Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

PHƯ¬ƠNG HƯ¬ỚNG HOÀN THIỆN HẠCH TOÁN TIÊU THỤ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ SẢN PHẨM GẠCH ỐP LÁT GRANIT TẠI CÔNG TY THẠCH BÀN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.8 KB, 18 trang )

PHƠNG HỚNG HOÀN THIỆN HẠCH TOÁN TIÊU THỤ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT
QUẢ TIÊU THỤ SẢN PHẨM GẠCH ỐP LÁT GRANIT TẠI CÔNG TY THẠCH BÀN.
I. ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC TIÊU THỤ VÀ HẠCH TOÁN TIÊU
THỤ, XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ TẠI CÔNG TY THẠCH
BÀN.
1. u điểm.
Công ty Thạch Bàn là một doanh nghiệp nhà nước có lịch sử hình thành và
phát triển hơn 40 năm. Trải qua những giai đoạn thăng trầm trong quá trình phát
triển, hiện nay công ty Thạch Bàn đã tìm cho mình được chỗ đứng vững chắc trong
nền kinh tế thị trường. Không những thành công trong việc đưa sản phẩm của mình
đến với người tiêu dùng trong nước, công ty còn thành công trong việc đưa sản
phẩm gạch ốp lát granite mang nhãn hiệu Việt Nam đến với thị trường quốc tế. Có
được thành công đó là nhờ một bộ máy quản lý năng động, sáng tạo và đầy năng
lực. Đóng góp vào đó một phần không nhỏ là phòng tài chính kế toán của công ty.
Trong doanh nghiệp sản xuất, tiêu thụ là khâu quan trọng giúp cho các
doanh nghiệp thu hồi lại được vốn kinh doanh. Chính vì vậy, tổ chức công tác kế
toán chặt chẽ mà lại tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hoá là một nhiệm
vụ vô cùng quan trọng. Để cân đối giữa nhiệm vụ và công việc, phòng tài chính kế
toán trong công ty Thạch Bàn đã có sự bố trí xắp xếp khá hợp lý giữa việc tổ chức
tiêu thụ, hạch toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ.
Về các chính sách đối với khách hàng, công ty đã đưa ra các quy chế
thưởng như: thưởng bán hàng, chiết khấu trả sau... để khuyến khích khách hàng
thanh toán đúng hạn và khuyến khích các đại lý tiêu thụ. Đây là cách làm rất cần
thiết của công ty trong tình hình hiện nay, nó giúp đẩy nhanh việc tiêu thụ sản
phẩm trong công ty. Ngoài ra, công ty còn chấp nhận nhiều hình thức thanh toán
với khách hàng như: thanh toán bằng tiền mặt, chuyển khoản , séc và ngoại tệ.
Công ty cũng chấp nhận việc thanh toán trả chậm của các khách hàng trong một
thời gian nhất định. Trong nền kinh tế thị trường đầy cạnh tranh như hiện nay, có
được những chiến lược kinh doanh trên là một thành công rất lớn của công ty.
Về phương thức tiêu thụ, công ty không thực hiện bán hàng trực tiếp cho
các khách hàng, đối với khách có liên hệ trực tiếp với công ty để mua hàng thì


