Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TIEU LUAN TRIẾT , chủ nghĩa duy vật nhân bản phơi ơ bắc và những giá trị, hạn chế của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.2 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU


Có thể nói Triết học là môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử, khi xã hội
phân chia thành giai cấp, chế độ chiếm hữu ra đời và phát triển đã có triết học. Sự
phát triển của triết học là một quá trình kế thừa và chọn lọc các quan điểm tư tưởng
của nhân loại. Cái sau kế thừa và phát triển dựa trên thành tựu của cái trước đó.
Nhưng, triết học trước đó thường ít được xem xét một cách có hệ thống mà chủ yếu
là tổng kết chủ quan, có tính phê phán của trường phái triết học này đối với trường
phái triết học khác. Tới khi triết học Mác-xít ra đời mới thực sự trở thành một khoa
học. Triết học Mác-xít là hệ thống triết học cách mạng và khoa học, lf thế giới quan,
là phương pháp luận nhằm đánh giá, xem xét các hệ thống, trào lưu triết học song nó
lại được kế thừa trên cơ sở những tinh hoa triết học, văn hóa của nhân loại. Do đó để
hiểu biết sâu sắc triết học Mác-xít, chúng ta không thê bỏ qua việc nghiên cứu triết
học trước đó – triết học trước Mác. Sự nhận thức không chỉ bắt đầu từ những nhà
sáng lập triết học Mác-xít mà cần quan tâm cả những nhà triết học mà triết học Mác
kế thừa trong đó có nền triết học cổ điển Đức và Lút-vích Phơi-ơ-bắc là một triết gia
tiêu biểu.
Là đại diện vĩ đại cuối cùng của triết học cổ điển Đức. Người có công lao to
lớn đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, phục hồi và phát triển chủ
nghĩa duy vật trong thời kỳ chuẩn bị cách mạng tư sản Đức (1848). Tư tưởng triết
học của ông có sức ảnh hưởng to lớn đến sự ra đời và phát triển của hệ thống triết
học Mác-xít.
Từ nhận thức đó, em mạnh dạn lựa chọn tài “Chủ nghĩa duy vật nhân bản
Phơi-ơ-bắc và những giá trị, hạn chế của nó”.
Do điều kiện về thời gian, các kiến thức trong bài viết mới chỉ dựa trên cơ sở
thu thập tài liệu và làm rõ chủ để. Vì vậy, kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn.
Chân thành cảm ơn !



Tiểu luận triết học

CHƯƠNG I
LỊCH SỬ RA ĐỜI CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHƠI-Ơ-BẮC
1.Thân thế và tiểu sử L. Phơi-ơ-bắc: Phơi-ơ-bắc (1804-1872), ông sinh
trưởng trong một gia đình trí thức có tên tuổi - đại biểu cuối cùng của triết học cổ
điển Đức, sự kết thúc đầy vinh quang của nó, nhà cải cách kiên cường của nền triết
học Đức - nhà duy vật và khai sáng. Năm 1823 với mục đích nghiên cứu tôn giáo,
Phơi-ơ-bắc vào học tại khoa thần học của trường đại học Heidelberg, nhưng sau một
năm lại rời khoa thần học và chuyển đến Berlin, nơi He-ghen đang giảng triết học.
Phơi-ơ-bắc trở thành người học trò nghiêm túc của Hê-ghen. Năm 1928, Phơi-ơ-bắc
gởi cho Hê-ghen bản luận án của mình mang tên “Về‎ tính đơn nhất, phổ biến và vô
hạn” trong đó ông nói thẳng tâm nguyện triển khai tiếp tục chủ nghĩa duy tâm khách
quan. Năm 1829 Phơi-ơ-bắc bắt đầu sự nghiệp giảng dạy của mình tại trường đại
học Erlangen. Phơi-ơ-bắc trình bày logic học và siêu hình học, đồng thời nhen nhóm
tư tưởng nhân bản mà về sau trở thành nội dung chủ yếu của chủ nghĩa duy vật đặc
trưng - chủ nghĩa duy vật nhân bản. Khái niệm trung tâm - tình yêu. Năm 1841,
Phơi-ơ-bắc cho ra mắt tác phẩm chính “Bản chất đạo Cơ đốc”. Những năm tiếp theo
ông viết “Luận cương khởi đầu về‎ cái cách triết học” (1842), “Các luận điểm triết
học cơ bản của tương lai”(1843). Ông mất năm 1872, tức là sau công xã Paris(1871)
thất bại.
2. Đặc điểm triết học cổ điển Đức.

