Giải
Số ban đầu là 4ab = 4.100 + 10.a + b = 400 +10a + b
Số mới là ab4 = a.100 + 10.b + 4 = 100a +10b+ 4
3
4

Theo đề bài ( 400 +10a + b ) . = ( 100a +10b + 4 )
( 400  10a  b).3  4(100a  10b  4)
1200  30a  3b  400a  40b  16
1200  16  400a  30a  40b  3b

370a  37b  1184
10a  b  32 hay ab  32

Vậy số cần tìm là 432.
Tóm lại: Công việc định hướng giải bài toán cho HS là một công việc quan
trọng đầu tiên của một bài giải, nó đòi hỏi phải định hướng đúng nên GV cần rèn
luyện thường xuyên cho HS nhằm làm tăng khả năng suy luận, lập luận một cách
logic, giải quyết bài toán một cách nhanh chóng và tránh được mất thời gian khi giải
bài toán.
b/ Phân loại bài toán để bồi dưỡng năng lực giải toán cho các đối tượng HS
Bồi dưỡng năng lực phân loại bài toán cũng được coi là một bước quan trọng
để bồi dưỡng cho từng đối tượng HS một cách hợp lí nhất. Khi chúng ta làm tốt công
việc này sẽ giúp nhiều cho việc học tập của HS, nó cũng giúp HS nắm vững các kiến
thức đồng thời tăng khả năng giải toán cho các em và gây được hứng thú nhu cầu ham
học toán ở tất cả các đối tượng HS.
Các ví dụ minh họa
Ví dụ ( Sách nâng cao phát triển Toán 6 tập 2 tr 48)
Ba người cùng làm chung một công việc. Nếu làm riêng người thứ nhất phải
mất 4 giờ, người thứ hai phải mất 6 giờ, người thứ ba phải mất 5 giờ. Hỏi nếu làm
chung thì mỗi giờ cả ba người làm được bao nhiêu phần công việc.
Phân tích bài toán

10


Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.
GV: Người thứ nhất phải mất 4 giờ để làm chung một công việc. Vậy người thứ nhất
làm được bao nhiêu phần của công việc ?
HS: Người thứ nhất làm được


1
công việc.
4

GV: Người thứ hai phải mất 6 giờ để làm chung một công việc. Vậy người thứ hai
làm được bao nhiêu phần của công việc ?
HS: Người thứ hai làm được

1
công việc.
6

GV: Người thứ ba phải mất 5 giờ để làm chung một công việc. Vậy người thứ ba làm
được bao nhiêu phần của công việc ?
HS: Người thứ ba làm được

1
công việc.
5

Đối với HS khá giỏi chúng ta sẽ hướng dẫn qua một cách sơ xài để cho HS tự
độc lập suy nghĩ cách giải nào cho hợp lí nhất.
Giải
Người thứ nhất làm được
Người thứ hai làm được
Người thứ ba làm được

1
công việc.

4

1
công việc.
6
1
công việc.
5
1
4

1
6

1
5

Vậy trong 1 giờ cả ba người làm được   

15  10  12 37

(công việc )
60
60

Đây là một bài toán rất gần với thực tế của cuộc sống nên học sinh rất tòi mò
về các dạng bài toán như vậy vì qua những bài toán vậy làm cho học thấy mối quan
hệ của toán học với cuộc sống thực tế, đồng thời thấy được lợi ít của học toán mang
lại.
Đây là một trong những bài toán mà học thường rất ngán ngại trong giải toán

nên khả năng phân tích bài toán chưa cao. Do đó trong quá trình giải toán GV nên
hướng dẫn cho HS tập quen dần cách phân tích những dạng toán này. Nhằm làm tăng
dần khả năng phân tích cho HS và đồng thời cũng tăng khả năng giải toán cho HS.