được công ty giao cho các cửa hàng thực hiện. Cách thực hiện trên đã giúp cho
việc tiêu thụ thành phẩm và hạch toán thành phẩm trở nên gọn nhẹ hơn, đồng thời
tiết kiệm được chi phí và nguồn nhân lực cho công ty.
Đối với việc tổ chức bộ máy kế toán, công ty Thạch Bàn đang thực hiện rất
thành công mô hình kế toán tập trung. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là mọi
công việc đều do phòng tài chính kế toán xử lý từ A đến Z. Công ty có hệ thống
phân phối sản phẩm trên khắp cả nước dưới sự quản lý của 3 chi nhánh nên công
việc hạch toán ban đầu đều do các chi nhánh làm, cuối tháng số liệu được chuyển
về phòng kế toán. Cách làm này đem lại hiệu quả rất cao. Một mặt, nó làm cho
công việc kế toán trở nên gọn nhẹ, có sự tiết kiệm lao động, giữa chi nhánh với
công ty luôn có sự phối hợp nhịp nhàng nhằm hạn chế những sai sót, đáp ứng yêu
cầu quản lý của doanh nghiệp. Mặt khác, việc chỉ đạo và kiểm tra kế toán được tiến
hành tập trung, thống nhất, công việc kế toán có điều kiện chuyên môn hoá, nâng
cao hiệu suất công việc và năng lưc chuyên môn của nhân viên trong phòng.
Về việc thực hiện các quy định, chính sách của chế độ kế toán hiện hành,
công ty luôn thực hiện đúng các quy định của Bộ Tài chính ban hành, tuân thủ các
chính sách về thuế và nghĩa vụ đối với các đối tượng có liên quan.
Đối với việc sử dụng hệ thống tài khoản, công ty rất linh hoạt trong việc
quy định hệ thống tài khoản cho mình dựa trên hệ thống tài khoản ban hành theo
quyết định 1141/TC/QĐ/CĐKT của Bộ Tài chính ngày 1-11-1995 và các thông tư
hướng dẫn sửa đổi bổ sung. Các tài khoản của công ty được chi tiết cụ thể cho từng
hoạt động kinh doanh và cho các dự án. Nhờ đó, việc định khoản các nghiệp vụ
phát sinh trở nên dễ dàng hơn .
Trong công tác tổ chức chứng từ, sổ sách, mọi công việc từ khâu lâp chứng
từ đến khi vào sổ lên các báo cáo đều được tổ chức rất chặt chẽ. Trước khi vào sổ,
các chứng từ đều được kiểm tra nghiêm ngặt về tính hợp lý, hợp lệ, đặc biệt là các
chứng từ do các chi nhánh gửi về. Công việc đối chiếu trước khi vào sổ các chứng
từ trung gian là sự đảm bảo rất cao cho nội dung của các nghiệp vụ kinh tế phát
sinh. Trong công ty Thạch Bàn, hình thức ghi sổ Nhật ký chung được sử dụng để
hạch toán tổng hợp . Đây là hình thức ghi sổ gọn nhẹ, đơn giản, dễ hiểu, dễ đối

chiếu mà vẫn đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quản lý của hoạt động sản xuất kinh
doanh. Mặt khác, do công ty sử dụng kế toán máy trong quá trình làm việc nên các
tài khoản được theo dõi chi tiết và các sổ chi tiết này sẽ đáp ứng được thông tin
trên các khía cạnh khác nhau. Đối với một tài khoản công ty có thể mở chi tiết theo
nhiều đối tượng khác nhau. Ví dụ: sổ chi tiết tài khoản 511 có thể chi tiết theo từng
lĩnh vực kinh doanh như kinh doanh gạch ốp lát granite, kinh doanh gạch đỏ, kinh
doanh joton,.. đồng thời có thể chi tiết cho các chi nhánh là miền Bắc, miền Trung,
miền Nam hoặc chi tiết cho các đối tượng khách hàng là khách công trình, khách
đại lý và khách lẻ... Chính vì vậy, công tác kế toán của công ty luôn cung cấp đầy
đủ, chi tiết các thông tin cần thiết cho nhà quản lý.
Đối với công tác hạch toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ, trong công
ty Thạch Bàn, công tác hạch toán tiêu thụ và theo dõi tình hình hạch toán tiêu thụ ở
các chi nhánh được tổ chức rất chặt chẽ. Để cho công việc hạch toán tại phòng kế
toán công ty đỡ cồng kềnh, kế toán tiêu thụ thường vào sổ Nhật ký chung các
nghiệp vụ bán hàng ở các chi nhánh theo số liệu tổng hợp. Tuy nhiên, trước khi vào
sổ, các báo cáo bán hàng được đối chiếu cẩn thận với từng hoá đơn GTGT và được
đối chiếu với Bảng kê hoá đơn bán hàng mà chi nhánh gửi kèm ra. Đây là một
công việc rất cần thiết và có tính chặt chẽ cao. Đồng thời, do công ty sử dụng phần
mềm kế toán máy nên việc hạch toán tiêu thụ chỉ gồm công việc nhập chứng từ
vào máy dưới dạng mã hoá dữ liệu đã được quy định sẵn trong máy, công việc
hạch toán chi tiết và hạch toán tổng hợp được máy tự động thực hiện. Cuối kỳ, kế
toán chỉ cần in ra các sổ sách và báo cáo cần thiết, các thao tác thủ công của kế
toán được giảm đến mức tối đa. Việc mã hoá các chứng từ kế toán vào máy chính
xác trên cơ sở xác định đúng thời điểm ghi nhận doanh thu, sử dụng đúng tài
khoản, tính đúng giá vốn hàng xuất bán và tính đúng thuế là công việc chủ yếu của
kế toán tại công ty. Như vậy, kế toán viên sẽ có điều kiện dành nhiều thời gian cho
công việc xử lý các nghiệp vụ hơn thay vì phải dành rất nhiều thời gian cho ghi
chép sổ sách như trước kia. Đây là điều kiện để công tác hạch toán kế toán trong
doanh nghiệp ngày càng được tốt hơn.
Trên đây là những mặt mà trong thời gian qua công ty Thạch Bàn đã thực

