Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Bệnh truyền nhiễm gia súc- mở đầu 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.24 KB, 7 trang )


MỞ ĐẦU
Truyền nhiễm học thú y là môn học nghiên cứu các quy luật hình thành, tiến triển
và ngừng tắt của các bệnh truyền nhiễm ở động vật ở cấp độ cá thể (bệnh cảm nhiễm)
cũng như cấp độ đàn hay tập đoàn (dịch). Những quy luật của bệnh cụ thể được nghiên
cứu trong học phần "Bệnh truyền nhiễm thú y chuyên khoa", là phần tiếp tục của học
phần này. Học phần "Bệnh truyền nhiễm thú y đại cương" này nghiên cứu 1) những thuộc
tính chung nhất của các yếu tố hình thành bệnh cảm nhiễm ở động vật, diễn biến, hình
thức và hệ quả của bệnh cảm nhiễm cũng như nghiên cứu sự phổ biến của bệnh trong tập
đoàn (thường gọi là dịch tễ học bệnh truyền nhiễm, hay dịch học bệnh truyền nhiễm) và
2) những nguyên tắc và kỹ thuật phổ quát áp dụng chẩn đoán và phòng chống bệnh
truyền nhiễm. Những nhiệm vụ của môn học bệnh truyền nhiễm là nghiên cứu những quy
luật thuộc về đặc tính bệnh, đặc tính mầm bệnh, quan hệ giữa mầm bệnh và cơ thể động
vật trong điều kiện thống nhất với ngoại cảnh, các hiện tượng bệnh lý, điều kiện phát sinh
và lây lan bệnh, sự phát sinh, tiến triển và ngừng tắt của dịch khi không có và có sự can
thiệp của con người,... và từ nhận thức về những quy luật đó, đề ra các biện pháp cụ thể,
có cơ sở khoa học chắc chắn, nhằm mục đích cuối cùng là phòng và chống, tiến tới thanh
toán các bệnh truyền nhiễm, góp phần tích cực bảo vệ sức khỏe đàn gia súc, gia cầm và
động vật khác, thông qua đó gián tiếp hoặc trực tiếp bảo vệ sức khỏe của con người.
I. Sơ lược lịch sử phát triển các học thuyết về bệnh truyền nhiễm
Từ thời thượng cổ, con người đã đặc biệt chú ý đến nhiều bệnh truyền nhiễm giết
hại hàng loạt gia súc và người. Người ta cho rằng nguyên nhân của bệnh dịch là sự trừng
phạt của thần linh, nhưng thần y Hyppocrat (Hyppocrates, 459 - 377 tr. CN) đã tỏ ra nghi
ngờ khi thấy rằng bệnh dịch lan tràn nhiều quốc gia và tấn công con người không phân
biệt giai cấp và đã đề ra thuyết khí độc (miasma) để giải thích nguyên nhân của bệnh.
Ông giải thích dịch bệnh phát sinh nhiều sau các hiện tượng tự nhiên của vũ trụ như xuất
hiện sao chổi, động đất, lũ lụt,... là do không khí bị ô nhiễm và không còn tốt đối với sức
khỏe. Thuyết này được người ta tin trong suốt thời gian kéo dài của lịch sử loài người,
đặc biệt đến thời cận đại người ta vẫn còn tin nguyên nhân gây bệnh sốt rét là khí độc,
chính vì vậy trong ngôn ngữ Châu Âu bệnh sốt rét được gọi là maleria (xuất phát từ
"mal-" và "aer"). Cho rằng sự lan truyền của bệnh là do khí độc của bệnh, Hyppocrates


tin vào thuyết dân gian rằng những người chăm sóc người bệnh lao phổi cũng thường
mắc bệnh lao phổi, rằng trong không khí hít vào có những phần tử nhỏ bé. Đồng thời,
nghĩ rằng nguyên nhân xảy ra lưu hành bệnh dịch hạch cũng tương tự nên người ta đã đốt
khói, chưng hương thơm thực vật và đã đạt được mục tiêu phòng dịch nhất định. Aristot
(Aristoteles, 384 - 322 tr. CN) đã mô tả những nghi vấn về hiện tượng bệnh tật lan truyền
từ người này sang người khác. Sau Aristoteles, đại y nhân của thời cổ đại Galen
(Galenos, 131 - 201) cũng đã nhận thấy dịch hạch, bệnh ghẻ, viêm mắt, bệnh dại, bệnh
phổi,... có tính truyền nhiễm.
