Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

So sánh chế định giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật Việt Nam và theo Công ước Viên 1980

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.11 KB, 89 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN VĂN QUANG





SO SÁNH CHẾ ĐỊNH GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VÀ THEO CÔNG ƢỚC VIÊN 1980




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Hà Nội - 2014



2



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN VĂN QUANG




SO SÁNH CHẾ ĐỊNH GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VÀ THEO CÔNG ƢỚC VIÊN 1980

Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ
Mã số: 60 38 01 07


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS .TS BÙI NGUYÊN KHÁNH

Hà Nội - 2014

3
MỤC LỤC

MỤC LỤC 1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 5
LỜI MỞ ĐẦU 6
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VÀ THEO CÔNG ƢỚC VIÊN NĂM 1980 11
1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế 11
1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 17
1.3. Những nguyên tắc của luật hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 25
1.3.1. Nguyên tắc tự do ý chí 25
1.3.2. Nguyên tắc áp dụng tập quán và thói quen thương mại 26
1.3.3. Nguyên tắc phù hợp với luật của nước được lựa chọn hoặc dẫn chiếu
tới 27
1.4. Vai trò và ý nghĩa của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 28
CHƢƠNG 2 SO SÁNH CÁC NỘI DUNG CỤ THỂ CỦA CÔNG ƢỚC
VIÊN 1980 VỚI PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ 31
2.1. Hình thức của hợp đồng 31
2.2. Đề nghị giao kết hợp đồng 35
2.2.1.Khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng 35
2.2.2. Điều kiện có hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng 38
2.2.3. Thời hạn có hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng 40
2.2.4. Đưa ra chào hàng mới 44

4
2.2.5. Chào hàng trong sự so sánh với các quy định của Các nguyên tắc của
Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế 45
2.3. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng 50
2.3.1.Khái niệm chấp nhận đề nghị theo Công ước Viên 1980 50

2.3.2.Hiệu lực của chấp nhận chào hàng 53
2.3.3. Chấp nhận chào hàng: So sánh với PICC 59
2.3.4. Thay đổi nội dung của chấp nhận đề nghị 64
2.4. Thời điểm giao kết hợp đồng 66
CHƢƠNG 3 : KIẾN NGHỊ ĐỐI HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ
69
3.1. Về đề nghị giao kết hợp đồng 69
3.1.1. Qui định chung về đề nghị giao kết hợp đồng 69
3.1.2. Về điều kiện giá cả trong đề nghị giao kết hợp đồng 73
3.2. Về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng 75
3.3. Kiến nghị gia nhập Công ước Viên 1980 80
3.4. Kiến nghị thực hành 82
KẾT LUẬN 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88


5
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


- CISG : Contracts for the International Sale of Goods ( Công ước Viên
1980 )
- NĐ-CP : Nghị định - Chính phủ
- PICC : Principles of International Commercial Contracts ( Những nguyên
tắc của hợp đồng thương mại quốc tế ) .
- UNCITRAL : United Nations Commission on International Trade Law
( Ủy ban liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế )
-UNIDROIT : The International Institute for the Unification of Private Law
( Viện quốc tề về nhất thể hóa pháp luật tư )

-VCCI : Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
-WTO : World Trade Organization ( Tổ chức thương mại Thế giới )


6
LỜI MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Giao lưu giữa các nước trên thế giới ngày càng mở rộng theo xu
hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Đặc biệt sự hình
thành và phát triển của các tổ chức khu vực, liên khu vực và các công ty đa
quốc gia trong mấy thập kỷ vừa qua đã đánh dấu một bước tiến quan trọng
trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới. Tình hình này khiến cho các quốc
gia không thể chỉ bó hẹp hoạt động kinh tế của mình trong phạm vi quốc gia,
mà còn phải tham gia vào các hoạt động kinh tế toàn cầu hoặc khu vực nhằm
tận dụng mọi lợi thế so sánh. Giao lưu quốc tế của các nước trên thế giới
càng mở rộng và phức tạp thì càng cần thiết có pháp luật quốc tế thích hợp
để điều chỉnh các mối quan hệ đó. Đồng thời pháp luật quốc gia cần được
xem xét trong sự so sánh với pháp luật quốc tế để làm rõ các điểm tương
đồng và khác biệt. Trên cơ sở đó các nước chủ động trong quá trình hội
nhập.
Hoạt động thương mại quốc tế hiện nay không còn bị giới hạn trong
việc trao đổi hàng hóa mà được mở rộng sang cả các lĩnh vực khác như
thương mại dịch vụ, thương mại đầu tư, thương mại liên quan đến quyền sở
hữu trí tuệ. Hàng hóa được bán ra ở nhiều quốc gia với số lượng lớn hơn và
chủng loại phong phú hơn. Nhưng khi khối lượng cũng như tính phức tạp
của mua bán hàng hóa quốc tế tăng lên thì khả năng dẫn đến tranh chấp và
hiểu lầm cũng theo đó mà tăng lên nếu như các hợp đồng mua bán hàng hóa
không được soạn thảo một cách cụ thể. Công cụ pháp lý được sử dụng trong
việc trao đổi hàng hóa chính là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế . Có thể

nói rằng, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đã và đang đóng vai trò chủ