hiện rất tốt và hiệu quả. Nhờ đó, trong nhiều năm liền, công việc kinh doanh của
công ty luôn diễn ra thuận lợi, hoạt động kinh doanh luôn có lãi và đã đóng góp
một khoản tiền tương đối lớn cho ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, công ty vẫn
còn có những tồn tại ảnh hưởng tới công việc sản xuất kinh doanh của công ty,
phát hiện những hạn chế để khắc phục là sự lựa chọn tất yếu của bất kỳ doanh
nghiệp nào.
2. Nhược điểm
Để so sánh những gì công ty đã làm được với những gì còn đang tồn tại
trong công ty thì thật là khập khiễng, song để hoạt động kinh doanh của công ty
hoạt động có hiệu quả hơn nữa, công ty Thạch Bàn cần quan tâm xem xét để khắc
phục những hạn chế vẫn đang tồn tại tại đơn vị mình. Đặc biệt, trong quá trình tiêu
thụ và hạch toán tiêu thụ, công ty Thạch Bàn đang gặp phải một số bất cập sau:
Về chính sách đối với khách hàng, trong công ty Thạch Bàn không có
những khoản như chiết khấu thương mại dành cho khách hàng. Chiết khấu thương
mại thực chất là một khoản giảm trừ doanh thu trên cơ sở là giảm giá niêm yết cho
khách hàng mua với khối lượng lớn. Nó thể hiện chính sách khuyến khích đối với
khách hàng. Mặc dù, chiết khấu thương mại là một khoản làm giảm trừ doanh thu
nhưng trong dài hạn, nhờ nó mà doanh nghiệp sẽ thu được hiệu quả cao hơn trong
lưu thông hàng hoá.
Không những vậy, đối với các khoản phải thu có kỳ hạn, doanh nghiệp
không đưa ra những chính sách để khuyến khích khách hàng thanh toán tiền hàng
sớm. Thực tế, hiện nay vốn lưu động trong doanh nghiệp chủ yếu là vốn vay. Hơn
nữa, việc vay vốn cần rất nhiều thời gian và thủ tục. Vì vậy, quay vòng vốn nhanh
là rất cần thiết đối với doanh nghiệp.
Về hệ thống tài khoản, hiện nay khi xuất hàng điều chuyển cho các chi
nhánh, công ty không sử dụng tài khoản 157 để phản ánh số hàng đã ra khỏi kho và
đang chờ tiêu thụ ở các kho chi nhánh. Tài khoản hiện nay mà công ty sử dụng để
phản ánh số hàng chuyển đi là tài khoản 155, trùng với tài khoản tồn kho tại công
ty, để theo dõi số hàng chuyển đi cho các chi nhánh công ty chỉ chi tiết cho từng
kho. Như vậy, khi lên bảng cân đối kế toán, số hàng chuyển cho các chi nhánh và

số hàng còn ở kho công ty sẽ không tách biệt nhau. Do đó sẽ không phản ánh đúng
bản chất của hàng tồn kho.
Hơn nữa, công ty không sử dụng các tài khoản về dự phòng như:
- Tài khoản 139: dự phòng phải thu khó đòi
- Tài khoản 159: dự phòng giảm giá hàng tồn kho
Đây là hai tài khoản rất cần thiết trong các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh vì trong lưu thông, các nghiệp vụ về giảm giá hàng tồn kho, các khoản nợ
khó đòi rất hay xảy ra. Trong thực tế, doanh nghiệp cũng đã gặp phải những trường
hợp như vậy nhưng các tài khoản này vẫn không được dùng đến.
Ngoài ra, trong công ty còn có TK 511 được mở thành nhiều tiểu khoản,
trong đó TK 5116 “Doanh thu khác” dùng để phản ánh các khoản thu nhập khác
như: thu nhập về thanh lý tài sản cố định, nhương bán TSCĐ và các khoản tiền
phạt, bồi thường mà công ty nhận được. Việc hạch toán các khoản thu nhập trên
vào TK 5116 là chưa hợp lý, công ty cần phải phân định những khoản nào là thu
nhập hoạt động tài chính, khoản thu nào là thu nhập bất thường để từ đó xác định
chi phí cho từng hoạt động làm căn cứ để hạch toán vào TK 721.
Về chứng từ, đối với hàng bán bị trả lại ở các chi nhánh, nếu khách hàng chỉ
trả lại một phần số hàng đã mua trên hoá đơn trong tháng thì bộ phận bán hàng chi
nhánh sẽ lập hoá đơn giá trị gia tăng cho số hàng mà khách hàng chấp nhận mua,
còn số hàng khách không chấp nhận mua thì được kế toán chi nhánh lập phiếu
nhập để phản ánh số hàng bị trả lại. Tuy nhiên, nếu một phần số hàng đó bị trả lại
vào tháng sau thì phần khách hàng chấp nhận mua sẽ không được lập hoá đơn giá
trị gia tăng. Kế toán chỉ lập phiếu nhập cho số hàng mà khách hàng trả lại. Điều
này là không đúng với quy định thông thường, nghĩa là dù ở bất kỳ thời điểm nào
khi khách hàng chỉ chấp nhận thanh toán một phần hàng trên hoá đơn thì kế toán
đều phải lập lại hoá đơn bán hàng cho số hàng mà khách chấp nhận mua.
Về hạch toán tổng hợp, trong công ty còn tồn tại một số vấn đề như sau:
+ Trong công ty Thạch Bàn, tài khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho
không được kế toán sử dụng. Cuối kỳ, nếu giá trị thuần có thể thực hiện được của
hàng tồn kho nhỏ hơn giá gốc thì kế toán công ty phản ánh thiệt hại đó vào tài