Các sách thú y của thời thượng cổ Ai Cập, của cổ Hy Lạp (khoảng 1200 năm tr.
CN) đã nói đến bệnh gia súc. Aristoteles cũng đã mô tả bệnh dại, uốn ván, tỵ thư, qua
nhiều vụ giết hại nhiều người và gia súc. Tuy thời ấy con người đã dùng những quan
điểm thần thoại giải thích nguyên nhân bệnh, nhưng trước tai họa khủng khiếp của dịch
gây ra, con người đã biết dùng những biện pháp phòng bệnh. Ngay từ thời thượng cổ
người Trung Quốc đã biết lấy vảy đậu mùa đem sấy khô trên bếp, rồi nghiền nhỏ bỏ vào
mũi người để phòng bệnh đậu mùa. Thổ dân châu Phi lấy thanh kiếm nhọn chọc vào phổi
bò mắc bệnh viêm phổi để cho dịch phổi ngấm ướt đầu mũi kiếm rồi đem rạch vào da
chân bò khỏe để phòng bệnh trên cho bò.
Cũng qua thực tiễn, con người đã nhận biết hiện tượng bệnh lây từ con vật bệnh
sang con vật khỏe. Điều đó khiến con người nghĩ đến yếu tố nguyên nhân nào đó có khả
năng nảy nở và lây lan trực tiếp từ con bệnh sang con khỏe, hoặc thông qua đối tượng
trung gian, và đã giải thích nguyên nhân bệnh theo nhiều cách. Tuy vậy, quan niệm thần
bí, thần quyền giải thích nguyên nhân bệnh, dưới ách thống trị của vua chúa phong kiến
trung cổ, đã tồn tại và kìm hãm những quan điểm tiến bộ.
Từ thế kỷ XV, cùng với nền khoa học kỹ thuật bắt đầu được phát triển và phục vụ
cho nền sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa, một thế giới quan duy vật tiến bộ hơn trước đã
được hình thành. Nhận thức của con người về nguyên nhân bệnh đã đúng hơn trước.
Trong thế kỷ XIV - XV, ở khắp đại lục châu Âu phát sinh bệnh đậu mùa, dịch phát ban
và dịch hạch đại lưu hành, sang thế kỷ thứ XVI, sau việc Côlômbô (Columbus, 1451 -
1506) phát hiện ra châu Mỹ (1492) và sự xâm nhập của người châu Âu, bệnh giang mai
cũng xuất hiện ở châu lục mới này. Do đó, thuyết truyền nhiễm của bệnh tật đã từ từ hình

thành. Trong trào lưu quan niệm chung đó, Frascatoro (1483 - 1553, người Verona, thuộc
Italia ngày nay) đã phát biểu thuyết truyền nhiễm (de contagione, 1545). Ông cho rằng
nguyên nhân của bệnh truyền nhiễm là một "chất truyền nhiễm sống" (contagium vivum,
contagium animatum). Ông cũng đã phân loại bệnh tật do sinh vật có tính truyền nhiễm
gây ra thành ba loại sau: 1) truyền nhiễm do tiếp xúc (contagio per contactum), 2) truyền
nhiễm do vật môi giới (contagio per formitem) và 3) truyền nhiễm qua không gian
(contagio ad distans). Đó là một cách giải thích theo quan điểm duy vật tiến bộ. Tuy vậy,
mặc dù thuyết truyền nhiễm của Frascatoro không khác nhiều với quan niệm hiện nay
nhưng vào thời đó do chưa phân lập được mầm bệnh nên không phủ định được thuyết khí
độc. Cho đến thế kỷ XIX người ta vẫn còn nghĩ rằng từ người bệnh phát ra chất truyền
nhiễm (contagium), còn từ vật chết phát sinh khí độc (miasma) và đều là nguyên nhân
của bệnh dịch.