7
đạo trong hoạt động ngoại thương của Việt Nam. Kim ngạch xuất nhập khẩu
của nước ta không ngừng tăng cao trong những năm gần đây, và đặc biệt là
sẽ được tăng cao hơn nữa khi Việt Nam đã là thành viên của tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO).
Thực tiễn ký kết hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại ở
Việt Nam trong thời gian vừa qua cho thấy rằng, hợp đồng được ký kết chủ
yếu theo thói quen mà không theo kỹ năng pháp lý. Cũng chính vì vậy mà
những vấn đề liên quan đến giá trị pháp lý của đề nghị giao kết hợp đồng
(chào hàng) và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng không mấy được quan
tâm. Trong khi đó, để một hợp đồng là một căn cứ pháp lý bảo vệ quyền lợi
cho mình thì khâu giao kết hợp đồng dường như là quan trọng nhất. Tuy
nhiên, pháp luật Việt Nam về vấn đề giao kết hợp đồng vẫn còn khá nhiều
điểm chưa sát hợp với thực tiễn áp dụng.
Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
(CISG) được soạn thảo bởi Ủy ban của Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại
quốc tế (UNCITRAL) trong một nỗ lực hướng tới việc thống nhất nguồn
luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Công ước này đã trở
thành công ước được áp dụng rộng rãi nhất trong số các điều ước quốc tế đa
phương về mua bán hàng hoá quốc tế với 66 quốc gia thành viên. Chính vì
vậy, để góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề giao kết
hợp đồng, tôi chọn đề tài “So sánh chế định giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế theo pháp luật Việt Nam và theo Công ƣớc Viên 1980”
để qua đó góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập
quốc tế theo chủ trương của Đảng.





8
2. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ lý do trên, khi nghiên cứu đề tài “So sánh chế định giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật Việt Nam và
theo Công ƣớc Viên 1980”, Luận văn có các mục đích sau:
- Thứ nhất: Nghiên cứu cơ sở lý luận chung về hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế. Qua đó thấy được tầm quan trọng của vấn đề giao kết hợp
đồng liên quan tới lĩnh vực này, đồng thời làm rõ các yếu tố của việc giao
kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
- Thứ hai: Phân tích và đánh giá các quy định của Công ước Viên
1980 – Công ước thống nhất các quy định về vấn đề hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế trên toàn thế giới - về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế trong sự so sánh với các quy định của pháp luật Việt Nam.
- Thứ ba: Kiến nghị một số phương hướng và giải pháp chính nhằm
xây dựng và hoàn thiện về pháp luật hợp đồng nói chung và giao kết hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế nói riêng của pháp luật Việt Nam sau khi
nghiên cứu Công ước Viên 1980.

3. Phạm vi nghiên cứu
Công ước Viên 1980 là Công ước quốc tế về hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế do Uỷ ban Liên hợp quốc soạn thảo với rất nhiều quốc gia thành
viên và được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Việt Nam mặc dù chưa phải
là thành viên của Công ước này nhưng các doanh nghiệp Việt Nam vẫn có
cơ hội áp dụng các quy định của Công ước khi tham gia giao kết hợp đồng
mua bán hàng hoá có tính chất quốc tế.
Công ước quy định về mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế như đối tượng, chủ thể của hợp đồng, vấn đề giao kết hợp
đồng, quyền và nghiã vụ của các bên trong hợp đồng, các vấn đề chế tài,


9
trách nhiệm của các bên, vấn đề bồi thường thiệt hại….Tuy nhiên do đề tài
mà luận văn hướng đến là vấn đề về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá
theo Công ước Viên 1980 nên trong luận văn này chỉ nghiên cứu về vấn đề
giao kết bao gồm: chào hàng, chấp nhận chào hàng và ký kết hợp đồng và
một số vấn đề pháp lý khác liên quan trực tiếp.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Là một đề tài thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, cho nên trong luận văn
này sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau.
Bên cạnh những phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống và cổ điển
như phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác – Lênin, luận còn dựa trên những phương pháp mang tính
đặc thù như: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp
tổng hợp
- Phương pháp phân tích: Được thể hiện trong luận văn thông qua tập
trung phân tích những quy định cụ thể trong Công ước Viên 1980, Bộ luật
Dân sự, Luật thương mại về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
- Phương pháp so sánh: được áp dụng thông qua việc so sánh những
quy định của Công ước Viên 1980 với những quy định của pháp luật Việt
Nam về vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
- Phương pháp tổng hợp: Từ những kết quả có được thông qua việc
phân tích và so sánh những quy định của Công ước và một số hệ thống pháp
luật khác, tác giả đã rút ra những kết luận mang tính chất khái quát, tổng hợp
về thực trạng pháp luật Việt Nam và đưa ra những phương hướng hoàn thiện
hệ thống pháp luật quốc gia sao cho phù hợp hơn với thông lệ quốc tế.
Đặc biệt Luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh hai đối tượng so
sánh với đối tượng thứ ba. Đối tượng thứ ba này không phải là đối tượng

10

chính trong hoạt động so sánh, song có vai trò làm cho thấy rõ hơn đối tượng
nào trong các đối tượng so sánh chính gần gũi hơn so với các chuẩn mực
hiện hữu.

