Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Giải thích hợp đồng theo công ước vienna 1980

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (998.25 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
KHOA LUẬT

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG THEO CÔNG ƢỚC
VIENNA 1980

Ngành: LUẬT KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
KHOA LUẬT

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG THEO CÔNG ƢỚC
VIENNA 1980

Ngành: LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn : Th.S NGUYỄN CHÍ THẮNG
Sinh viên thực hiện

: MAI NGỌC TÙNG

MSSV: 1511271494



Lớp: 15DLK15

Tp. Hồ Chí Minh – 2018


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập với sự dạy bảo tận tâm của các Thầy cô, em đã tích
lũy được rất nhiều kiến thức về chuyên ngành Luật Kinh tế. Những kiến thức đó
thật sự rất bổ ích và đã mở ra cho em một chân trời mới. Em cảm nhận được rằng:
pháp luật là những quy tắc thiết yếu của cuộc sống, tuân thủ và hiểu được nó sẽ cho
ta cơ hội tồn tại và phát triển thuận lợi nhất. Sau khi hoàn thành chương trình đào
tạo, em rất may mắn khi được các Thầy cô trong Khoa luật và Trường đại học công
nghệ Thành phố Hồ Chí Minh (HUTECH) tạo cơ hội cũng như điều kiện thuận lợi
nhất để thực hiện khóa luận tốt nghiệp. Đây là một niềm vinh dự và tự hào của bản
thân em.
Khóa luận tốt nghiệp là một chương trình cần phải thực hiện nghiêm túc và
dồn tâm huyết vào nó. Để có thể hoàn thành được khóa luận, em phải vận dụng
những kiến thức mình đã học cũng như những hiểu biết mà chính bản thân cảm
nhận được hay nghiên cứu từ các tài liệu khoa học. Kiến thức thì rất chuyên sâu và
nguồn tài liệu tham khảo là rất lớn, để có thể thuận lợi nhất cho nghiên cứu đề tài
của em, các Thầy cô trong Khoa luật và nhất là giáo viên hướng dẫn của em Thầy
Nguyễn Chí Thắng đã giúp đỡ em rất nhiều. Em chân thành biết ơn công lao của
các Thầy cô.
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

MAI NGỌC TÙNG



LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: MAI NGỌC TÙNG, MSSV: 15DLK15.
Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài Khoá luận tốt nghiệp
này được thu thập từ nguồn tài liệu khoa học chuyên ngành (có trích dẫn đầy đủ và
theo đúng qui định); Nội dung trong khoá luận KHÔNG SAO CHÉP từ các nguồn
tài liệu khác.
Nếu sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo qui định của nhà trường và
pháp luật.
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

MAI NGỌC TÙNG


DANH MỤC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
STT

TÊN VIẾT TẮT

TÊN TIẾNG ANH

TÊN TIẾNG VIỆT

1

BLDS

2

CISG


3

HĐMBHHQT

Hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế.

4

LTM

Luật Thương mại.

5

PECL

Principles of European
Contract Law.

Bộ nguyên tắc hợp đồng
thương mại Châu Âu.

6

PICC

Principles of


Bộ nguyên tắc về hợp

International
Commercial Contracts.

đồng thương mại quốc tế
năm 1994.

Bộ luật Dân sự.
Convention on
Contracts for the
International Sale of
Goods.

Công ước Vienna 1980
của Liên Hợp quốc về
hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế.


MỤC LỤC
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
HÓA QUỐC TẾ THEO CÔNG ƢỚC VIENNA 1980 ...........................................1
1.1

Tổng quan về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và phạm vi

áp dụng của Công ƣớc Vienna 1980......................................................................1
1.1.1


Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .........1

1.1.1.1 Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .................................1
1.1.1.2 Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ...........................5
1.1.2

Phạm vi áp dụng của Công ước Vienna 1980.......................................10

1.1.3

Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định Công ước

Vienna 1980 .........................................................................................................14
1.1.3.1 Chào hàng...........................................................................................16
1.1.3.2 Chấp nhận chào hàng ........................................................................21
1.2

Khái niệm và mục đích của giải thích hợp đồng .....................................25

1.2.1

Khái niệm giải thích hợp đồng ..............................................................25

1.2.2

Mục đích của giải thích hợp đồng .........................................................30

1.3

Nguyên tắc giải thích hợp đồng theo quy định Công ƣớc Vienna 198031


CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
HÓA QUỐC TẾ THEO CÔNG ƢỚC VIENNA 1980 VÀ LIÊN HỆ PHÁP
LUẬT VIỆT NAM....................................................................................................36
2.1 Căn cứ áp dụng để giải thích hợp đồng theo quy định Công ƣớc Vienna
1980 .......................................................................................................................36
2.1.1 Căn cứ vào ý định của các bên hoặc cách hiểu của một người thông
thường ................................................................................................................36


2.1.2

Căn cứ vào thói quen và tập quán của các bên ....................................50

2.2

Đánh giá các quy định giải thích hợp đồng của Công ƣớc Vienna 1980 ..
.......................................................................................................................55

2.3

Giải thích hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và một số kiến nghị ......57

2.3.1

Giải thích hợp đồng theo pháp luật Việt Nam ......................................57

2.3.2

Một số kiến nghị cho các quy định giải thích hợp đồng theo pháp luật


Việt Nam ..............................................................................................................60
KẾT LUẬN ...............................................................................................................63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................64


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Các hoạt động thương mại quốc tế đang phát triển ngày càng mạnh mẽ, đây là
nguồn lợi lớn mà nhiều quốc gia trên thế giới đều mong muốn thúc đẩy phát triển,
đồng thời đem lại nhiều lợi ích kinh tế cho các thương nhân. Bổ trợ cho hoạt động
thương mại là sự phát triển của ngành sản xuất, khai thác, dịch vụ, các hoạt động
xoay quanh việc vận chuyển hàng hóa, khoa học


hàng hóa quốc tế (tiếng Anh là Convention on Contracts for the International Sale
of Goods – viết tắt là CISG). Công ước trở thành một khung pháp lý chung, áp dụng
đối với nhiều quốc gia với trình độ phát triển thương mại khác nhau, với hệ thống
pháp luật khác nhau, hạn chế sự xung đột pháp luật, giảm phát sinh các cuộc tranh
chấp thương mại và tiến tới thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển trên thế giới.
Ngày 18/12/2015, Việt Nam đã chính thức phê duyệt việc gia nhập CISG để
trở thành viên thứ 84 của Công ước này và chính thức có hiệu lực áp dụng kể từ
ngày 01/01/2017. Trong những năm gần đây, việc áp dụng Công ước đã có sự tham
gia đông đảo của các doanh nghiệp Việt Nam, xong số lượng các bài viết học thuật
cũng như các vụ tranh chấp được xét xử vẫn còn thấp. Thực tế, các bài viết nghiên
cứu về đề tài CISG đều đem lại giá trị thiết thực cao, tuy nhiên, nhiều đề tài chưa
được giới nghiên cứu quan tâm đúng mức, đặc biệt là các đề tài liên quan đến chế