Từ cuối thế kỷ thứ XVII, con người đã đạt thêm nhiều tiến bộ lớn. Năm 1676,
Liuoenhoc (Leeuwenhoek, 1632 - 1723) phát minh ra kính hiển vi đơn giản đầu tiên mở
đầu giai đoạn phát hiện vi sinh vật, một bước ngoặt quan trọng tạo nền móng dẫn đến
việc hình thành một lĩnh vực khoa học mới, vi sinh vật học, là môn có liên quan chặt chẽ
với truyền nhiễm học. Ông đã mô tả những vi sinh vật ông quan sát được trong các chất
dịch mà ông có thể có và đã cho nhân loại có thêm những chứng cứ mới về những yếu tố
gây bệnh mà mắt thường không nhìn thấy. Những khám phá của ông được phát biểu ở
Hội Hoàng gia London (London Royal Society 14/IX, 1683). Những sinh vật ông quan
sát và mô tả được có thể bao gồm các động vật nguyên sinh. Với kính hiển vi tự lắp ráp
có độ phóng đại khoảng 40 - 270 lần, ông đã làm cho nhiều người biết đến vi sinh vật,
tuy vậy, những phát hiện của ông không được sự thừa nhận rộng rãi của giới khoa học.
Khoảng 100 năm sau, khi kính hiển vi được tái phát minh và cải thiện (Chevalier, 1770 -
1840; Abbe, 1840 -1905) việc quan sát vi sinh vật cũng tương tự nhưng đã trở nên dễ
dàng hơn. Những đóng góp của Erenberg (1838, gọi vi sinh vật quan sát được là
Infusiontierchen), Nageli (1857, gọi vi sinh vật quan sát được là Schizomyceten), Cohn
(1872, phân biệt vi khuẩn khỏi thực vật) đã làm cho loài người càng hiểu rõ hơn về các vi
sinh vật.
Đến giữa thế kỷ XIX, nguyên nhân bệnh truyền nhiễm đã được nhiều nhà vi sinh

vật học khác xác định. Paxtơ (Pasteur, 1822 - 1895) đã mở đầu một giai đoạn lớn trong
lịch sử phát triển vi sinh vật học. Ông đã xác định bản chất vi khuẩn trong quá trình thối
rữa và sự lên men, xác định bản chất sống của vi khuẩn gây nên một số bệnh truyền
nhiễm, đánh đổ thuyết "ngẫu sinh" ảnh hưởng rất mạnh đương thời. Ông đã dày công
nghiên cứu các vi sinh vật gây bệnh, đề ra thuyết mầm bệnh từ đó đề ra biện pháp cách ly
trong phòng bệnh tằm gai, biện pháp thanh trùng dịch chiết quả nho trước khi lên men
rượu vang bằng giống nấm men thuần chủng,... và dựa trên những ứng dụng phòng bệnh
đậu mùa bằng đậu bò mà Jenner (1749 - 1823) áp dụng vào cuối thế kỷ XVIII (1798),
ông đã chế được vacxin phòng một số bệnh. Thí nghiệm của Pasteur về đáp ứng miễn
dịch nhân tạo phòng bệnh nhiệt thán ở cừu (1881) bằng chủng vi khuẩn do ông gây
nhược độc một mặt chỉ rằng con người có thể chủ động chế được chủng mầm bệnh nhược
độc để tạo miễn dịch và mặt khác chứng minh thuyết mầm bệnh của mình. Với những
con vật không được tiêm vacxin chết do công cường độc trong thí nghiệm đó, quan niệm
vi sinh vật là nguyên nhân dịch bệnh truyền nhiễm được củng cố. Đồng thời, trên cơ sở
thực nghiệm tiêm phòng bệnh, quan niệm về miễn dịch dịch thể (humoral immunity) đã
được hình thành, Ehrlich (1854 - 1915) là người đầu tiên phát triển thành học thuyết miễn
dịch dịch thể cho rằng trong dịch thể động vật đã bị mầm bệnh hay thành phần của mầm
bệnh xâm nhập xuất hiện yếu tố trung hòa mầm bệnh (sau đó được gọi là kháng thể miễn
dịch). Pasteur cũng là người đã chế được vacxin dại đầu tiên và đó là phát kiến vĩ đại của
thời đại.