5. Bố cục của Luận văn
Luận văn này gồm có 3 chương, cụ thể là
Chƣơng 1: Khái quát chung về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế theo pháp luật Việt Nam và theo Công ước Viên năm 1980
Chƣơng 2: So sánh các nội dung cụ thể của Công ước Viên năm 1980
với pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Chƣơng 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế
















11
CHƢƠNG 1

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
HÓA QUỐC TẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ
THEO CÔNG ƢỚC VIÊN NĂM 1980

1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế.
1.1.1 Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hợp đồng ở bất kỳ hệ thống pháp luật nào đều được quan niệm là sự
thỏa thuận hay sự thống nhất ý chí làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt
quyền, nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ hợp đồng. Nói cách khác, các
bên bị ràng buộc với nhau trong một quan hệ pháp luật do có một sự giao kết
hợp đồng liên quan. Trong hoạt động ngoại thương, hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế còn có những sự diễn giải khác nhau như hợp đồng mua bán
hàng hóa với thương nhân nước ngoài, hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hóa,
hợp đồng mua bán ngoại thương. Nhưng tựu chung lại, dù gọi theo cách nào
thì các thuật ngữ này đều biểu hiện một đặc điểm chung- Đó là hợp đồng có
yếu tố nước ngoài, có nghĩa là làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt một
quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài. Khi nói tới hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế là nói tới quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, mà thuật ngữ
quan hệ dân sự ở đây được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả quan hệ dân sự,
thương mại, lao động và hôn nhân gia đình. Điều 758 của Bộ luật Dân sự
2005 định nghĩa: “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có
ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các
bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay
đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước

12
ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”. Nếu theo định
nghĩa này hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài hay yếu tố quốc

tế mà được gọi tắt là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bao gồm: hợp
đồng mà có một bên giao kết là người nước ngoài; hoặc hợp đồng được giao
kết theo pháp luật nước ngoài hoặc ở nước ngoài; hoặc hợp đồng mà có đối
tượng là tài sản ở nước ngoài.
Nhưng đối với Công ước Viên 1980 thì yếu tố quốc tế hay yếu tố
nước ngoài được qui định hẹp hơn. Nguồn gốc của hàng hóa không được
xem xét đến để xác định hợp đồng đó có phải là hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế hay không. Yếu tố nước ngoài hay yếu tố quốc tế xác định theo chủ
thể của hợp đồng. Điều 1, khoản 1 của Công ước Viên 1980 qui định:
“Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các
bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau:
a. Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên của Công ước
hoặc
b. Khi theo các qui tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật
của các nước thành viên Công ước này”.
Công ước Viên 1980 không dựa trên quốc tịch của người giao kết hợp
đồng để xác định yếu tố nước ngoài. Theo Luật Doanh nghiệp 2005 quốc
tịch của thương nhân được xác định theo nơi mà thương nhân đó thành lập,
đăng ký kinh doanh (Điều 4, khoản 20). Do có sự khác biệt giữa pháp luật
của các nước, có thể Công ước Viên 1980 không quan tâm tới vấn đề quốc
tịch của thương nhân. Điều 1, khoản 3 của Công ước này qui định: “Quốc
tịch của các bên, qui chế dân sự hoặc thương mại của họ, tính chất dân sự
hay thương mại của hợp đồng không được xét tới khi xác định phạm vi áp
dụng Công ước này”. Qui định này cũng đã cho thấy quan niệm về quan hệ
dân sự theo nghĩa rộng giống với quan niệm của Việt Nam về vấn đề này

13
như đã nói ở trên. Công ước Viên 1980 coi các thương nhân thuộc các nước
khác nhau căn cứ vào trụ sở của các thương nhân đó mà không căn cứ vào
nước mà thương nhân đó mang quốc tịch hoặc căn cứ vào nước mà thương