Nước Đức lúc bấy giờ, trong tư tưởng và hệ thống của các triết gia có
hai mặt. Do các nhà triết học phần lớn xuất phát từ tầng lớp thượng lưu, gắn
bó mật thiệt với phong trào quý tộc về lợi ích kinh tế, địa vị chính trị vì thế
một mặt họ mong muốn thống nhất đất nước, phồn vinh. Một mặt họ sợ sức
mạnh của quần chúng lao động mà thỏa hiệp với các quý tộc phong kiến dẫn
đến tư tưởng bảo thủ, cải lương về mặt chính trị - xã hội, mâu thuẫn với tính
cách mạng và tính khoa học.


Học viên Hoàng Đức Toản

Trang 2


Tiểu luận triết học

Đề cao vai trò, vị trí tích cực của con người. Kế thừa những tư tưởng
thời kì phục hưng và cận đại, các nhà triết học Cổ điển Đức đã khẳng định con
người là chủ thể, là kết quả, là sản phẩm của hoạt động tự nó, cho nó, vì nó
cho nên thực tiễn cao hơn lý luận, lịch sử chỉ là phương thức tồn tại của con
người, cá nhân có thể làm chủ vận mệnh của mình và cao hơn là tư tưởng con
người trong bản chất xã hội. Như vậy triết học Cổ điển đã làm một bước rẽ
trong việc hình thành, phát triển của triết học. Nếu như trước đây, triết học lấy
nhận thức luận, bản thể luận… làm nền tảng thì trong bối cảnh đầy biến động
cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỷ XIX, con người lại trở thành xuất phát điểm của
mọi vấn đề triết học. Tuy vậy trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và
ảnh hưởng to lớn của nó đến đời sống kinh tế - văn hóa – xã hội đưa đến quan
niệm tuyệt đối sung bái vai trờ của lý tính, tư duy. Biến tư duy của con người
thành một thực thể độc lập với đời sống thực của nó. Thực thể tinh thần tối
cao làm căn nguyên để giải thích cho mọi cái, mọi hiện tượng đang tồn tại.
Triết học Cổ điển Đức thực tiễn và khoa học đã đặt ra yêu cầu cần phải có
phương pháp tư duy để phản ánh chân thực về tồn tại mà lại thể hiện được tinh
thần cách mạng thời đại. Các nhà triết học đã tiếp thu những tư tưởng biện chứng
trong di sản triết học truyền thống để xây dựng phép biện chứng của mình. Lần
đầu tiên phép biện chứng tồn tại là một phương pháp có tình đồng kết, được biểu
hện chặt chẽ qua hệ thống các khái niệm, phạm trù. Mặc dù là phép biện chứng
duy tâm nhưng vẫn được các nhà sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin đánh giá cao.
Đó là một trong những cơ sở lý luận được triết học Mác đề ra.