Nhiều nhà bác học khác trên thế giới đã góp phần to lớn cho sự phát triển của vi
sinh vật học và truyền nhiễm học. Cốc (Koch, 1843 - 1910) phân lập vi khuẩn nhiệt thán
(1876), vi khuẩn lao (1882) và vi khuẩn thổ tả ở người (1883) đã góp phần củng cố và
phát triển thuyết mầm bệnh. Đóng góp quan trọng của Koch còn ở chỗ ông đã tìm ra môi
trường đặc nuôi cấy vi khuẩn (môi trường gelatin, 1876) và thuốc nhuộm vi khuẩn làm
cho việc cấy phân lập vi khuẩn thuần khiết cũng như quan sát vi khuẩn trở nên dễ dàng
hơn. Trên cơ sở phát biểu của Henle (1840) về mối quan hệ giữa bệnh truyền nhiễm và vi
sinh vật, Koch đã phát triển bốn nguyên tắc xác định mối quan hệ này mà về sau gọi là
"Định đề Koch". Những nguyên tắc này đã giúp cho những nghiên cứu mối quan hệ nhân
- quả giữa vi sinh vật và bệnh truyền nhiễm được tăng tiến nhanh chóng.

Đóng góp vào sự phát triển của việc phát hiện mầm bệnh còn có những phát kiến
về áp dụng thuốc nhuộm anilin trong nghiên cứu vi sinh vật của Weigert (1876),
Solomonsen (1876) và Ehrlich (1878) cũng như phát kiến của Hesse (1881) trên cơ sở
gợi ý của vợ về việc chế môi trường đặc chứa thạch (agar),...
Sau những phát kiến về miễn dịch học của Pasteur, Koch và Ehrlich nêu trên,
Behring và Kitasato (1891) đã phát hiện ra kháng độc tố, góp thêm cơ sở vững chắc cho
sự phát triển của môn miễn dịch học. Metnhicôp (Metchnikov, 1845 - 1916) đã đề ra học
thuyết miễn dịch thực bào và đề xướng vấn đề biến dị có định hướng vi sinh vật.
Ivanôpxki (Ivanovsky, 1864 - 1920) là người phát hiện virut đầu tiên, virut bệnh
đốm thuốc lá, vào năm 1882. Ít năm sau (1898) thí nghiệm chứng minh virut này được
Bejerink lặp lại. Sau đó bản chất virut của các bệnh khác như bệnh lở mồm long móng
(Loefler và Frosch, 1898), dịch tả trâu bò,... được lần lượt phát hiện.
Như vậy, từ cuối thế kỷ XIX cùng với sự phát triển cao của chủ nghĩa tư bản, do
sự giao lưu vận chuyển rộng rãi khắp thế giới, bệnh dịch động vật có điều kiện lây lan
mạnh mẽ. Khoa học về vi sinh vật và bệnh truyền nhiễm đã có cơ hội phát triển đáp ứng
nhu cầu giải quyết những vấn đề mới của thực tiễn và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Vấn đề cơ bản của vi sinh vật học trong thời kỳ này là nghiên cứu quá trình truyền nhiễm
và tìm các biện pháp ngăn ngừa bệnh xảy ra. Từ giai đoạn sơ khai của vi khuẩn học với
trung tâm là những nghiên cứu của Pasteur và Koch, bước sang thế kỷ XX nhân loại đã
đạt được những bước tiến mạnh mẽ trong nghiên cứu miễn dịch học và hóa trị liệu học.