nhân đó thành lập hay đăng ký kinh doanh.
Ở Pháp khi xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế, người ta căn cứ vào hai tiêu chuẩn- đó là tiêu chuẩn kinh tế, và
tiêu chuẩn pháp lý. Theo các tiêu chuẩn kinh tế, một hợp đồng tạo nên sự di
chuyển qua lại biên giới các giá trị trao đổi tương ứng giữa hai nước, nói
cách khác hợp đồng đó thể hiện quyền lợi của thương mại quốc tế là hợp
đồng mua bán có yếu tố quốc tế. Đây là quyết định của Tổng kiểm soát
trưởng Matter [81]. Trong vụ án Pélissier du Besset, Ông đã tuyên bố “Điều
cần thiết là hợp đồng phải thể hiện được sự vận động hai chiều qua biên
giới của các dòng lợi ích”. Theo tiêu chuẩn pháp lý thì một hợp đồng được
coi là hợp đồng quốc tế nếu nó bị chi phối bởi các tiêu chuẩn pháp lý của
nhiều quốc gia như quốc tịch, nơi cư trú của các bên, nơi thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng, nguồn vốn thanh toán [82].
Ở nước ta, trước khi ban hành Luật Thương mại 1997, hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế được hiểu thông qua khái niệm “hợp đồng mua bán
ngoại thương” và được quy định “là những cam kết giữa một bên là tổ chức
xuất nhập khẩu Việt Nam với một bên là khách hàng nước ngoài nhằm thiết
lập, thay đổi, đình chỉ mối quan hệ nghĩa vụ và quyền lợi trong lĩnh vực mua
bán, trao đổi hàng hóa, mua bán phát minh sáng chế và bí quyết kỹ thuật,
cung ứng dịch vụ, gia công…” (Điều 1, Quyết định 127 BNgT/XNK ngày
18/3/1986 của Bộ Ngoại thương). Quy chế tạm thời của Bộ Thương nghiệp
số 4797/TN-XNK ngày 31/7/1991 hướng dẫn việc ký kết hợp đồng mua bán
ngoại thương đã định nghĩa tại Điều 1 như sau: “Hợp đồng mua bán hàng
hóa ngoại thương là hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất quốc tế.” Đồng

14
thời bản Quy chế cũng xác định: “Tính chất này (quốc tế) của hợp đồng mua
bán hàng hóa ngoại thương thể hiện ở những mặt sau:
a.Chủ thể của Hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương là các pháp
nhân có quốc tịch khác nhau.

b.Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng thông thường được di chuyển
từ nước này qua nước khác.
c.Đồng tiền thanh toán trong Hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại
thương là ngoại tệ đối với một hoặc cả hai bên ký kết hợp đồng”.[24]
Khi Luật thương mại 1997 được ban hành, khái niệm hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế cũng chưa được quy định rõ ràng. Điều 80 của Luật
chỉ đề cập đến “hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài”
với định nghĩa: “Hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài
là hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa một bên là thương nhân
Việt Nam với một bên là thương nhân nước ngoài” (Điều 80). Điều này chỉ
đề cập đến sự khác biệt giữa hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế với các
loại hợp đồng khác thông qua việc xác định quốc tịch của các chủ thể giao
kết hợp đồng.
Thuật ngữ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế lần đầu tiên xuất hiện
trong pháp luật Việt Nam tại Luật Thương mại năm 2005. Điều 27 của Luật
này xác định theo cách thức liệt kê như sau: “Hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập,
tái xuất, tái nhập và chuyển khẩu”. Tiếp theo điều luật này, Luật Thương
mại năm 2005 cũng đưa ra các khái niệm về hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu, tạm nhập, tái xuất, tái nhập và chuyển khẩu tại các điều từ Điều 28 đến
Điều 30. Với 5 khái niệm liên quan tới 5 dạng hoạt động nói trên, Luật
Thương mại năm 2005 cho rằng hàng hóa trong các hoạt động này mà có thể
được di chuyển qua biên giới của Việt Nam hoặc qua biên giới của một nước

15
(vùng lãnh thổ), hoặc di chuyển qua khu chế xuất, khu vực hải quan
riêng được xem là có yếu tố quốc tế. Để thi hành Luật này, Nghị định số
187/2013/NĐ- CP ngày 20/11/2013 qui định chi tiết thi hành Luật Thương
mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua,
bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài không đưa ra định nghĩa

về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nhưng có sự liệt kê các hoạt động mà
từ đó có thể suy luận ra yếu tố quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế theo quan niệm của Việt Nam. Khoản 1, Điều 1 của Nghị định này qui
định: “Nghị định này quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt
động mua bán hàng hóa quốc tế, bao gồm các hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập; chuyển khẩu; các hoạt động ủy
thác và nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu; đại lý mua, bán, gia công và quá
cảnh hàng hóa”. Qua sự liệt kê này có thể hiểu yếu tố quốc tế của loại hợp
đồng này là có sự di chuyển hàng hóa qua biên giới quốc gia.
Nhằm mục đích nghiên cứu so sánh giữa Công ước Viên 1980 với
pháp luật Việt Nam, từ các nghiên cứu trên, Luận văn không thể làm khác
hơn việc thống nhất một cách hiểu đơn giản rằng: hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế là hợp đồng được giao kết giữa các bên có trụ sở kinh doanh
chính tại các nước khác nhau.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chỉ khác với hợp đồng mua bán
hàng hóa thông thường ở yếu tố quốc tế. Do vậy nó mang đầy đủ các đặc
điểm của một hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường với đối tượng là
hàng hóa. Vấn đề này có lẽ không cần phải nói tới nếu như quan niệm về
hàng hóa theo pháp luật Việt Nam giống với quan niệm về hàng hóa theo
pháp luật của các nước. Điều đặc biệt là khái niệm hàng hóa theo pháp luật
thương mại Việt Nam hiện nay có sự khác biệt với quan niệm chung của
pháp luật quốc tế và pháp luật các nước khác trên thế giới.