định giải thích hợp đồng. Trong khi đó, chế định giải thích hợp đồng của CISG luôn
được các chủ thể có thẩm quyền áp dụng để giải thích các tuyên bố, hành vi và các
điều khoản trong hợp đồng. Từ đó, giải thích hợp đồng tạo cơ sở cho việc áp dụng
các quy định khác của Công ước vào trong hợp đồng một cách phù hợp nhất theo
quy định. Vì vậy, đây là những lý do em lựa chọn “Giải thích hợp đồng theo Công
ƣớc Vienna 1980” để làm đề tài cho bài viết khóa luận thực tập của mình.
2.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Khóa luận tốt nghiệp sẽ làm rõ các khái niệm, các nguyên tắc và các vấn đề
khác có liên quan đến việc giải thích HĐMBHHQT trong hoạt động thương mại
quốc tế. Từ những phân tích và trình bày của bài viết, người đọc có thể có những
hiểu biết và kinh nghiệm thiết thực về giải thích hợp đồng nói chung, nhất là khi
Việt Nam đã là một thành viên của CISG.
3.

Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu của đề tài

Khóa luận này bao gồm các lý luận về: HĐMBHHQT, giao kết hợp đồng,
phạm vi áp dụng của CISG – đây là những vấn đề có liên quan mật thiết đến việc
giải thích hợp đồng và cần phải được tìm hiểu rõ ràng. Tiếp đó, bài viết đi sâu
nghiên cứu các quy định về giải thích hợp đồng tại các Điều 7, 8 và 9 của CISG dựa
trên cơ sở lý luận và thực tiễn. Đồng thời, khóa luận còn liên hệ với chế định giải
thích hợp đồng trong pháp luật Việt Nam và những đề xuất đối với Việt Nam để tạo
nên sự đồng bộ hóa.


4.


Phƣơng pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong quá trình thực hiện khóa luận tốt
nghiệp:
a) Tổng hợp các tài liệu, lý thuyết từ nhiều nguồn khác nhau và phân tích các
chúng để tìm kiếm lý luận hợp lý nhất cho đề tài.
b) So sánh luật giữa CISG với pháp luật Việt Nam và các đạo luật khác để phân
tích ra sự giống và khác nhau giữa các chế định về giải thích hợp đồng. Bình
luận các án lệ và các vụ kiện để làm cơ sở thực tiễn và phong phú hơn cho
việc nghiên cứu đề tài này.
5.

Kết cấu của khóa luận

Khóa luận tốt nghiệp về đề tài “Giải thích hợp đồng theo Công ƣớc Vienna
1980” bao gồm hai chương chính:
Chương 1: Tổng quan về hợp đồng và giải thích hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế theo Công ước Vienna 1980.
Chương 2: Thực tiễn giải thích hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Công
ước Vienna 1980 và liên hệ pháp luật Việt Nam.


NỘI DUNG CHÍNH ĐỀ TÀI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HÓA QUỐC TẾ THEO CÔNG ƢỚC VIENNA 1980
1.1 Tổng quan về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và phạm vi áp
dụng của Công ƣớc Vienna 1980
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 84 của CISG nên
HĐMBHHQT là đối tượng phải chịu sự điều chỉnh bởi nhiều đạo luật khác nhau

như: CISG, LTM 2005, BLDS 2015.1 Cụ thể, các khái niệm về HĐMBHHQT có
sự khác nhau trong quy định giữa pháp luật Việt Nam và CISG, điều này gây khó
khăn cho việc áp dụng luật nói chung cũng như việc tiến hành thực hiện việc giải
thích hợp đồng nói riêng. Rõ ràng, về “tính quốc tế”, pháp luật Việt Nam xác định
dựa trên tiêu chí quốc tịch, địa điểm giao dịch hoặc đối tượng của hợp đồng để phân
biệt; trong khi đó, Công ước xác định dựa trên tiêu chí trụ sở thương mại của các
bên được đặt tại các quốc gia khác nhau. Như vậy, nếu hợp đồng mua bán hàng hóa
được giao kết giữa bên mua có quốc tịch Việt Nam nhưng trụ thương mại được đặt
tại một quốc gia là thành viên của Công ước, bên bán có quốc tịch Việt Nam và có
trụ sở thương mại được đặt tại Việt Nam thì hợp đồng này có phải là HĐMBHHQT
hay không. Đây là vấn đề quan trọng liên quan đến chế định giải thích hợp đồng
thuộc CISG, bởi lẽ, đối tượng mà chế định này áp dụng đó là HĐMBHHQT và
không điều chỉnh một loại hợp đồng nào khác. Ngoài ra, bản chất của
HĐMBHHQT cùng với sự khác biệt về ngôn ngữ giữa các quốc gia đã gây ra nhiều
khó khăn trong việc tìm hiểu về phong tục, tập quán và ý định giao kết hợp đồng
giữa các bên. Vì vậy, bài viết cần phải tìm hiểu về khái niệm và đặc điểm của
HĐMBHHQT theo các quy định của CISG để làm cơ sở cho việc thực hiện giải
thích đúng đối tượng, hợp lý và phù hợp với các quy định của Công ước này.
1.1.1.1

Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Hiện nay, BLDS 2015 ra đời thay thế cho các đạo luật cũ như BLDS 2005 và
BLDS 1995. Tuy nhiên, khái niệm hợp đồng trong cả ba bộ luật này tương đối
Nguyễn Minh Hằng (2018), Khác biệt giữa CISG và Luật Thương mại, Nguồn: dowload ngày:
19/11/2018.
1
1