Luận điểm của Mác coi những đặc điểm của triết học Cổ điển Đức là “lý
luận của người Đức về‎ cách mạng Tư sản Pháp” một mặt cho thấy đặc điểm
riêng của triết học Cổ điển Đức so với triết học Pháp thế kỷ XVIII, dù giữa
chúng có sự kế thừa to lớn, mặt khác khẳng định giá trị to lớn của triết học cổ
điển Đức.
Học viên Hoàng Đức Toản

Trang 3


Tiểu luận triết học

3. Chủ nghĩa duy tâm của Hê-ghen & những ảnh hưởng đối với Phơi-ơbắc.
Quan điểm phát triển là tư tưởng cơ bản, xuyên suốt triết học của Hê-ghen. Hêghen đã coi sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại dưới những tên gọi như: “ý niệm tuyệt
đối”, “lý tính thế giới”, “tinh thần thế giới” là bản nguyên của mọi hiện tượng trong
giới tự nhiên và xã hội. Sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại theo Hê-ghen không phải
là sự đồng nhất tuyệt đối, siêu hình, mà là sự đồng nhất bao hàm sự khác biệt. Chính
mâu thuẫn giữa đồng nhất và khác biệt đã làm cho bản nguyên của thế giới - “ý niệm
tuyệt đối” có tính tích cực và hoạt động. Sự hoạt động của “ý niệm tuyệt đối” thể hiện
qua ba giai đoạn phát triển. Trên cơ sở chủ nghĩa duy tâm khách quan, ngoài việc phát
triển học thuyết về các quy luật và các phạm trù cơ bản của phép biện chứng, lần đầu
tiên Hêghen đã nghiên cứu các tắc cơ bản của logic biện chứng. Chính Hê-ghen đã đặt
vấn đề về sự thống nhất giữa phép biện chứng, logic học và lý luận nhận thức.
Hêghen coi logic học là khoa học về mối liên hệ biện chứng của các khái niệm, là
khoa học “ mô tả lĩnh vực tư tưởng... trong sự hoạt động nội tại của bản thân nó, hay
nói một cách khác, trong sự phát triển tất yếu của nó”. Theo Hê-ghen, sự vận động và
phát triển của các khái niệm và bởi những mâu thuẫn nảy sinh trong bản thân khái
niệm đó. Phép biện chứng là hạt nhân hợp lý, là mặt tiến bộ của triết học Hê-ghen.
Ngược lại, hệ thống triết học của Hê-ghen là duy tâm, siêu hình. Chính hệ thống đó đã
dẫn Hê-ghen đến thừa nhận điểm cuối cùng trong sự phát triển của thế giới là nhận

thức. Về thực chất, Hê-ghen áp dụng nguyên lý phát triển chỉ đối với hiện tượng tinh
thần. Tuy thừa nhận mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, nhưng không
phải là mâu thuẫn thực sự của thới tự nhiên và xã hội, mà chỉ là mâu thuẫn trong sự
phát triển của tinh thần. Mâu thuẫn không phải được giải quyết bằng cách mạng, mà
bằng con đường hòa bình: cái mới thỏa hiệp với cái cũ.
Có thể thấy Triết học của Hê-ghen và triết học của Phơi-ơ-bắc là hai nguồn
gốc trực tiếp về lý luận của triết học Mác. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã kế
thừa hạt nhân hợp lý trong triết học Hê-ghen là phép biện chứng, cải tạo nó trên tinh
Học viên Hoàng Đức Toản

Trang 4


Tiểu luận triết học

thần của chủ nghĩa duy vật, biến nó thành phép biện chứng duy vật như là học
thuyết khoa học về các quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Cũng
chính nhờ chủ nghĩa duy vật của Phơi-ơ-bắc đã giúp Mac và Ăng-ghen đoạn tuyệt
với chủ nghĩa duy tâm của Hê-ghen và phái Hê-ghen trẻ. Mac và Ăng-ghen đã cải
tạo chủ nghĩa duy vật của Feuerbach phát triển lên một hình thức mới cao nhất đó là
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
4.Vài nét về Chủ nghĩa duy vật của Phơi-ơ-bắc
Là nhà triết học duy vật vì ông khẳng định vật chất là tính thứ nhất; ý thức, tư
duy là tính thứ hai. Song là nhà duy vật nhân bản, ông coi con người là sản phẩm
cao nhất của giới tự nhiên, vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại là vấn đề bản chất
của con người, vì thế, đây là đối tượng duy nhất, phổ biến và cao nhất của triết học.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phơi-ơ-bắc là đóng góp to lớn vào cuộc đấu tranh
chống lại việc giải thích duy tâm, nhị nguyên luận, thậm chí cả chủ nghĩa duy tâm
tầm thường về vấn đề con người. Song, nguyên lý nhân bản học của Phơi-ơ-bắc
không triệt để, vì ông hiểu con người chỉ là những cá nhân trừu tượng, là thực thể