16
Luật Thương mại 2005 tại Điều 3, khoản 2 định nghĩa hàng hóa bao
gồm: Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
những vật gắn liền với đất đai. Định nghĩa này rất khó giải thích bởi từ ngữ
ở đó cho thấy hàng hóa là bất kể loại tài sản nào (động sản, hoặc bất động
sản, hoặc hữu hình, hoặc vô hình), trong khi đó nhằm mục đích riêng của
luật thương mại cả thế giới quan niệm hàng hóa (mà tiếng Anh gọi là goods)

là động sản hữu hình. Với quan niệm chung về hàng hóa như vậy của thế
giới, có thể thấy: nếu đối tượng của hợp đồng là bất động sản thì hợp đống
đó không phải là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mặc dù bất động sản
được bán cho người nước ngoài. Hợp đồng mua bán bất động sản với người
nước ngoài thường bị điều chỉnh bởi một qui chế pháp lý riêng biệt với qui
chế dành cho mua bán hàng hóa (goods). Thực tế Công ước Viên năm 1980
đã xác định phạm vi áp dụng của Công ước dựa trên quan niệm đó và loại
trừ thêm một số tài sản khác ra khỏi nội hàm của khái niệm hàng hóa. Công
ước qui định tại Điều 2 như sau:
“Công ước này không áp dụng đối với mua bán:
(a) các hàng hóa dùng cho cá nhân, gia đình hoặc nội trợ, ngoại trừ
khi người bán, vào bất kỳ lúc nào trong thời gian trước hoặc vào thời điểm
ký kết hợp đồng, không biết hoặc không cần phải biết rằng hàng hóa đã
được mua để sử dụng như thế;
(b) đấu giá;
(c) trong việc thi hành hoặc để thực thi các việc khác bởi nhà chức
trách pháp luật;
(d) các cổ phiếu, cổ phần, chứng khoán đầu tư, các chứng từ lưu thông
hoặc tiền tệ;
(e) tầu, thuyền, tầu chạy nhờ đệm không khí hoặc tầu bay;
(f) điện năng”.

17

1.1.2. Khái niệm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là việc các bên bày tỏ ý
chí với nhau theo những nguyên tắc và trình tự nhất định để qua đó xác lập
với nhau các quyền, nghĩa vụ liên quan tới việc mua bán hàng hóa quốc tế.
Những nguyên tắc đó bao gồm :
-Nguyên tắc tự do ý chí (hay còn gọi là tự do hợp đồng) .

-Nguyên tắc áp dụng tập quán và thói quen thương mại.
-Nguyên tắc phù hợp với luật của nước được lựa chọn hoặc dẫn chiếu
tới.
Như vậy, ngoài việc tuân theo các nguyên tắc trên, để xác lập hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế, các thương nhân cần phải thể hiện bằng
hành vi để thể hiện ý chí của mình. Bởi hợp đồng là sự thống nhất ý chí hay
sự thỏa thuận, nên nó có hai thành tố cơ bản là :
- Đề nghị giao kết hợp đồng
- Chấp nhận giao kết hợp đồng.
Các thành tố này sẽ được làm rõ trong chương 2.
1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Khi nói tới hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung, về mặt pháp lý,
người ta nghĩ ngay tới các đặc điểm cơ bản của nó là loại hợp đồng song vụ
có đền bù. Bản thân mua bán là một hoạt động trao đổi các lợi ích nhằm đáp
ứng các nhu cầu vật chất hoặc tinh thần (hoặc cả hai) của các bên trong quan
hệ mua bán đó. Theo hợp đồng này bên bán có nghĩa vụ chuyển giao hàng
hóa và quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua để đổi lại việc bên mua phải trả
giá mua cho bên bán. Tuy nhiên so với hợp đồng mua bán hàng hóa thông
thường, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có một số điểm khác biệt sau:

18
Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng:
Trong mua bán hàng hóa thông thường, người ta có thể xem xét tới
chủ thể của hợp đồng bởi mua bán hàng hóa là một hành vi thương mại mà
nó có thể chỉ được tiến hành bởi thương nhân. Đối với hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế, như trên đã nói, người ta buộc phải biết tới sự khác biệt
sau về chủ thể- đó sự mua bán giữa các thương nhân có trụ sở thương mại ở
các nước khác nhau. Tư cách thương nhân hay năng lực chủ thể của hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế thường không được các điều ước quốc tế qui
định mà để cho luật quốc gia qui định. Do đó thương nhân (dù là thể nhân

hay pháp nhân) đều có thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Tuy
nhiên tư cách của họ phải được xác định phù hợp với pháp luật quốc gia nơi
họ mang quốc tịch hoặc thường trú.
Luật Thương mại 2005 quy định: “Thương nhân bao gồm tổ chức
kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách
độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh” (Điều 6, khoản 1). Thế
nhưng để được giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, thương nhân
phải đáp ứng được những điều kiện nhất định theo qui định của pháp luật.
Theo quy định của Điều 8 của Nghị định 57/1998 ngày 31/7/1998 được sửa
đổi bởi Nghị định 44/2001/NĐ-CP ngày 2/8/2001, thương nhân được phép
xuất khẩu tất cả các loại hàng hóa không phụ thuộc ngành nghề, ngành hàng
ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, trừ hàng hóa nằm trong danh
mục những hàng hóa cấm xuất khẩu; được nhập khẩu hàng hóa theo các
ngành nghế, ngành hàng được ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh trước khi tiến hành hoạt động xuất, nhập khấu, chủ thể kinh doanh
phải đăng ký mã số kinh doanh xuất, nhập khẩu tại Cục hải quan tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương. Tới nay Điều 2, Nghị định số 187/2013/NĐ- CP
ngày 20/11/2013 qui định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động