11


Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.
Tóm lại: Trong quá trình dạy học GV cần thực hiện phân loại bài toán vì làm như vậy
sẽ giúp ít cho HS trong quá trình học tập và cũng gây được hứng thú học tập cho HS.

c/ Bồi dưỡng năng lực phân tích, tổng hợp và so sánh
Nói đến năng lực phân tích, tổng hợp, so sánh thì chúng ta cũng đã biết gần
như mọi ngành nghề, mọi cấp học đều sử dụng đến nó. Đặt biệt với sự thay đổi
phương pháp dạy học hiện nay thì năng lực này càng được chú trọng. Năng lực phân
tích, tổng hợp, so sánh này không thể thiếu được trong toán học vì nó giúp cho học
sinh tăng khả năng suy luận, sáng tạo trong giải toán và tự chiếm lĩnh tri thức. Qua đó
cũng giúp cho HS hiểu rõ, hiểu sâu, hiểu rộng về vấn đề toán học.
Các ví dụ minh họa
Ví dụ 1 ( Ví dụ 71 Toán bồi dưỡng HS lớp 6 tr 65 )
Tìm số bị chia và số chia biết rằng thương bằng 5, dư bằng 12 và tổng của số bị
chia, số chia, số dư bằng 150.
Phân tích bài toán ( theo sơ đồ đoạn thẳng )

Đặt: a là số bị chia; b là số chia; r là số dư.
GV: Dựa vào sơ đồ hãy cho biết mối quan hệ giữa số bị chia và số chia ?
HS: a – r = 5b hay a = 5b + r.
GV: Tổng của số bị chia, số chia và số dư bằng bao nhiêu ?
HS: a + b + r = 150

GV: Ngoài cách biễu diễn đó, còn có cách nào thể hiện mối quan hệ của tổng đó hay
không ?
HS: 6b + r + r = 150 hay 6b = 150 – r - r = 150 -12 - 12 = 126
GV: Dựa vào đó ta có thể tìm được số chia b hay không ?
HS: b =

126
 21 ( số chia )
6

12


Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.
GV: Khi tìm được số chia ta có thể tìm được số bị chia a hay không ?
HS: a = 5b + 12 = 5.21 + 12 = 117
Giải
Từ sơ đồ, ta thấy 6 lần số chia bằng 150 - 12 -12 = 126
Số chia bằng 126 : 6 = 21
Số bị chia bằng 21.5 + 12 = 117.
Vậy số chia cần tìm là 21 và số bị chia là 117.
Qua bài toán nhằm làm tăng khả năng phân tích bài toán cho HS, việc lựa chọn
phương pháp phân tích không phải vấn đề dễ do đó đòi hỏi GV và HS cần phải rèn
luyện thường xuyên. Vì vậy trong quá trình phân tích bài toán GV cần lựa chọn
phương pháp phân tích phù hợp và làm cho HS dễ hiểu.
Ví dụ 2 ( Ví dụ 80 Toán bồi dưỡng HS lớp 6 tr 71 )
Người ta điều tra trong lớp học có 40 HS thì có 30 HS Toán, 25 HS thích Văn,
2 HS không thích cả Toán và Văn. Hỏi có bao nhiêu HS thích cả hai môn Văn và
Toán ?

Phân tích bài toán

GV: Dựa vào sơ đồ, hãy cho biết số HS thích cả Văn và Toán chính là phần nào của
sơ đồ ?
HS: Chính là x.
GV: Trong tổng số HS thích Văn có HS thích Toán hay không ? Vậy số HS chỉ thích
Văn là bao nhiêu ?
HS: Trong tổng số HS môn Văn cũng có HS thích môn Toán. Số HS thích môn Văn là
: 25 – x.
GV: Tổng số HS của cả lớp là bao nhiêu ?
HS: Có 40 HS.
13


Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.
GV: Để tìm số HS thích cả hai môn Văn và Toán ta làm như thế nào ?
HS: 30 + ( 25 – x ) + 2 = 40
Giải:
Gọi x là số HS thích cả môn Văn và Toán.
Số HS thích Văn mà không thích Toán là 25-x.
Theo đề bài ta có :
30  ( 25  x )  2  40
25  x  40  32
25  x  8
x  25  8
x  17