thuần túy tự nhiên - sinh vật. Ông không thấy được mặt xã hội của con người trong
hoạt động biến đổi hiện thực.

Học viên Hoàng Đức Toản

Trang 5


Tiểu luận triết học

CHƯƠNG II
NỘI DUNG CHÍNH CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHƠI-Ơ-BẮC

1. Quan điểm về con người
a. Mối quan hệ của con người với tự nhiên
Phơi-ơ-bắc cho rằng, con người không phải là sản phẩm của thượng đế như
các nhà thần học quan niệm, nó cũng không phải là sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối
như Hê-ghen nói, mà là sản phẩm của giới tự nhiên, ông viết: "Giới tự nhiên là ánh
sáng, điện từ, từ tính, không khí, nước, lửa, đất, động vật, thực vật, là con người, bởi
vì con người là một thực thể hoạt động thiếu tự chủ và vô thức". Như vậy, sự phát
sinh và tồn tại của con người cũng giống như sự phát sinh và tồn tại của của các hiện
tượng tự nhiên khác, chỉ có điều khác là: con người là sản phẩm tiến hoá cao nhất
của giới tự nhiên, là một sinh vật bậc cao, có tính vượt trội so với các loài động vật
khác ở đời sống tinh thần của nó: "Sự khác biệt căn bản giữa loài người và loài vật
là gì? Câu trả lời chung rất đơn giản là: đó là sự khác nhau trong ý thức đúng với
nghĩa chân chính của từ này... Bởi ý thức theo nghĩa chính xác chỉ có ở chỗ, khi chủ
thể có khả năng nhận thức được loài của mình, bản chất của mình. Động vật nhận
thức mình như một cá thể, nó chỉ làm chủ được quá trình tự cảm giác mà thôi, chứ
không phải như một loài...bởi vậy, động vật sống đơn giản một mình, còn con người
sống có bạn. Đời sống nội tâm của con vật hoà đồng với thế giới bên ngoài, còn con

người sống với cả hai chiều: nội tâm và thế giới bên ngoài. Đời sống nội tâm của
con người liên quan mật thiết với loài và bản chất của nó. Con người suy nghĩ, bàn
luận và nói với chính mình".
Cụ thể là toàn bộ mối quan hệ giữa giới tự nhiên và con người phản ánh mối
quan hệ giữa thế giới vô cơ và thế giới hữu cơ, phản ánh tiến trình tiến hoá của sự
sống, theo nghĩa thế giới vô cơ là tiền đề, là cơ sở nền tảng của mọi sự sống nói
chung, của đời sống con người nói riêng. Con người chỉ có thể tồn tại trong giới tự
nhiên, trong sự tiếp xúc với thế giới khách quan bên ngoài nó, và cũng chính thế giới
này quy định sự tồn tại và phát triển của các giác quan con người chứ không phải
ngược lại như chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định. Ánh sáng tồn tại không phải