19
mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá
cảnh hàng hóa với nước ngoài xác định đối tượng áp dụng của Nghị định
này là “Thương nhân Việt Nam; các tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên
quan đến thương mại quy định tại Luật Thương mại”. Như vậy ngoài thương
nhân, các tổ chức và cá nhân khác có liên quan tới hoạt động thương mại
cũng có quyền giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Thế nhưng chủ
thể thông thường của các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là các thương
nhân.
Tuy nhiên trong một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cụ thể, các
bên thương nhân phải có quốc tịch khác nhau hoặc trụ sở thương mại đặt tại

các nước khác nhau. Đây là dấu hiệu rất quan trọng bởi chính dấu hiệu này
tạo nên yếu tố quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo cách
hiểu chung của thế giới được thống nhất bởi Công ước Viên 1980 như đã
phân tích ở trên. Thương nhân, theo pháp luật của các nước trên thế giới,
được xác định bởi hai dấu hiệu: (1) Thực hiện các hành vi thương mại một
cách thường xuyên và lấy chúng làm nghề nghiệp của mình; và (2) Tự thân
thực hiện các hành vi thương mại, tức là thực hiện các hành vi thương mại
dưới danh nghĩa và tài khoản của họ [1, tr. 72]. Tuy nhiên Luật Thương mại
2005 tại Điều 6, khoản 1 xác định thương nhân thể nhân hay cá nhân kinh
doanh có ba dấu hiệu bao gồm: (1) Hoạt động thương mại độc lập; (2) hoạt
động thương mại thường xuyên; và (3) có đăng ký kinh doanh. PGS.
TS.Ngô Huy Cương cho rằng đăng ký kinh doanh có thể được giải thích là
việc xác định nghề nghiệp chuyên thực hiện hành vi thương mại nào đó; vì
vậy về cơ bản các dấu hiệu xác định thương nhân theo pháp luật Việt Nam
không khác biệt so với các dấu hiệu xác định thương nhân theo pháp luật của
các nước khác [1, tr. 72]. Tuy nhiên việc xác định thương nhân thể nhân và
thương nhân pháp nhân ở Việt Nam chưa rõ ràng trong pháp luật Việt Nam.

20
Đồng thời pháp luật chưa tìm được các dấu hiệu chung của thương nhân thể
nhân và thương nhân pháp nhân, do đó qui định: “Thương nhân bao gồm tổ
chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một
cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh” (Luật Thương mại
2005, Điều 6, khoản 1).
Tìm hiểu luật thực định của các quốc gia và phân tích đời sống thương
mại thì có thể chia thương nhân thành hai loại: Thương gia thể nhân và
thương gia pháp nhân. Khi tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế, thương gia thể nhân có thể tham gia trực tiếp hoặc có thể uỷ quyền
cho người khác. Còn đối với thương gia pháp nhân thì hành vi đó được thực
hiện thông qua người đại diện. Người đại diện cho thương gia pháp nhân hay

các công ty thương mại do bản chất điều lệ công ty quyết định. Trong trường
hợp này Điều lệ được xem là một hình thức uỷ quyền của công ty (với tính
cách là một thực thể pháp luật) cho một thể nhân cụ thể. Người được ủy
quyền này có thể uỷ quyền lại cho người khác. Khi là người đại diện của
pháp nhân (công ty), hành vi của người đại diện này vì lợi ích của pháp nhân
và trong phạm vi quyền hạn được pháp nhân giao cho được xem là hành vi
của chính pháp nhân đó, có nghĩa là nó làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền và nghĩa vụ của pháp nhân đó với người thứ ba, chứ không phải làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của người đại diện với
người thứ ba. Ý chí của pháp nhân được thể hiện thống nhất thông qua
người đại diện. Để giải thích cho sự đại diện một số luật gia đã viện dẫn
nguyên tắc ý chí tự do làm căn bản, theo đó trong giao kết hợp đồng, sự đại
diện chỉ có hiệu lực khi hội đủ các điều kiện sau đây:
- Người đại diện phải có quyền đại diện: Người đại diện được thể hiện
thông qua những quy định trong bản điều lệ của pháp nhân hay thông qua
văn bản uỷ quyền hợp pháp;