giống nhau: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”, có thể thấy được việc định nghĩa như thế rất gần
với tư tưởng hợp đồng của nền văn hóa pháp luật dân sự của người La Mã.2 BLDS
2015 không quy định cụ thể thế nào là hợp đồng mua bán hàng hóa, tuy nhiên hàng
hóa là một dạng tài sản cho nên chúng ta có thể dựa vào khái niệm hợp đồng mua
bán tài sản để định nghĩa. Theo quy định tại Điều 430 BLDS 2015 thì: “Hợp đồng
mua bán tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài
sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho
bên bán”.3 Bên cạnh đó, LTM 2005 là đạo luật chuyên ngành quy định các quy
phạm điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hóa và dịch vụ
thương mại. Theo đó, căn cứ vào Khoản 8 Điều 3 LTM 2005 thì: “Mua bán hàng
hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền
sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán
cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận”.4 Tóm lại, khi
kết hợp các khái niệm về hợp đồng và mua bán hàng hóa của hai đạo luật BLDS
2015 và LTM 2005, ta có thể định nghĩa rằng: Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự
thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở
hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho
bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận.
Hoạt động thương mại quốc tế diễn ra trong nhiều lĩnh vực với nhiều đối
tượng khác nhau như: hàng hóa, dịch vụ, vốn, quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư,... Trong
đó, hàng hóa là đối tượng có lượng giao dịch lớn nhất trên thế giới và lịch sử hình
thành của hoạt động thương mại hàng hóa là rất sớm. Trong vị trí trung tâm của các
hoạt động thương mại quốc tế, HĐMBHHQT luôn là hình thức giao dịch phổ biến
nhất. Khoa học pháp lý hiện nay chưa có một khái niệm chính thức về
HĐMBHHQT, hay nói một cách khác đó là chưa có quy định để thống nhất “tính
quốc tế” của loại hợp đồng này trên toàn thế giới.5 Điều này gây khó khăn cho việc
áp dụng chế định giải thích hợp đồng sao cho phù hợp với các quy định của pháp
luật và việc hiểu biết về các phong tục, tập quán giữa các quốc gia với nhau.


Nguyễn Ngọc Khánh (2006), “Hợp đồng: thuật ngữ và khái niệm”, Nhà nước và pháp luật, trang
38 – 43.
3
Quốc hội (2016), Bộ luật Dân sự 2015, Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
4
Quốc hội (2017), Luật Thương mại 2005, Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
5
Đặng Bá Kỹ (2017), Tổng quan về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Nguồn:
dowload
ngày 15/11/2018.
2
2


Trong Quy chế tạm thời số 4794 TN-XNK ngày 31/07/1991 của Bộ Thương
nghiệp (nay là Bộ Công thương) tại Khoản 1 Điều 1 đưa ra ba tiêu chí để xác định
hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương là:
a) “Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương là các pháp nhân có
quốc tịch khác nhau.
b) Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng thông thường được di chuyển từ nước
này qua nước khác.
c) Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương là
ngoại tệ đối với một hoặc hai bên ký kết hợp đồng.”6
Việc xác định “tính quốc tế” theo tiêu chí quốc tịch của Quy chế tạm thời đã
bộc lộ nhiều hạn chế trong thực tiễn áp dụng. Trường hợp, hai bên tham gia ký kết
hợp đồng đều có cùng quốc tịch là Việt Nam, trong khi đó, một bên đặt trụ sở
thương mại của mình ở nước ngoài, bên còn lại đặt trụ sở thương mại tại Việt Nam
dẫn đến việc xác định “tính quốc tế” của hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương
này sẽ gặp khó khăn hoặc thậm chí không xác định được do pháp luật về quốc tịch
tại mỗi quốc gia thường khác nhau. Hiện nay, theo quy định tại Khoản 1 Điều 27

LTM 2005 thì: “Mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện dưới các hình thức như:
xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tái nhập và chuyển khẩu”.7 Căn cứ vào
điều này, HĐMBHHQT là đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của LTM 2005. Do
đó, quy định về mua bán hàng hóa của LTM 2005 đã có nhiều tiến bộ hơn khi liệt
kê ra các hình thức được làm căn cứ để xác định “tính quốc tế” cho phù hợp với
thực tiễn áp dụng.
Hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có một khái niệm hay định nghĩa cụ thể về
HĐMBHHQT được quy định. Việc xác định rõ ràng khái niệm HĐMBHHQT rất
quan trọng, bởi lẽ nó ảnh hưởng đến việc xác định xem nguồn luật nào điều chỉnh
các quan hệ phát sinh từ hợp đồng, đồng thời dựa các quy định của pháp luật để làm
căn cứ cho việc thực hiện giải thích sao cho phù hợp với phong tục, tập quán và ý
định của các bên trong hợp đồng. Tuy nhiên, về mặt bản chất, HĐMBHHQT trước
hết mang trong mình đầy đủ các chức năng của một bản hợp đồng mua bán hàng
hóa, ngoài ra và quan trọng nhất đó là “tính quốc tế” của hợp đồng phải được thể
Bộ Thương nghiệp (1991), Quy chế tạm thời hướng dẫn việc ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa
ngoại thương, Nguồn: dowload
ngày 15/11/2018.
7
Quốc hội (2017), Luật Thương mại 2005, Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
3
6


hiện. Đối với việc xác định “tính quốc tế” của HĐMBHHQT, căn cứ theo BLDS
2015 Khoản 2 Điều 663 quy định:
“Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các
trường hợp sau đây:
a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài;
b) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng xác
lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài;

c) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối
tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài”.8
Như vậy, theo pháp luật dân sự Việt Nam thì “tính quốc tế” được xác định qua
ba tiêu chí là quốc tịch, địa điểm của giao dịch và đối tượng của hợp đồng, chỉ cần
thỏa mãn một trong ba tiêu chí trên thì hợp đồng mang tính chất quốc tế. Điều này
đặt ra một vấn đề là “tính quốc tế” sẽ được xác định như thế nào khi Việt Nam đã là
một thành viên của CISG, tức là HĐMBHHQT còn chịu sự điều chỉnh của Công
ước.
CISG không đưa ra định nghĩa cụ thể về HĐMBHHQT mà Công ước gián tiếp
khái niệm điều này dựa theo quy định tại Điều 1.1 như sau:
“Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ
sở thương mại tại các quốc gia khác nhau:…”9
Theo quy định của CISG, “tính quốc tế” của HĐMBHHQT được xác định dựa
trên tiêu chí là các bên trong hợp đồng có trụ sở thương mại đặt tại các quốc gia
khác nhau, Công ước không quan tâm tới tiêu chí quốc tịch, địa điểm giao dịch hay
đối tượng của hợp đồng. Điều này được Công ước ghi nhận rõ ràng tại Điều 1.3 như
sau: “Quốc tịch của các bên, quy chế dân sự hoặc thương mại của họ, tính dân sự
hay thương mại của hợp đồng không được xét tới khi xác định phạm vi áp dụng của
Công ước này”.10

8

Quốc hội (2016), Bộ luật Dân sự 2015, Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
Nhiều tác giả (2017), Tập văn bản pháp luật môn Luật Thương mại quốc tế, Nhà xuất bản Lao
động, Hà Nội.
10
Nhiều tác giả (2017), Tập văn bản pháp luật môn Luật Thương mại quốc tế, Nhà xuất bản Lao
động, Hà Nội.
4
9