khoản 641: chi phí bán hàng. Đây là cách làm hoàn toàn sai. Theo 4 chuẩn mực kế
toán ban hành năm 2001 quy định về dự phòng giảm giá hàng tồn kho, cuối kỳ kế
toán năm, khi giá trị thuần có thể thực hiện được của hàng tồn kho nhỏ hơn giá gốc
thì phải lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho. Như vậy, khi hàng tồn kho giảm giá,
kế toán phải lập dự phòng mà không được hạch toán thẳng vào chi phí bán hàng và
ghi giảm giá trị hàng tồn kho như kế toán công ty đang làm. Tài khoản dự phòng là
một tài khoản rất nhạy cảm, khi sử dụng kế toán phải tuân theo những quy định
nghiêm ngặt của chế độ kế toán.
+ Ngoài ra, tài khoản dự phòng phải thu khó đòi cũng là một tài khoản quan
trọng trong việc hạch toán thanh toán với người bán nhưng cũng không được kế
toán sử dụng. Trong chính sách với khách hàng, công ty sẽ ngừng cấp hàng nếu
khách hàng có mức dư nợ lớn hơn 2 và không giải trình được với công ty về
nguyên nhân. Trên thực tế đã có rất nhiều trường hợp công ty phải ngừng cấp hàng
cho khách hàng nhưng lại không lập khoản dự phòng phải thu khó đòi, kế toán
hạch toán vào chi phí bán hàng cho trường hợp nếu không đòi được nợ. Theo quy
định của Bộ Tài chính mà công ty đang áp dụng, cách làm trên là hoàn toàn sai.
Cũng giống với trường hợp dự phòng giảm giá hàng tồn kho, theo quy định kế toán
phải lập dự phòng cho khoản phải thu khó đòi vào cuối năm hạch toán.
+ Đối với trường hợp hạch toán chiết khấu sau thanh toán, đây là khoản
chiết khấu mà công ty thưởng cho khách hàng khi khách hàng thanh toán tiền hàng
cho công ty. Như vậy, khoản chi phí này có liên quan tới hoạt động tài chính nhưng
thực tế nó lại được hạch toán vào TK641: chi phí bán hàng. Cách làm này của
doanh nghiệp cũng trái với chế độ kế toán mà doanh nghiệp đang áp dụng. Doanh
nghiệp đã sai trong cách phân loại chi phí.
Về hệ thống sổ trong công ty, việc ghi chép một số chỉ tiêu trên sổ Nhật ký
chung và sổ Cái là chưa phù hợp với quy định. Theo quy định, trên sổ nhật ký
chung và sổ cái phải ghi tách bạch giữa chỉ tiêu “Ngày tháng ghi sổ” phải ghi đúng
ngày tháng ghi sổ; chỉ tiêu “Chứng từ” phải ghi rõ số chứng từ và ngày tháng lập
chứng từ để dùng làm căn cứ ghi sổ. Có như vậy thì sổ Nhật ký chung mới có vai
trò là sổ kế toán tổng hợp dùng để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo

trình tự thời gian. Hơn nữa do kế toán thường vào số liệu tổng hợp theo tháng mà
trên các sổ kế toán này có nhiều nghiệp vụ kinh tế có cùng nội dung phản ánh số,
ngày của chứng từ trùng nhau và đựợc ghi chép liên tục trên nhiều trang sổ nhật ký
chung hay sổ cái. Trong khi đó trên sổ cái lại không có cột chỉ tiêu “Trang sổ nhật

×