21
- Người đại diện phải có ý chí đại diện: Người đại diện phải có ý chí
đại diện và phải phát biểu rõ ý chí đại diện đó thì sự đại diện mới phát sinh
hiệu lực đối với người hay công ty được đại diện;
- Người đại diện phải có ý chí giao kết hợp đồng: Người đại diện
không chỉ là người làm trung gian để truyền đạt ý chí của người được đại
diện. Sự thực chính họ phải giao kết hợp đồng, vì vậy ý chí của họ đóng một
vai trò rất quan trọng, thiếu ý chí đó hoặc ý chí đó bị khiếm khuyết thì sự đại
diện sẽ vô hiệu [2, tr. 293- 296].
Thứ hai, về đối tượng của hợp đồng
Như trên đã phân tích hàng hóa mà là đối tượng của hợp đồng mua
bán hàng hóa được thế giới quan niệm là động sản hữu hình. Do vậy Công
ước Viên 1980 đã thừa nhận quan niệm này và loại bỏ một số động sản hữu

hình ra khỏi phạm vi áp dụng của Công ước tại Điều 2. Tuy nhiên Luật
Thương mại 2005 xác định khái niệm hàng hóa ra ngoài cả phạm vi của
động sản hữu hình. Đây là sự khác biệt lớn giữa Công ước Viên 1980 với
Luật Thương mại 2005.
Để hiểu rõ hơn về khái niệm hàng hóa, cần xem xét một số định nghĩa
khái niệm hàng hóa theo pháp luật của một số nước.
Đạo luật mua bán của Anh định nghĩa: “Hàng hóa bao gồm tất cả
những động sản khác hơn các quyền vô hình (things in action or chose in
action) và tiền”. Giải thích về hàng hóa của Australia và New Zealand:
“Hàng hóa là động sản hữu hình, không là tài sản vô hình và tiền, bao gồm
cả mùa màng, hoa lợi và những vật gắn liền với đất hoặc tạo thành một phần
của đất mà được thỏa thuận tách rời khỏi đất trước khi bán hoặc trong hợp
đồng bán”. Bộ luật Thương mại nhất thể của Hoa Kỳ định nghĩa: “Hàng hóa
có nghĩa là tất cả những vật (bao gồm cả những vật (bao gồm cả những hàng
hóa được sản xuất đặc biệt) mà là động sản tại thời điểm tham gia hợp đồng

22
mua bán, khác hơn tiền mà là động sản tại thời điểm tham gia hợp đồng mua
bán, khác hơn tiền mà giá cả phải được trả, chứng khoán đầu tư và những
quyền vô hình khác. Hàng hóa cũng bao gồm súc vật chưa ra đời, cây trồng
và những vật được nhận biết khác gắn liền với bất động sản như được mô tả
trong phần nói về hàng hóa được tách rời từ bất động sản” [3].
Hàng hóa theo Công ước Viên 1980 phải tồn tại thực tế và có thể xác
định được khả năng dịch chuyển từ nước này sang nước khác hoặc từ khu
chế xuất vào thị trường nội địa. Hàng hóa ở đây cũng phải được quan niệm
là các động sản hữu hình có khả năng lưu thông theo pháp luật của nước
người mua hoặc nước người bán. Đây là điều kiện quan trọng cho sự chuyển
dịch hàng hóa qua biên giới quốc gia.
Theo pháp luật của nhiều nước trên thế giới thì hàng hóa là những
động sản hữu hình, nhất thiết phải tồn tại và có thể xác định được trước khi

bất kỳ một lợi ích nào trong chúng có thể được chuyển giao.
Một đặc điểm về đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là
đối tượng trong hợp đồng thông thường được dịch chuyển từ quốc gia này
sang quốc gia khác hoặc từ khu chế xuất vào thị trường nội địa. Pháp luật
các quốc gia đều có những quy định về điều kiện đối với hàng hóa xuất nhập
khẩu như: điều kiện về loại hàng hóa được phép, hạn chế hoặc cấm xuất
nhập khẩu; điều kiện về hải quan; thuế; đảm bảo lợi ích công cộng, thuần
phong mỹ tục Do đó, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế còn phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật từng
quốc gia có các bên ký kết hợp đồng.
Vì vậy, các chủ thể khi tham gia vào quan hệ mua bán hàng hóa quốc
tế cần phải tìm hiểu xem hàng hòa định mua hoặc bán có phải là hàng hóa
được phép kinh doanh không tại nước của đối tác. Cụ thể, hàng hóa đó có
phải là hàng hóa bị cấm hay hàng hóa kinh doanh có điều kiện không. Căn

23
cứ để xác định loại hàng hóa bị cấm mua bán hoặc mua bán có điều kiện
theo luật của quốc gia xuất hoặc nhập hàng hóa đó. Việc cấm hay hạn chế
một số loại hàng hóa nhất định xuất phát từ chính sách riêng của từng quốc
gia, đôi khi cũng xuất phát từ chinh sách chung của nhiều nước mà thường
được thể hiện qua các điều ước quốc tế.
Tóm lại, hàng hóa cần phải đảm bảo được các yếu tố như trên thì mới
có thể được coi là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Thứ ba, về đồng tiền thanh toán
Tiền tệ dùng để thanh toán có thể là ngoại tệ đối với một hoặc các
bên. Ví dụ: trong hợp đồng giữa người bán Việt Nam và người mua Hoa Kỳ,
các bên thỏa thuận thanh toán bằng Đô la Mỹ, thì Đô la Mỹ là ngoại tệ đối
với bên Việt Nam; trong trường hợp mua bán giữa bên Việt Nam và bên
Pháp, nếu các bên thỏa thuận thanh toán bằng Đô la Mỹ, thì Đô la Mỹ là
ngoại tệ đối với cả hai bên. Đặc biệt, cũng có trường hợp đồng tiền thanh