Học viên Hoàng Đức Toản

Trang 6


Tiểu luận triết học

để cho con mắt nhìn, mà con mắt tồn tại bởi vì có ánh sáng, tương tự như vậy, không
khí tồn tại không phải để cho con người hít thở mà con người hít thở bởi vì có không
khí, bởi vì, nếu không có không khí thì sẽ không có sự sống. Tồn tại một mối quan hệ
tất yếu giữa thế giới vô cơ và thế giới hữu cơ. Mối quan hệ qua lại này chính là cơ sở,
là bản chất của sự sống. Bởi vậy, chúng ta không có căn cứ nào để giả định rằng, nếu
như con người có nhiều cảm giác hay nhiều cơ quan thì nó sẽ hiểu biết được nhiều
thuộc tính hay nhiều sự vật của tự nhiên hơn... con người có vừa đủ những giác quan
cần thiết để cảm nhận thế giới trong tính toàn vẹn và tính tổng thể của nó.
b. Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại
Phơi-ơ-bắc cho rằng, con người là một sinh vật có hình thể vật lý - sinh lý ở
trong không gian và thời gian, nhờ vậy nó có năng lực quan sát và suy nghĩ vượt trội
so với các loài sinh vật khác. Bản chất con người là một cái gì đó thống nhất toàn

vẹn giữa hai phương diện thể xác (tồn tại) và tinh thần (tư duy). Sự thống nhất toàn
vẹn này đảm bảo cho con người có thể tồn tại và phát triển như một sinh vật cao
nhất, hoàn thiện nhất trong mọi sinh vật hiện có.Và sai lầm của chủ óc, nghĩa duy
tầm là sự toan tính thủ tiêu sự thống nhất toàn vẹn đó của con người, tách rời tư duy
con người khỏi tồn tại của nó, biến tư duy thành một thực thể siêu tự nhiên có khả
năng sáng tạo nên thế giới vật chất. Còn sai lầm của chủ nghĩa nhị nguyên là đánh
đồng tư duy và tồn tại, coi chúng như những thực thể tồn tại độc lập bên cạnh nhau
đó là một sụ khẳng định vòng vo, là lối nói nửa vời, tách đôi trái ngược.
Phơi-ơ-bắc đã thừa nhận một cách dứt khoát rằng quan hệ thực sự của tồn tại
đối với tư duy là tồn tại - chủ thể, tư duy - thuộc tính. Tư duy xuất phát từ tồn tại,
chứ không phải tồn tại xuất phát từ tư duy… cơ sở của tồn tại nằm ngay trong tồn tại
chính là cảm tính, là nguyên lý trí tuệ là sự tất yếu và chân lý... bản chất của tồn tại
với tư cách một tồn tại chính là bản chất của giới tự nhiên. Tại sao tồn tại là chủ thể,
còn tư duy là thuộc tính (của chính chủ thể đó)? Để trả lời câu hỏi này, theo Phơi-ơbắc, chúng ta cần đến từ đâu đến, bộ óc từ đâu đến, cơ quan cơ thể từ đâu đến, thì
tinh thần cũng đến từ đấy ngay cả hoạt động tinh thần cũng là việc làm của cơ thể,

Học viên Hoàng Đức Toản

Trang 7


Tiểu luận triết học

của đầu óc con người, hoạt động đó khác với các hoạt động khác ở chỗ, nó là hoạt
động của đầu óc.
c. Mối quan hệ giữa con người với con người
Phơi-ơ-bắc đi đến việc tìm hiểu sâu hơn bản chất tự nhiên - sinh học của con
người. "Bản chất chung của con người là gì? Những nhân tính cơ bản trong con
người là gì? Đó là lý tính, ý chí và trái tim. Con người hoàn thiện có năng lực tư
duy, sức mạnh ý chí và nguồn lực tình cảm. Năng lực tư duy chính là ánh sáng của