Như vậy, từ các khái niệm khác nhau về “hợp đồng”, về “mua bán hàng hóa”
và về “tính quốc tế” đã được tìm hiểu từ các đạo luật khác nhau, ta có thể khái niệm
như sau: HĐMBHHQT là sự thỏa thuận giữa các bên có trụ sở thương mại tại các
quốc gia khác nhau, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu
hàng hóa cho bên mua và thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán,
nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận. Khái niệm này được thống
nhất sử dụng để định nghĩa cho HĐMBHHQT và phù hợp với các quy định của
CISG, nhất là đối với chế định giải thích hợp đồng của Công ước này. Do đó, việc
khái niệm như vậy tránh những rắc rối, khó khăn có thể sẽ phát sinh khi có sự xung
đột trong quy định giữa pháp luật Việt Nam và Công ước.
1.1.1.2

Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

HĐMBHHQT trước hết mang trong mình các đặc trưng của một hợp đồng nói
chung, cụ thể được nói ở đây là hợp đồng mua bán hàng hóa. Dựa vào khái niệm
hợp đồng được quy định tại Điều 385 của BLDS 2015 thì có thể thấy được bản chất
của hợp đồng là có sự thỏa thuận về mặt ý chí giữa các chủ thể tham gia giao kết
hợp đồng. Hợp đồng suy cho cùng cũng là một hình thức của giao dịch dân sự,
trong khi đó các vấn đề về dân sự muốn được hình thành và bảo đảm thực hiện tốt
đều phải dựa vào sự thỏa thuận giữa các bên là cốt yếu. Theo đó, HĐMBHHQT bao
gồm các đặc điểm cơ bản cần thiết để làm nên một bản hợp đồng mua bán hàng hóa
như: chủ thể, nội dung, đối tượng, đồng tiền thanh toán hay nguồn luật áp dụng cho
hợp đồng,…
Các đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bao gồm:
Về mặt chủ thể, tùy theo nguồn luật được các bên tham gia giao kết hợp đồng
áp dụng mà việc xác định chủ thể của HĐMBHHQT có thể sẽ khác nhau. Nếu lựa
chọn pháp luật Việt Nam thì chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa là thương

nhân, nếu lựa chọn CISG thì chủ thể là các bên có trụ sở thương mại đặt tại các
quốc gia khác nhau. Khoản 1 Điều 6 của LTM 2005 quy định: “Thương nhân bao
gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một
cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”.11 Theo đó, thương nhân
được định nghĩa theo hình thức liệt kê bao gồm cá nhân và pháp nhân, hoạt động
thường xuyên, độc lập và có đăng ký kinh doanh. Trong khi đó, theo quy định tại
Điều 1.1 CISG thì chủ thể của HĐMBHHQT là các bên đến có trụ sở thương mại
11

Quốc hội (2017), Luật Thương mại 2005, Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
5


đặt tại các quốc gia khác nhau. So sánh giữa hai quy định, có một sự khác biệt rõ
ràng về việc xác định chủ thể: pháp luật Việt Nam xác định chủ thể mang tính nội
địa, một chủ thể sẽ là thương nhân nếu họ có đăng ký kinh doanh theo pháp luật
Việt Nam nhưng có thể họ không là thương nhân đối với một quốc gia khác, bởi lẽ
những chủ thể này không phù hợp với việc xác định chủ thể theo pháp luật thương
mại của quốc gia đó. Còn đối với quy định của CISG, không có một tính quốc gia
nào được nhắc tới, tức là việc các chủ thể có đăng ký kinh doanh theo pháp luật nội
địa của nước sở tại sẽ không được quan tâm đến, cụm từ “các bên” mang tính bao
hàm rộng và phù hợp với tính chất quốc tế của HĐMBHHQT cũng như của chính
Công ước. Nhằm phục vụ cho việc xác định chủ thể, Điều 10 của CISG quy định rõ
ràng hơn về cách xác định trụ sở thương mại của các bên tham gia hợp đồng trong
trường hợp họ có hơn một trụ sở thương mại. Công ước đã nhận định trụ sở nào có
mối liên hệ chặt chẽ nhất đối với hợp đồng và đối với việc thực hiện hợp đồng thì
nó được coi là trụ sở thương mại dùng để xác định cho hợp đồng. Nếu không có trụ
sở thương mại thì sử dụng nơi cư trú thường xuyên của các bên để làm trụ sở
thương mại.12
Khoản 1 Điều 664 của BLDS 2015 quy định nguồn luật được lựa chọn áp

dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên.13 Việt Nam chính thức tham gia CISG vào ngày 18/12/2015 và trở
thành thành viên thứ 84 của Công ước. Hiệu lực của Công ước tại Việt Nam được
tính từ ngày 01/01/2017.14 Như vậy, CISG là một nguồn luật được áp dụng để điều
chỉnh cho HĐMBHHQT tại Việt Nam. Tuy nhiên, các bên có quyền lựa chọn pháp
luật áp dụng cho hợp đồng giao dịch của mình theo thỏa thuận. Như vậy, tùy từng
nguồn pháp luật được các bên lựa chọn áp dụng mà HĐMBHHQT sẽ có những cách
thức xác định chủ thể khác nhau. Việc xác định chủ thể của HĐMBHHQT hết sức
quan trọng, bởi lẽ, nó liên quan chặt chẽ đến việc lựa chọn pháp luật áp dụng; đến
việc hiểu biết phong tục, tập quán và ý định giao kết của các bên.
Về mặt nội dung, theo quy định tại Khoản 8 Điều 3 LTM 2005 thì nội dung
của hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm tổng thể các quyền và nghĩa vụ của các
thương nhân tham gia giao kết hợp đồng. Cụ thể, “Bên bán có nghĩa vụ giao hàng,
Nhiều tác giả (2017), Tập văn bản pháp luật môn Luật Thương mại quốc tế, Nhà xuất bản Lao
động, Hà Nội.
13
Quốc hội (2016), Bộ luật Dân sự 2015, Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
14
Nguyễn Minh Hằng (2018), Khác biệt giữa CISG và Luật Thương mại, Nguồn:
dowload
ngày: 19/11/2018.
6
12


chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa
vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa
thuận”.15 Ở đây có sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các bên, quyền của bên
bán sẽ được bảo đảm nếu bên mua thực hiện nghĩa vụ của mình (thanh toán, nhận
hàng) và ngược lại. Do đó, trong hợp đồng có sự giao tiếp về mặt ý chí giữa các