toán không phải là ngoại tệ đối với cả hai bên như trường hợp các công ty ở
hai nước khác nhau trong cộng đồng Châu Âu thỏa thuận sử dụng đồng Euro
là đồng tiền thanh toán.
Thứ tư, về ngôn ngữ của hợp đồng
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thường được ký kết bằng tiếng
nước ngoài đối với một hoặc các bên. Ví dụ trường hợp bên Việt Nam ký kết
hợp đồng với bên Anh Quốc bản hợp đồng bằng tiếng Anh hoặc trong
trường bên Việt Nam ký kết với bên Ucraina bản hợp đồng bằng tiếng Anh.
Việc lựa chọn ngôn ngữ của hợp đồng tùy thuộc vào các bên. Tuy nhiên
trong thực tiễn người ta có khuynh hướng lựa chọn ngôn ngữ phổ biến, quen
dùng hoặc thông thạo.
Thứ năm, về tổ chức giải quyết tranh chấp

24
Tranh chấp phát sinh từ việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế có thể được giải quyết bởi các hình thức như: tòa án, trọng
tài, hòa giải hoặc thương lượng. Tuy nhiên các bên cũng có thể lựa chọn
hình thức giải quyết tranh chấp khác như tòa án mini, thẩm phán tư hoặc bỗi
thẩm đoàn giản lược… tùy thuộc vào sự cho phép của pháp luật [4].
Thứ sáu, về luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng
Luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là luật
quốc gia mà các bên thỏa thuận lựa chọn trong hợp đồng hoặc là luật của
quốc gia mà các qui tắc tư pháp quốc tế của nơi giải quyết tranh chấp dẫn
chiếu đến. Phần bảy của Bộ luật Dân sự 2005 qui định:
+ Quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được xác định theo
pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu không có thoả thuận khác;
+ Hợp đồng được giao kết tại Việt Nam và thực hiện hoàn toàn tại
Việt Nam thì phải tuân theo pháp luật Việt Nam;
+ Nếu hợp đồng không ghi nơi thực hiện thì việc xác định nơi thực
hiện hợp đồng phải tuân theo pháp luật Việt Nam;

+ Hợp đồng liên quan đến bất động sản ở Việt Nam phải tuân theo
pháp luật Việt Nam;
+ Hình thức của hợp đồng phải tuân theo pháp luật của nước nơi giao
kết hợp đồng;
+ Nếu hợp đồng được giao kết ở nước ngoài mà vi phạm quy định về
hình thức hợp đồng theo pháp luật của nước đó, nhưng không trái với quy
định về hình thức hợp đồng theo pháp luật Việt Nam thì hình thức hợp đồng
được giao kết ở nước ngoài đó vẫn được công nhận tại Việt Nam;
+ Hình thức hợp đồng liên quan đến việc xây dựng hoặc chuyển giao
quyền sở hữu công trình, nhà cửa và các bất động sản khác trên lãnh thổ Việt
Nam phải tuân theo pháp luật Việt Nam (Điều 769 và Điều 770).

25
Các qui định này cho phép các bên thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng,
và nếu không có sự lựa chọn đó thì khi tòa án Việt Nam giải quyết tranh
chấp theo các qui phạm xung đột này xác định luật áp dụng. Có lẽ đây là vấn
đề phức tạp nhất của pháp luật liên quan tới các quan hệ quốc tế và nó phần
nào giải đáp cho việc xây dựng các điều ước quốc tế trong lĩnh vực luật tư
và ngay cả Công ước Viên 1980. Các điều ước này hướng tới sự thống nhất
các qui tắc pháp luật trong phạm vi khu vực và quốc tế.

1.3. Những nguyên tắc của luật hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được tạo lập do sự thỏa thuận
của các bên. Do đó luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng này cũng có các
nguyên tắc của luật hợp đồng nói chung- đó là: nguyên tắc tự do ý chí;
nguyên tắc áp dụng tập quán và thói quen thương mại. Ngoài ra luật hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế còn có nguyên tắc riêng là nguyên tắc phù
hợp với luật của nước được lựa chọn hoặc dẫn chiếu tới.

1.3.1. Nguyên tắc tự do ý chí

Nguyên tắc tự do ý chí (hay còn gọi là tự do hợp đồng) được thể hiện
đặc biệt rõ nét và ở mức độ cao hơn trong giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế so với giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước. Các luật
gia và những người thương lượng hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, với
khả năng sáng tạo đặc biệt của mình đã tạo ra những khuôn khổ pháp lý phù
hợp cho hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế. Trong hợp đồng mua bán
hàng hóa trong nước, nguyên tắc tự do ý chí chỉ thể hiện ở việc các bên được
tự do trong việc thỏa thuận các điều kiện liên quan đến các điều kiện của
hợp đồng như: điều kiện về quyền và nghĩa vụ của các bên; các điều kiện về

×