Vậy số HS thích cả hai môn Văn và Toán là 17 HS.
Việc giải bài toán có rất nhiều phương pháp đặt biệt là việc phân tích bài toán. Do đó

trong quá trình dạy học thì GV cần lựa chọn phương pháp phân tích sau cho học sinh
dễ hiểu. Đối với bài toán này thì lựa chọn phương pháp phân tích bằng phương pháp
trực quan sẽ mạng lại hiệu quả rất cao, thông thường các dạng bài toán như thế này
thì công việc phân tích bài toán được thể hiện ở những hình ảnh trực quan và giúp cho
HS dễ hiểu hơn vì các mối quan hệ giữa các đại lượng được thể hiện một cách cụ thể.
d/ Bồi dưỡng năng lực giải toán bằng nhiều cách và biết lựa chọn phương án tối
ưu
Giải toán là một quá trình thúc đẩy tư duy phát triển. Việc đào sâu, tìm tòi
nhiều lời giải cho một bài toán chẳng những góp phần phát triển tư duy của HS mà
còn góp phần hình thành nhân cách cho HS. Giúp các em không dừng lại ở một lời
giải mà phải hướng tới nhiều lời giải và chọn ra một lời giải đẹp, hoàn mĩ hơn trong
lúc giải toán nói riêng cũng như trong việc rèn luyện nhân cách sống của các em.
Trong quá trình giải toán cũng như bồi dưỡng HS giỏi, mỗi GV luôn không
ngừng tìm tòi nghiên cứu những những phương pháp dạy tối ưu nhất. Từ đó giúp HS
lĩnh hội các phương pháp giải toán hay, phát huy được tính sáng tạo của mình. Tìm ra
được nhiều cách giải hay và hợp lí.
*Một số ví dụ minh họa

14


Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.
Ví dụ 1: Một người bán 1 giỏ cam trong 4 ngày. Ngày thứ nhất bán
1 quả. Ngày thứ hai bán

1
số cam và thêm
2


1
1
số cam còn lại và thêm 1 quả. Ngày thứ ba bán số cam
2
2

còn lại và thêm 1 quả. Ngày thứ tư bán

1
số cam còn lại và thêm 1 quả thì vừa hết.
2

Tính số cam người đó mang đi bán.
Cách 1.

Giải

1
số cam còn lại cộng thêm 1 quả thì vừa hết nên lần thứ tư
2
người đó đã bán 2 quả, số cam còn lại sau lần bán thứ ba là 2 quả.
Vì lần thứ tư bán

Suy ra

1
số cam ở lần bán thứ ba là: 2 + 1 = 3 quả
2

Số còn lại sau lần bán thứ hai là:


3 . 2 = 6 quả

1
số cam ở lần bán thứ hai là:
2

6 + 1 = 7 quả

Số cam còn lại sau lần bán thứ nhất là: 7 . 2 = 14 quả
1
số cam ở lần bán thứ nhất là:
2

14 + 1 = 15 quả

Số cam đã mang ra chợ bán là:

15 . 2 = 30 quả.

Cách 2. Giải theo sơ đồ ngắn gọn và rễ hiểu
Số cam
người đó
mang đi
bán

� 1�
1- �
1
.�

2
� �

(X)
Số cam còn � 1 �
1- �
1
.�
lại sau
� 2�
ngày bán

Số cam còn
lại sau
� 1�
1- �
1
.�
2
ngày bán
� �
thứ nhất
(A)

Số cam còn
lại sau
� 1�
1- �
1
.�

2
ngày bán
� �
thứ hai
(B)

Số cam còn
lại sau
ngày bán

=0

15


Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.
thứ ba

thứ tư

(C)

(D)

Tính ngược từ dưới lên, ta có:
D=0
� 1�
1- �= 2 quả
C = (0 + 1) : �

� 2�
� 1�
1- �= 6 quả
D = (2 + 1) : �
� 2�
� 1�
1- �= 14 quả
A = (6 + 1) : �
� 2�
� 1�
1- �= 30 quả
X = (14 + 1) : �
� 2�
Ví dụ 2: Hiện nay tổng số tuổi của ba anh em là 58 tuổi. Hỏi tuổi của nỗi người,
biết rằng

2
3
1
số tuổi của em út bằng số tuổi của anh thứ hai và bằng
số tuổi của
3
4
2

anh cả.
Cách 1.