thương nhân trong quá trình tham gia thỏa thuận, đàm phán để hình thành một ý chí
chung khi hợp đồng được giao kết và việc còn lại là các bên phải tuân thủ theo ý chí
chung đã được thống nhất đó. Lúc này, quyền và lợi ích mà các bên mong muốn sẽ
được thực hiện và hợp đồng đảm bảo trở thành luật chung bảo đảm việc thực hiện
đó.
Điều 4 của CISG quy định: Công ước chỉ điều chỉnh “các quyền và nghĩa vụ
của người bán và người mua phát sinh từ hợp đồng”.16 Một lần nữa, Công ước
khẳng định quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh từ hợp đồng là nội dung của
HĐMBHHQT. Như vậy, chúng ta có thể thấy được quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể phát sinh từ việc giao kết là nội dung hết sức quan trọng của hợp đồng và nó
luôn được pháp luật về hợp đồng của các quốc gia cũng như CISG quan tâm bảo vệ.
Điều này là cần thiết đối với HĐMBHHQT khi trong hợp đồng luôn có sự tham gia
của các chủ thể có yếu tố nước ngoài vào trong giao dịch. Bởi lẽ, hợp đồng khi có
sự tham gia của yếu tố nước ngoài sẽ trở nên rất phức tạp và quan trọng, nguyên
nhân có thể bắt nguồn từ nhiều khía cạnh như: sự khác biệt về hệ thống pháp luật,
bất đồng ngôn ngữ, tập quán, thói quen,…
Về mặt đối tượng, một cách minh thị rằng hàng hóa là đối tượng của
HĐMBHHQT, ngoài ra, hàng hóa còn là đối tượng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
các giao dịch thương mại quốc tế diễn ra từ xưa đến nay. Hàng hóa là một phần hết
sức quan trọng của hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung, bởi lẽ nếu không có đối
tượng thì hợp đồng hoàn toàn không được thực hiện, không có ý nghĩa; lợi ích mà
các chủ thể mong muốn đạt được cũng không được thỏa mãn. “Tính quốc tế” của
HĐMBHHQT đã làm cho đối tượng của loại hợp đồng này trở nên hết sức đặc biệt:
hàng hóa có sự dịch chuyển qua biên giới và gắn liền với các hoạt động hải quan
như: xuất khẩu, nhập khẩu, chuyển khẩu, tạm nhập, tái xuất,… Biên giới được nói
đến ở đây bao gồm biên giới lãnh thổ và biên giới hải quan. Tuy nhiên, không phải
mọi loại hàng hóa đều được phép giao dịch, nó phải thỏa mãn về tính pháp lý được
Quốc hội (2017), Luật Thương mại 2005, Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
Nhiều tác giả (2017), Tập văn bản pháp luật môn Luật Thương mại quốc tế, Nhà xuất bản Lao
động, Hà Nội.

7
15
16


phép giao dịch đối với cả bên mua và bên bán tại nước sở tại.17 Theo Khoản 2 Điều
3 LTM 2005 thì hàng hóa bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình
thành trong tương lai và những vật gắn liền với đất. Hay, theo quy định tại Điều 2
CISG thì không áp dụng điều chỉnh đối với một số loại hàng hóa như: hàng hóa
không có sự mua bán chuyên nghiệp, hàng hóa bán đấu giá, cổ phiếu, cổ phần,
chứng khoán đầu tư,…18
Về đồng tiền thanh toán, đối với các hợp đồng mua bán hàng hóa nội địa thì
pháp luật nội địa của các quốc gia trên thế giới thường có quy định bắt buộc các
giao dịch này phải sử dụng nội tệ để thanh toán. Mục đích là để bảo vệ giá trị của
đồng tiền quốc gia, tránh các hiện tượng như lạm phát và mất giá đồng tiền. Theo
Pháp lệnh ngoại hối Việt Nam số 28/2005/PL-UBTVQH11 thì các giao dịch phát
sinh trên lãnh thổ Việt Nam phải sử dụng Đồng Việt Nam để thanh toán.19 Tuy
nhiên, “tính quốc tế” đặc thù của HĐMBHHQT đã làm các bên khi tiến hành giao
dịch, có ít nhất một bên của hợp đồng thì đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với
họ; thậm chí, đồng tiền thanh toán có thể là ngoại tệ đối với cả hai bên tham gia hợp
đồng khi họ lựa chọn ngoại tệ của nước thứ ba làm đồng tiền thanh toán cho giao
dịch của mình.
Về hình thức, pháp luật được các bên lựa chọn áp dụng để điều chỉnh cho hợp
đồng của mình khác nhau thì sẽ làm cho quy định về hình thức của HĐMBHHQT
khác nhau. Khoản 2 Điều 27 LTM 2005 quy định: “Mua bán hàng hóa quốc tế phải
được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá
trị pháp lý tương đương”.20 Ngoài ra, căn cứ theo Khoản 15 Điều 3 LTM 2005 thì:
“Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông
điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định”.21 Việc cụ thể hóa hình thức của
hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của LTM 2005 nhằm bảo vệ an toàn

pháp lý, các chứng cứ, các điều khoản và nội dung của hợp đồng. CISG không quy
định cụ thể hình thức của HĐMBHHQT, hợp đồng không bắt buộc phải được ký
kết bằng văn bản như quy định của pháp luật Việt Nam. Hình thức này làm cho hợp
17

Quốc hội (2017), Luật quản lý ngoại thương, Nguồn: dowload ngày: 12/12/2018.

Nhiều tác giả (2017), Tập văn bản pháp luật môn Luật Thương mại quốc tế, Nhà xuất bản Lao
động, Hà Nội.
19
Ủy ban thường vụ Quốc hội (2005), Pháp lệnh ngoại hối, Nguồn:
/>&document_id=55835, dowload ngày 19/11/2018.
20
Quốc hội (2017), Luật Thương mại 2005, Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
21
Quốc hội (2017), Luật Thương mại 2005, Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
8
18


đồng có thể được giao kết dưới những hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp tùy ý muốn
của các chủ thể. Như vậy, Công ước đem lại sự đa dạng và phong phú về hình thức
của hợp đồng để cho các chủ thể có nhiều lựa chọn khác nhau cho giao dịch của
mình. Bởi vì, trên thực tế không có nhiều hợp đồng mang giá trị quan trọng đủ cần
thiết để các chủ thể cần phải thực hiện giao kết bằng văn bản, nhất là đối với các
loại hợp đồng mang tính quốc tế này. Tuy nhiên, khi Việt Nam tham gia CISG, để
đảm bảo sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam và CISG, Việt Nam đã bảo lưu
Điều 96 của Công ước.22 Theo đó, các HĐMBHHQT khi được giao kết mà có một
bên là thương nhân Việt Nam thì phải được thực hiện dưới hình thức văn bản hoặc
các hình thức khác tương đương với văn bản.