Từ phát kiến về salvarsan của Ehrlich (1910) đến phát kiến của Domagk (1935) về
sulfamid (sulfonamide), việc phát hiện penicillin bởi Fleming (1929) và tái phát hiện chất
kháng sinh này vào 1941 cũng như phát hiện streptomycin (1941) và hàng loạt chất
kháng sinh khác đã tạo bước tiến mới của sự phát triển vi sinh vật học ứng dụng và điều
trị bệnh truyền nhiễm.
Hiện nay, những thành tựu to lớn trong lĩnh vực khoa học tự nhiên về toán, lý,
hóa, sinh vật học, di truyền học, sinh hóa học và sinh học phân tử đã giúp cho môn vi
sinh vật phát triển, ngày càng giải quyết được nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn sản
xuất. Những hiểu biết về miễn dịch học, hóa sinh học và di truyền học,... ngày càng được
sâu sắc. Nhiều biện pháp chẩn đoán bệnh truyền nhiễm mạnh hơn và chính xác hơn trên

cơ sở phân tích kiểu hình cũng như kiểu gen, nhiều loại vacxin phòng bệnh, nhiều loại
thuốc chữa bệnh đã được dùng rộng rãi để phòng và chữa bệnh động vật.
II. Quan hệ môn học Bệnh truyền nhiễm với các môn học khác
Môn học bệnh truyền nhiễm có quan hệ với nhiều môn học khác, trước hết là môn
vi sinh vật. Môn học này nghiên cứu các vi sinh vật gây bệnh về đặc tính sinh vật của
chúng, quan hệ giữa chúng và cơ thể động vật trong quá trình sinh bệnh. Môn vi sinh vật
thú y giúp cho môn bệnh truyền nhiễm các kiến thức đề giải thích cơ chế sinh bệnh,
phương thức lây lan và các phương pháp chẩn đoán để có biện pháp phòng và chống
bệnh thích hợp. Ngoài môn vi sinh vật, còn có môn sinh lý bệnh giúp giải thích các quá
trình bệnh lý, môn giải phẫu bệnh nghiên cứu các biến đổi về tổ chức trong con vật bệnh,
môn chẩn đoán và môn điều trị nghiên cứu các biện pháp chẩn đoán và điều trị, môn vệ
sinh gia súc các kiến thức về vệ sinh, nuôi dưỡng chăm sóc và sử dụng gia súc,... đều liên
quan tới các yếu tố sinh bệnh.
Vì vậy, khi nghiên cứu môn bệnh truyền nhiễm, cần phải luôn luôn liên hệ với
nhiều môn học khác để vận dụng các kiến thức thuộc các môn học đó giải thích bệnh
truyền nhiễm.
III. Các phương pháp nghiên cứu của môn học
Truyền nhiễm học có phương pháp nghiên cứu riêng, trong đó phương pháp dịch
tễ học (bao gồm phương pháp điều tra dịch tễ, dịch tễ học phân tích, lập bản đồ dịch
tễ,...) và phương pháp thí nghiệm truyền nhiễm học là những phương pháp nghiên cứu
chính.
Bằng phương pháp điều tra dịch tễ (dịch tễ học mô tả) có thể tìm hiểu, tích lũy tư
liệu và phân loại các tư liệu về các triệu chứng lâm sàng, bệnh tích đặc biệt, số lượng và
tỷ lệ động vật bệnh và động vật chết, tính chất lây lan của bệnh, các đặc điểm bệnh lý,...
Trên cơ sở những mô tả bệnh dịch và mầm bệnh đang lưu hành và so sánh với những tư
liệu thu thập được (đã mô tả, đặt tên và phân loại trước), nhờ phép quy thuộc cái đang có
vào một nhóm trong số các nhóm đã được phân loại, người ta có thể xác định (chẩn
đoán) hoặc đưa ra được giả thuyết về nguyên nhân bệnh dịch đang lưu hành và từ đó đề
ra những biện pháp phòng chống thích hợp. Còn phương pháp dịch tễ học phân tích có
thể giúp ta xác định mối liên quan giữa bệnh và nguyên nhân giả thuyết để xác nhận

nguyên nhân của dịch bệnh.