2

3
số tuổi của em bút bằng số tuổi của anh thứ hai
3
4

Suy ra: Tuổi em út bằng


Giải

2 3 8
: = tuổi của anh thứ hai
3 4 9

3
1
tuổi của em út bằng số tuổi của anh cả.
4
2

Suy ra: Tuổi của em út bằng
Ta thấy: Tuổi em út bằng

1 3 2
8
:
= =
số tuổi của anh cả
2 4 3 12


8
8
tuổi anh thứ hai và bằng
tuổi anh cả.
9
12
16


Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.
Nên tuổi em út bằng

8
số tuổi của ba anh em
29

Tuổi của hai anh bằng
Tuổi anh cả bằng

9
số tuổi của ba anh em
29

12
số tuổi của ba anh em
29

Tuổi anh cả là:


58 .

12
= 24 (tuổi)
29

Tuổi anh hai là:

58 .

9
= 18 (tuổi)
29

Tuổi em út là:

58 - 24 - 18 = 16 (tuổi).

Cách 2: Ta có thể chọ ẩn số. Cách này giúp học sinh lên lớp 7 học tốt hơn.
Gọi số tuổi người anh cả, người anh thứ hai và người em út lần lượt là a, b, c
(a, b, c  N và a > b > c).
Theo bài ra ta có: a + b + c = 58

(1)

2
3
c= b
3
4


(2)

3
1
c= a
4
2

(3)

Từ (2) suy ra:

2
9
3
b= c:
= c
3
8
4

Từ (3) suy ra:

a=

3
1
6
c:

= c (5)
4
2 4

Thay (4) và (5) vào (1) ta được:
9
6
c + c + c = 58
8
4


c = 58 :



c = 16

29
8

17

(4)


Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.
Do đó:




b = 16 :

9
= 18
8



a = 16 :

6
= 24
4

Khi giúp HS nắm được đặc điểm của mỗi dạng toán và biết lựa chọn cách giải
nào cho phù hợp sẽ giúp các em ham thích học toán và tư duy ngày một càng phát
triển. Đây là một nhiệm vụ không thể thiếu trong quá trình giảng dạy của mỗi GV.
e/ Bồi dưỡng năng lực sáng tạo ra bài toán mới
Trong quá trình giải toán HS thường lúng túng và thường không giải được đối
với những dạng toán mà HS cho là lạ. Chính vì vậy, khi kiểm tra hoặc các em dự thi
HS giỏi thường bị mất điểm đối với các dạng toán này. Vì thế trong quá trình hướng
dẫn giải bài tập GV cần giúp HS quy các dạng toán mà các em cho là lạ về các dạng
toán mà các em đã biết cách giải.
Trong quá trình dạy toán nói chung và bồi dưỡng HS giỏi nói riêng, mỗi GV
phải cố gắng không ngừng tìm tòi, nghiên cứu tìm ra phương pháp giảng dạy mới
nhất, hiệu quả nhất. Hướng dẫn HS pháp huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, linh
hoạt, huy động thích hợp các kiến thức và khả năng vào các tình huống khác nhau,
không dừng lại ở cái đã biết mà phải quy những cái chưa biết về cái đã biết. Giúp các

em hiểu được mình, tự làm chủ kiến thức toán học.
* Các ví dụ minh họa
Ví dụ 1 ( Bài 9.3 SBT Toán 6 tập 2 tr 24 )
1

1

1

a) Chứng tỏ rằng với n �, n �0 thì n(n  1)  n  n  1
b) Áp dụng kết quả câu a để tính nhanh A 

1
1
1
1


 ... 
1.2 2.3 3.4
9.10

Tìm hiểu nội dung bài toán
GV gợi ý cho HS bằng hệ thống câu hỏi sau:
Đối với câu a
GV: Để chứng minh một đẳng thức ta có những phương pháp nào ?
HS: Chứng minh vế trái bằng vế phải, vế phải bằng vế trái, hai vế của đẳng thức bằng
biểu thức thứ ba.
18



Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.
GV: Trong trường hợp này ta làm thế nào ? Vì sao ?
HS: Ta chứng minh vế phải bằng vế trái. Vì vế phải phức tạp hơn.
GV: Ta biến đổi vế phải bằng kiến thức nào ?
HS: Vế phải ta có thể coi là phép trừ hai phân số không cùng mẫu. Do đó ta quy đồng
mẫu và thực hiện phép trừ hai phân số không cùng mẫu ta sẽ có kết quả.
Đối với câu b
GV: Để tính giá trị của biểu thức A ta phải làm gì ?
HS: Áp dụng kết quả của câu a ta phân tích.
1 1 1 1
1 1 1 1 1
1
1 1
  ;
  ;
  ; ...;
 
và sau đó thực hiện phép toán cộng
1.2 1 2 2.3 2 3 3.4 3 4
9.10 9 10

các phân số sẽ có kết quả.
Trình bài lời giải
1

1

n 1 n


1

a) VP  n  n  1  n(n  1)  n(n  1)  VT
b) A 

1
1
1
1
1 1 1 1 1 1
1 1 1 1
9


 ... 
       ...     
1.2 2.3 3.4
9.10 1 2 2 3 3 4
9 10 1 10 10

Sáng tạo bài toán mới
Cùng với nội dung tính tổng ta có các bài toán sau:
Bài toán 1 ( Bài 9.4 SBT Toán 6 tập 2 tr 24)
1 1 1
1
1
1

  

6 12 20 30 42 56

Tính nhanh A  

HS quy lạ về quen như sau:

1 1
1
1
1
1

;

;...;

6 2.3 12 3.4
56 7.8

Chính vì vậy bài toán 1 đã biết cách giải: A 
A

1 1 1 1
1 1 1 1 3
    ...     
2 3 3 4
7 8 2 8 8

Bài toán 2 ( Bài 9.7 SBT Toán 6 tập 2 tr 24 )


19

1
1
1

 ... 
2.3 3.4
7.8


Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.
Chứng tỏ rằng: D 

1 1 1
1
 2  2  ...  2  1
2
2 3 4
10

HS quy lạ về quen như sau:
HS dựa vào biểu thức trung gian để so sánh.
Biểu thức trung gian của D với 1 là: A 

1
1
1
1



 ... 
. Chính vì vậy
1.2 2.3 3.4
9.10

bài toán 3 đã biết cách giải.
D

1 1 1
1
1
1
1
1
1
9
 2  2  ...  2 


 ... 
 1   1
2
2 3 4
10
1.2 2.3 3.4
9.10
10 10


Việc giúp HS biết quy những bài toán lạ về các bài toán quen thuộc về các bài
toán đã biết cách giải. Người GV làm được điều này thì sẽ nâng cao được năng lực
giải toán của HS và giúp các em giành các thứ hạng cao trong các cuộc thi toán học.
3.6. Hướng dẫn cách làm bài
Đây là việc làm cũng rất quan trọng mà giáo viên- những người trực tiếp dạy
bồi dưỡng không thể bỏ qua nó, bởi lẽ nếu giáo viên dạy nhiệt tình , nội dung bài
giảng phong phú, học sinh học tập tốt, thế nhưng khi đi thi thì các em không biết cách
làm bài, thì kết quả không thể theo mong muốn.
Theo tôi giáo viên lên hướng dẫn học sinh khi nhận đề thi nên dành từ một đến hai
phút để đoc đề, xác định yêu cầu bài, dạng bài, cố gắng hiểu đúng những yêu cầu đề
bài, câu nào dễ làm trước, câu nào khó làm sau.
3.7. Kiểm tra kiến thức và rút ra kinh nghiệm
Đây là giai đoạn cũng rất quan trọng trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi,
bởi lẽ chúng ta chỉ dạy mà không kiểm tra thì ta sẽ không thể biết được sự tiếp thu
kiến thức của học sinh đạt đến mức độ nào.
Việc rút kinh nghiệm sau mỗi bài kiểm tra thật sự là cần thiết, từ những lần rút
kinh nghiệm học sinh nhận ra mình còn yếu ở phần nào để có thể khắc phục, luyện
thêm.
Để thực hiện khâu này chúng ta chuẩn bị các bài tập theo dạng đề thi những
năm trước cho học sinh làm, có quy định thời gian làm bài, có chấm điểm, có khen
thưởng nếu các em làm bài tốt, nhưng nếu các em làm bài chưa tốt thì ta không nên
quở trách mà chỉ nên động viên để các em cố gắng hơn lần sau. Chúng ta nên đem
20


Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.
đến cho học sinh sự hứng thú đối với môn học lẫn người dạy, như vậy việc dạy của
chúng ta mới thuận lợi hơn.
HIỆU QUẢ KHI ÁP DỤNG