Về nguồn luật điều chỉnh, trong thương mại quốc tế thường có những
HĐMBHHQT lớn, hết sức phức tạp; có nhiều bản hợp đồng được lập tới hàng trăm
trang, các chi tiết, nội dung, vấn đề rất nhiều và khó có thể dự đoán được các tình
huống sẽ phát sinh. Ngoài ra, một khi phát sinh tranh chấp thì rất khó để tiến hành
giải quyết, lý do là sẽ chọn pháp luật nào để giải quyết, phương thức giải quyết ra
sao, tòa án nước nào có thẩm quyền tiến hành tố tụng,… Trên thực tế, các vụ tranh
chấp thường kéo dài, gây mệt mỏi và tốn kém cho cả bên mua và bên bán, gây mất
uy tín trong kinh doanh, thậm chí còn ảnh hưởng đến những chủ thể kinh doanh liên
quan khác do hậu quả từ tranh chấp. Vì vậy, trong quá trình giao kết hợp đồng, các
bên cần phải thỏa thuận rõ điều khoản chọn nguồn luật áp dụng, nên lựa chọn nguồn
luật sao cho phù hợp với bản hợp đồng của mình. Đây là quyền tự do ý chí, tự do
thỏa thuận tối cơ bản trong pháp luật hợp đồng mà các thương nhân cần phải chú ý
tuân thủ. Có nhiều nguồn luật khác nhau được áp dụng cho HĐMBHHQT như:
a) Điều ước quốc tế.
b) Pháp luật quốc gia.
c) Án lệ hay tiền lệ pháp.
d) Tập quán quốc tế.
Như vậy, tự do ý chí, tự do thỏa thuận là quyền quan trọng hơn cả trong việc
thỏa thuận lựa chọn nguồn luật áp dụng khi các bên tham gia giao kết
HĐMBHHQT và đối với việc tiến hành giải quyết tranh chấp của Tòa án hoặc

Nguyễn Minh Hằng (2018), Khác biệt giữa CISG và Luật Thương mại, Nguồn:
dowload
ngày: 19/11/2018.
9
22


Trọng tài. Thỏa thuận là nguyên tắc hết sức quan trọng trong thương mại quốc tế và
cần phải được các chủ thể tôn trọng trên hết.

1.1.2 Phạm vi áp dụng của Công ước Vienna 1980
Các giao dịch thương mại quốc tế diễn ra hàng ngày với số lượng rất lớn, các
quốc gia trên thế giới đều mong muốn thúc đẩy thương mại phát triển. Đi cùng với
sự phát triển của thương mại là các ngành khác có liên quan như: sản xuất, dịch vụ,
vận tải, khoa học – kỹ thuật,... đều có những tiến bộ vượt bậc. Số lượng các giao
dịch thương mại quốc tế lớn, đi cùng với đó là số lượng các HĐMBHHQT được
giao kết ngày càng nhiều. Điều này tất yếu tạo nên sự đa dạng, phức tạp về cả hình
thức lẫn nội dung. Trong các cuộc đàm phán, các bên thường cố gắng giành cho
mình các lợi thế hơn trong hợp đồng, gây ra sự mâu thuẫn trong việc thương thảo.
Đồng thời, khi có tranh chấp xảy ra, hợp đồng thường kéo theo nhiều vấn đề phát
sinh liên quan đến giải quyết tranh chấp. Như vậy, vấn đề cấp thiết đặt ra ở đây là
cần phải có một đạo luật chung, thống nhất để cho các thương nhân lựa chọn áp
dụng và giảm bớt khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như cho chính
bản thân các thương nhân.
Hiện nay, CISG được coi là một khung pháp lý chung, hiện đại, được áp dụng
tại nhiều quốc gia trên thế giới với trình độ phát triển khác nhau, có hệ thống pháp
luật khác nhau. Ngoài ra, Công ước còn đạt được các mục đích như: hạn chế xung
đột pháp luật, giảm phát sinh các cuộc tranh chấp thương mại và thúc đẩy thương
mại quốc tế phát triển trên toàn thế giới.23 Chương I của CISG quy định về “Phạm
vi điều chỉnh” của Công ước đối với HĐMBHHQT, bao gồm 6 điều từ Điều 1 đến
Điều 6 quy định về phạm vi áp dụng và phạm vi không áp dụng của Công ước.
Theo Điều 1.1 CISG quy định:
“Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ
sở thương mại tại các quốc gia khác nhau:
a) Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên của Công ước hoặc;

23

CISGVN (2010), Thành công của CISG, Nguồn:
dowload ngày:

21/11/2018.
10


b) Khi theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật của nước
thành viên Công ước này.”24
Chiếu theo quy định này, CISG chỉ áp dụng đối với các bên tham gia giao kết
hợp đồng có trụ sở thương mại (hay địa điểm kinh doanh) đặt tại các quốc gia khác
nhau, Công ước không quan tâm đến các tiêu chí quốc tịch, vị trí giao kết hợp đồng
và địa điểm thực hiện hợp đồng để làm cơ sở cho việc xác định “tính quốc tế” của
HĐMBHHQT. Để khẳng định điều này, Điều 1.3 CISG đã nói rõ ràng: “Quốc tịch
của các bên, quy chế dân sự hoặc thương mại của họ, tính chất dân sự hay thương
mại của hợp đồng không được xét tới khi xác định phạm vi áp dụng của Công ước
này”.25 Dựa vào đó, Công ước phân làm ra hai trường hợp quy định về phạm vi áp
dụng, bao gồm:
Áp dụng trực tiếp, tất cả các bên tham gia giao kết hợp đồng có trụ sở thương
mại đặt tại các quốc gia là thành viên của CISG, đây là trường hợp được áp dụng
phổ biến nhất. Cần phải lưu ý, quy định tại Điều 1.2 rằng: “Sự kiện các bên có trụ
sở thương mại tại các quốc gia khác nhau không tính đến nếu sự kiện này không
xuất phát từ hợp đồng, từ các mối quan hệ đã hình thành hoặc vào thời điểm ký hợp
đồng giữa các bên hoặc là từ việc trao đổi thông tin giữa các bên”.26 Điều này được
hiểu rằng, trong một trường hợp, các bên có trụ sở trong cùng một quốc gia nhưng
một bên tham gia hợp đồng lại đóng vai trò là đại lý cho một chủ thể ở nước ngoài
không được tiết lộ; như vậy, các bên được hiểu rằng dường như trụ sở thương mại
của họ được đặt cùng một quốc gia nên hợp đồng đã được giao kết không bị chi
phối bởi CISG. Ngoài ra, để bổ sung cho việc xác định trụ sở thương mại, Điều 10
CISG có quy định trường hợp một bên có nhiều hơn một trụ sở trở lên thì trụ sở nào
có mối liên hệ chặt chẽ nhất đối với hợp đồng và với việc thực hiện hợp đồng thì nó
được coi là trụ sở thương mại xác định với hợp đồng. Trường hợp mà chủ thể không
có trụ sở thương mại thì sẽ sử dụng nơi cư trú thường xuyên để làm căn cứ.27 Các