Phương pháp thí nghiệm là biện pháp mô phỏng lại bệnh trong tự nhiên bằng cách
truyền mầm bệnh nghi ngờ cho động vật thích hợp và quan sát sự phát triển của bệnh
dịch một cách có ý thức và có kế hoạch, bên cạnh đó, hoặc thí nghiệm các biện pháp
phòng chống trong điều kiện tự nhiên hoặc điều kiện gây bệnh thí nghiệm để rút ra những
biện pháp phòng chống hữu hiệu. Phương pháp này nhằm giải quyết những vấn đề mà
trong thực tiễn khó xác định (như thời gian nung bệnh, phương thức lây lan,... của bệnh)
hoặc cần xác minh tác dụng của một biện pháp hay chế phẩm thú y trước khi đưa ra dùng
trong sản xuất (như hiệu lực của một vacxin, kháng sinh,...).
Quan hệ giữa hai phương pháp trên rất mật thiết. Nhưng trong thực tiễn và trong
điều kiện công tác ở địa phương, phương pháp điều tra đóng vai trò quan trọng hơn, vì
phương pháp này thực hiện thu thập tư liệu làm cơ sở cho việc chẩn đoán, tạo điều kiện
cho các nghiên cứu thí nghiệm đi đúng hướng. Ngược lại, phương pháp thí nghiệm cung
cấp những thông tin có độ nhạy cao hơn giúp việc nghiên cứu dịch tễ học có tính khách
quan và chính xác hơn.
Ngoài các phương pháp trên, thuộc nhóm nghiên cứu dịch tễ học còn có phương
pháp thống kê dịch tễ học và phương pháp xây dựng bản đồ dịch tễ, là những phương
pháp nhằm tìm ra quy luật phát sinh, phát triển và ngừng tắt của dịch, cũng như xác định
thời gian (mùa vụ) có dịch, vùng có dịch và chu kỳ dịch để có biện pháp phòng dịch hiệu
quả nhất.
IV. Tổn thất do bệnh truyền nhiễm gây ra
Bệnh truyền nhiễm động vật đã gây ra những thiệt hại to lớn làm ảnh hưởng đến
nền kinh tế quốc dân và ảnh hưởng đến đời sống con người.
Vào thế kỷ XVIII, ở Châu Âu trong vòng một năm, bệnh dịch tả trâu bò đã giết
chết hơn 2 triệu trâu bò. Chỉ tính riêng ở Pháp trong vòng 30 năm (1715 - 1746), 11 triệu
trâu bò bị chết vì bệnh này. Những vụ dịch sốt lở mồm long móng lan tràn khắp từ Đông
sang Tây châu Âu. Riêng năm 1929, ở Ấn Độ đã có tới 10619 ổ dịch sốt lở mồm long
móng. Vào cuối thế kỷ XIX ở Nam Mỹ, có hơn 9 triệu trâu bò chết vì bệnh dịch tả trâu
bò. Ở nước Mỹ, hàng năm số lợn chết về dịch tả lợn chiếm 90% tổng số lợn chết bệnh,
riêng năm 1913 chết tới 6 triệu con. Ở Liên Xô (cũ) trước Cách mạng tháng 10, có 14 vạn

súc vật mắc bệnh nhiệt thán chỉ riêng năm 1889. Dưới thời Pháp thuộc, ở cả Đông
Dương, hàng năm bệnh dịch tả trâu bò giết hại khoảng 14 vạn trâu bò, tức là 5% tổng số
đàn trâu bò lúc đó. Ở nước ta, có những ổ dịch giết hại hàng vạn trâu bò, dịch kéo dài
hàng năm lan ra nhiều tỉnh.
Gần đây, bệnh lợn điên (bệnh Nipah) đã gây chết hàng triệu lợn và ít nhất 110
người ở Malaysia, bệnh cúm gia cầm lan tràn và tàn phá hầu như khắp nơi trên thế giới,

×