Tôi đã áp dụng phương pháp trên trong 3 năm học vừa qua và thu được kết quả
như sau:
- Năm học 2015 - 2016, tôi áp dụng kinh nghiệm vào việc bồi dưỡng học sinh
giỏi khối 6 có 5 em tham gia dự thi đều đạt giải cả ba 5 em. Trong đó:
+ 01 em giải nhất, 02 em giải nhì, 01 em giải ba, 01 em giải khuyến khích.
+ Đồng đội đứng thứ 2 toàn Thành phố.
- Năm học 2016-2017 tiếp tục áp dụng kinh nghiệm vào việc bồi dưỡng học
sinh giỏi lớp 6. Kết quả là:
+ Có 4 em tham gia dự thi đạt giải cả ba. Trong đó: 3 em đạt giải ( 2 giải nhì, 1
giải ba).
+ Đồng đội đứng thứ 4 toàn Thành phố
PHẦN III - KẾT LUẬN- BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ KIẾN NGHỊ
1/ Bài học kinh nghiệm
- Xác định vai trò của người thầy là vô cùng quan trọng.
- Lựa chọn đúng đối tượng học sinh để đưa vào bồi dưỡng
- Xây dựng nội dung, chương trình bồi dưỡng khoa học, sáng tạo
- Lựa chọn phương pháp dạy học dễ hiểu và không ngừng đổi mới.
2/ Kiến nghị và đề xuất
- Nên tổ chức chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi chung cho toàn phòng. Cần
đưa ra nội dung chương trình bồi dưỡng cụ thể cho toàn phòng để giúp giáo viên định
hướng trong việc bồi dưỡng
- Để hỗ trợ cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả, các bộ phận gián
tiếp như: Chi bộ, Ban Giám hiệu, Công đoàn, Đoàn thanh niên, giáo viên chủ
nhiệm… cũng cần quan tâm đặc biệt và có những biện pháp hỗ trợ đúng mức như: tạo
điều kiện cho giáo viên và học sinh tham gia bồi dưỡng. Ví dụ: giảm bớt tiết, bớt
công tác kiêm nhiệm, bồi dưỡng thoả đáng cho giáo viên, có chế độ ưu tiên khuyến
21



Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.
khích đối với học sinh đạt giải, tuyên dương khen thưởng kịp thời đối với các giáo
viên và học sinh đạt thành tích cao.
3/ Kết luận
Qua những năm bồi dưỡng, tôi nhận thấy rằng người thầy cần phải không
ngừng học hỏi và tự học hỏi để nâng cao trình độ, đúc rút kinh nghiệm, thường xuyên
xây dựng nội dung chương trình và sáng tạo trong công tác giảng dạy. Bên cạnh đó,
vai trò của giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn cũng hết sức quan trọng trong
việc dạy “nền” vững chắc.
Tuy nhiên, để có những vụ mùa bội thu, ngoài vai trò của người thầy, ngoài
những nỗ lực cố gắng của học sinh, đòi hỏi phải có sự quan tâm hỗ trợ của nhà trường
để giáo viên có nhiều tài liệu tham khảo, có nhiều thời gian nghiên cứu và tổ chức bồi
dưỡng. Đồng thời giáo viên cũng cần phải biết lắng nghe ý kiến đóng góp của đồng
chí, đồng nghiệp, của phụ huynh học sinh.
Việc bồi dưỡng học sinh giỏi giống như chúng ta ươm một mầm non. Nếu
chúng ta biết rào, biết thường xuyên chăm sóc, vun xới thì mầm non sẽ xanh tốt, phát
triển.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi, bản thân tôi đã áp dụng và thu
được những kết quả khả quan mà tôi mạnh dạn đư ra với mong muốn được sự góp ý
bổ sung thêm của đồng nghiệp để bản sáng kiến của này hoàn chỉnh hơn và góp một
phần nhỏ vào việc đổi mới trông công việc bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn

22


Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán 6 ở trường trung học cơ sở.


Ý KIẾN HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CỦA TRƯỜNG
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................
C
HỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

Ý KIẾN HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
..............................................................................................
.
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

23



×