quy định này sẽ bổ toàn chỗ trống pháp lý cho quy định tại Điều 1.1, đồng thời mở
rộng phạm vi áp dụng hơn cho Công ước. Tuy nhiên, có những trường hợp mặc dù
Nhiều tác giả (2017), Tập văn bản pháp luật môn Luật Thương mại quốc tế, Nhà xuất bản Lao
động, Hà Nội.
25
Nhiều tác giả (2017), Tập văn bản pháp luật môn Luật Thương mại quốc tế, Nhà xuất bản Lao
động, Hà Nội.
26
Nhiều tác giả (2017), Tập văn bản pháp luật môn Luật Thương mại quốc tế, Nhà xuất bản Lao
động, Hà Nội.
27
Nhiều tác giả (2017), Tập văn bản pháp luật môn Luật Thương mại quốc tế, Nhà xuất bản Lao
động, Hà Nội.
11
24


hợp đồng đã thỏa mãn “tính quốc tế” theo quy định của Công ước nhưng các bên
vẫn có thể loại trừ việc áp dụng CISG đối với hợp đồng của mình. Lúc này, các bên
có thể lựa chọn pháp luật nội địa từ một quốc gia thứ ba không phải là thành viên
của Công ước để áp dụng làm cơ sở pháp lý điều chỉnh cho chính hợp đồng của
mình. Hoặc là, các bên loại bỏ trực tiếp việc áp dụng Công ước theo quy định tại
Điều 6 của Công ước này.28 Lúc này, các bên phải nêu rõ ràng, cụ thể trong điều
khoản một cách minh thị nhất việc loại trừ áp dụng Công ước hoặc các điều khoản
của nó.
Một vấn đề khác được đặt ra đó là: quốc gia nào được xem là thành viên của
Công ước, còn quốc gia nào là không thỏa mãn điều kiện. Điều 99 của CISG cho
rằng: một quốc gia được xem là thành viên kể từ sau ngày thứ 10 mà văn bản phê
chuẩn, chấp nhận hay chuẩn y, gia nhập Công ước được đệ trình. Theo Điều 100.1
quy định, các điều khoản của CISG chỉ được áp dụng khi vào đúng hoặc sau ngày

Công ước bắt đầu có hiệu lực. Khi một quốc gia tuyên bố rằng: họ sẽ không bị ràng
buộc bởi phần thứ hai, hoặc phần thứ ba của Công ước thì họ sẽ không được coi là
một quốc gia thành viên của CISG (Điều 92). Trong trường hợp, một quốc gia có
nhiều đơn vị lãnh thổ, mỗi đơn vị lãnh thổ này lại có một hệ thống pháp luật riêng
thì quốc gia này được coi là thành viên của Công ước nếu có ít nhất một đơn vị lãnh
thổ thuộc phạm vi áp dụng của CISG, trừ khi họ đã bảo lưu mở rộng CISG cho một
hay nhiều đơn vị lãnh thổ còn lại.
Áp dụng gián tiếp, một bên tham gia hợp đồng có trụ sở thương mại đặt tại
quốc gia là thành viên của CISG, trong khi đó bên còn lại thì không, Điểm b mở
rộng phạm vi áp dụng so với Điểm a. Khi đó, sự xung đột các quy phạm Tư pháp
quốc tế mà dẫn chiếu đến pháp luật của một quốc gia là thành viên của CISG thì
Công ước có thể trở thành nguồn luật điều chỉnh cho toàn bộ hợp đồng đã được giao
kết.29 Lúc này, khi xảy ra tranh chấp giữa các bên trong hợp đồng, một bên có trụ sở
thương mại từ một quốc gia là thành viên của CISG, bên còn lại thì không có trụ sở
thương mại từ một quốc gia thành viên, để giải quyết vụ việc thì Tòa án hoặc Trọng
tài sẽ không căn cứ vào pháp luật nội địa của các bên tham gia hợp đồng mà sẽ căn
cứ vào CISG để giải quyết tranh chấp. Hầu hết, nhưng không phải tất cả các quốc
Nhiều tác giả (2017), Tập văn bản pháp luật môn Luật Thương mại quốc tế, Nhà xuất bản Lao
động, Hà Nội.
29
CISGVN (2010), Lợi ích khi Việt Nam gia nhập CISG, Nguồn:
dowload
ngày: 21/11/2018.
12
28


gia ký kết đều bị rằng buộc bởi Điểm b Điều 1.1, Điều 95 quy định: một quốc gia có
thể tuyên bố rằng họ không bị ràng buộc điều này. Điều 1.1 có những quy tắc cơ
bản sau:

Quy tắc một, một bên có trụ sở thương mại đặt tại quốc gia là thành viên của
Công ước, một bên không bị ràng buộc bởi điều này hoặc không là thành viên của
Công ước.
Quy tắc hai, hai điều kiện tiên quyết để áp dụng Điểm b Điều 1.1 là: các bên
có địa điểm kinh doanh phải ở các quốc gia khác nhau và luật được viện dẫn theo
các quy tắc của Tư pháp quốc tế phải là pháp luật của quốc gia là thành viên của
Công ước.
Quy tắc ba, mặc dù quy tắc hai có thể được thỏa mãn nhưng nếu các quy tắc
của Tư pháp quốc tế dẫn đến một quốc gia không bị ràng buộc bởi Điểm b, pháp
luật nội địa của quốc gia là thành viên CISG được áp dụng. Vậy, Công ước sẽ áp
dụng theo Điểm a Điều 1.1.
Quy tắc bốn, bất kể vị trí của các bên, trong mọi trường hợp, một trong các
bên tham gia hợp đồng có trụ sở thương mại đặt tại quốc gia không là thành viên và
bên kia có trụ sở thương mại đặt tại quốc gia là thành viên nhưng không ràng buộc
bởi Điểm b. Hiển nhiên, CISG không được áp dụng.30
CISG sẽ được áp dụng nếu các quy tắc của Tư pháp quốc tế dẫn đến việc áp
dụng luật của một quốc gia là thành viên. Nhưng vấn đề đặt ra là pháp luật về
thương mại của quốc gia đó có thể sẽ được áp dụng. Khi hai quy tắc một và hai ở
trên được thỏa mãn và không có một quốc gia nào không bị ràng buộc bởi Điểm b
thì không cần xem xét hai quy tắc tiếp theo. Nếu một bên không bị ràng buộc bởi
Điểm b Điều 1.1 thì tình huống sẽ trở nên phức tạp, trong tình huống này quy tắc ba
và bốn cần được xem xét.
Trong văn bản phê chuẩn gia nhập CISG, Đức đã giải thích văn bản của Công
ước như sau: “Chính phủ Cộng hòa Liên bang Đức giữ quan điểm rằng các bên
tham gia Công ước đã tuyên bố theo Điều 95 của Công ước không được coi là các
quốc gia theo nghĩa của Điểm b Điều 1.1 của Công ước. Theo đó, Cộng hòa Liên
30

Franco Ferrari (1996), Article 1, Nguồn: dowload ngày 21/11/2018.
13



bang Đức không có nghĩa vụ áp dụng và không có nghĩa vụ phải áp dụng quy định
này khi các quy tắc của Tư pháp quốc tế dẫn đến việc áp dụng luật của một bên đã
tuyên bố rằng sẽ không bị ràng buộc bởi Điểm b Điều 1.1 của Công ước”.31 Như
vậy, để tránh gây tranh cãi về Điểm b Điều 1.1 CISG, Đức đã bằng quyền tài phán
của mình để tuyên bố rằng: một nước đã tuyên bố theo Điều 95 thì không được coi
là một quốc gia là thành viên của Công ước.
Các bên tham gia giao kết hợp đồng không có trụ sở thương mại đặt tại các
quốc gia là thành viên của CISG nhưng họ vẫn có thể lựa chọn áp dụng pháp luật
của một nước thứ ba là thành viên Công ước. Nếu lựa chọn áp dụng theo trường
hợp này, các bên tham gia hợp đồng cần phải nêu rõ ràng trong điều khoản lựa chọn
luật để làm căn cứ, cũng như làm giảm bớt khó khăn trong việc giải quyết tranh
chấp sau này nếu nó có thể xảy ra. Mặt khác, CISG sẽ không được áp dụng nếu các
bên đã loại trừ áp dụng Công ước hoặc các điều khoản của Công ước ra khỏi hợp
đồng theo quy định tại Điều 6. Tuy nhiên, CISG vẫn có thể được áp dụng theo luật
hiện hành khi các bên lựa chọn biến CISG thành một phần trong hợp đồng của họ,
tức là Công ước hoặc các điều khoản của Công ước sẽ trở thành điều khoản trong
HĐMBHHQT.
1.1.3 Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định Công
ước Vienna 1980
Giao kết hợp đồng là một bước quan trọng để các bên tiến hành thống nhất với
nhau những ý định đã được thỏa thuận bằng các điều khoản rõ ràng nhất, đồng thời
nó là cơ sở cho việc hình thành một bản hợp đồng nói chung. Khi hợp đồng được
hình thành, nội dung của nó trở thành luật chung giữa các bên trong hợp đồng và họ
cần phải tuân thủ nó. Do đó, giao kết hợp đồng là một nội dung quan trọng cần
được xem xét khi nghiên cứu về pháp luật hợp đồng nói chung và HĐMBHHQT
nói riêng. Dựa theo Điều 1.1 CISG thì ta có thể hiểu rằng: giao kết HĐMBHHQT là
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại đặt tại các
quốc gia khác nhau. Trên thực tế, giao kết hợp đồng được thực hiện dưới hai hình

thức:
Giao kết trực tiếp: Trước khi tiến tới giao kết hợp đồng, các bên chủ thể trong
hợp đồng tiến hành trực tiếp gặp mặt nhau (hoặc ít nhất cử người đại diện của họ)
31

Franco Ferrari (1996), Article 1, Nguồn: dowload ngày 21/11/2018.
14


để tiến hành đàm phán, bàn bạc, trao đổi với nhau để làm rõ ràng các nội dung cần
thỏa thuận và tiến hành ký kết.
Giao kết gián tiếp: Các bên chủ thể tham gia vào hợp đồng không trực tiếp
gặp mặt nhau để tiến hành thương lượng như hình thức ở trên. Bởi lẽ, các hợp đồng
phát sinh trong trường hợp này về mặt giá trị, tầm quan trọng cũng như độ phức tạp
thấp hơn dẫn đến không cần thiết phải tiến hành giao kết trực tiếp.32
Khi các bên tiến hành giao kết hợp đồng cần phải có những chuẩn mực
nguyên tắc để đảm bảo bản tính chất, giá trị hiệu lực của hợp đồng cũng như các
quan hệ pháp lý khác phát sinh. Điều 3 của BLDS 2015 quy định về các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật dân sự nói chung và HĐMBHHQT nói riêng, bao gồm:
Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận nhưng không vi phạm điều
cấm của luật, không trái đạo đức xã hội: Về mặt cơ bản, các bên chỉ cần có đầy đủ
điều kiện về tư cách pháp lý thì có thể tham gia giao kết hợp đồng nhằm thỏa mãn
các nhu cầu hợp pháp của mình. Đây là quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của
con người cần được bảo vệ và pháp luật được Nhà nước ban hành nhằm bảo đảm
các quyền này. Tuy nhiên, vì lợi ích của xã hội, trật tự công cộng hoặc lợi ích của
quốc gia mà các quyền nói trên cần phải đưa vào trong một khuôn khổ, giới hạn
nhất định để không gây bất lợi hay thiệt hại cho các quan hệ khác. Nếu không, “tự
do tuyệt đối chính là không có tự do”.
Nguyên tắc thiện chí, trung thực: Trong các quan hệ hợp đồng, điều cốt yếu
nhất đó là sự thỏa thuận giữa các chủ thể tham gia. Để bảo đảm quyền và nghĩa vụ

cho các bên trong hợp đồng, các chủ thể tham gia hợp đồng phải được bảo đảm ở
trong hoàn cảnh bình đẳng với nhau, không có bên nào có lợi thế hơn bên nào trong
thỏa thuận. Nói cách khác, một giao dịch công bằng chỉ tồn tại khi cả hai bên ở vị
thế cân bằng với nhau. Như vậy, để tạo nên sự cân bằng, pháp luật cần phải tiến
hành bảo vệ về mặt pháp lý; về mặt cá nhân, các bên cũng phải luôn giữ cho mình
một ý chí thiện chí và trung thực. Bởi lẽ, nếu không có thiện chí và trung thực, quan
hệ hợp đồng phát sinh giữa các bên sẽ trở thành ý chí một chiều, cưỡng bức về mặt
tinh thần, có sự lừa dối; đồng thời nguyên tắc tự do ý chí, tự nguyện tối cơ bản cũng
không được bảo toàn.
Luật Hoàng Phi (2018), Quy định về trình tự giao kết hợp đồng dân sự, Nguồn:
dowload ngày
23/11/2018.
15
32


×