nhận thức, sức mạnh của ý chí chính là năng lượng của tính cách, nguồn lực tình
cảm chính là tình yêu... Trong ý chí, tư duy và tình cảm luôn chứa đựng bản chất tối
cao, tuyệt đối của con người và mục đích tồn tại của nó... con người tồn tại để nhận
thức, yêu thương và mong muốn. Nhưng mục đích của lý tính, của ý chí, của tình
yêu là gì? là để làm cho con người trở thành người tự do. Mọi mong muốn, khát
vọng tự nhiên của con người theo quan điểm của Phơi-ơ-bắc không phải xuất phát từ
tư tưởng thuần tuý mà chúng phản ánh đời sống hiện thực của con người và do đời
sống đó quy định. Nói cách khác, trong con người, cái sinh lý quy định cái tâm lý,
cái tự nhiên - sinh học quy định cái xã hội, nhu cầu vật chất quy định hành động xã
hội. "Điều ác xuất hiện không phải trong đầu óc, trong trái tim – Phơi-ơ-bắc viết mà xuất hiện chính trong dạ dày con người". Quan điểm này của Phơi-ơ-bắc đã làm
cho Ăng-ghen rất chú ý. Trong tác phẩm Lútvich phơbách và sự cáo chung của triết
học cổ điển Đức, Ăng-ghen đánh giá cao luận điểm của Phơi-ơ-bắc: "Trong một
cung điện, người ta suy nghĩ khác trong một túp lều tranh", "Nếu như vì đói, vì
nghèo, mà trong cơ thể không có chất dinh dưỡng, thì trong đầu óc anh, trong tình
cảm và trong trái tim anh cũng không có chất nuôi đạo đức". Đây là luận điểm hoàn
toàn mới so với đương thời, vì theo quan điểm này thì điều kiện sinh hoạt vật chất
của con người quy định suy nghĩ và tư tưởng của nó.
d. Mối quan hệ giữa con người với thần
Đánh giá con người vừa như là một cá thể chứa đầy tham vọng cá nhân, vừa
như là sản phẩm của con người, sản phẩm của văn hoá và lịch sử chính là cơ sở lý

Học viên Hoàng Đức Toản

Trang 8


Tiểu luận triết học

luận để Phơi-ơ-bắc xem xét mối quan hệ giữa người và thần. Phơi-ơ-bắc cho rằng,
viện nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của tôn giáo phải xuất phát từ việc nghiên

cứu bản chất của con người và đời sống hiện thực của nó.
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa nhân bản, Phơi-ơ-bắc cho rằng yếu tố quan
trọng hàng đầu tạo tiền đề cho sự xuất hiện tôn giáo đó là trạng thái tâm lý của con
người. "Thượng Đế không phải là thực thể sinh lý hay thực thể vũ trụ - Phơi-ơ-bắc
viết - mà là thực thể tâm lý". Chính sự xúc cảm mạnh, sự chiêm nghiệm hay trạng
thái đau khổ của con người là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo. Nhưng sự chiêm
nghiệm hay trạng thái đau khổ, trạng thái xúc cảm không phải là hiện tượng có tính
chủ quan như chủ nghĩa duy tâm chủ quan quan niệm , mà chúng có tính khách
quan, nghĩa là gắn liền với các hiện tượng tự nhiên và đời sống xã hội. Phơi-ơ-bắc
viết "Tôn giáo là giấc mơ của tinh thần con người nhưng trong giấc mơ đó chúng ta
không phải ở trên bầu trời mà ở trên mặt đất trong vương quốc của hiện thực, chúng
ta nhìn thấy các đối tượng của hiện thực không phải trong thế giới thực tế của tính
tất yếu mà là trong thế giới say mê của trí tưởng tượng và sự kỳ quặc. Nhiệm vụ của
tôi là bóc trần bản chất đích thực của tôn giáo và triết học tư biện hay thần học,
chuyển thế giới nội tâm ra thế giới bên ngoài, nghĩa là biến đối tượng tưởng tượng
thành đối tượng hiện thực". Trên tinh thần như vậy, ông phê phán các quan điểm cho
rằng, tôn giáo là hiện tượng có tính ngẫu nhiên hoặc có tính bẩm sinh.
Phơi-ơ-bắc cho rằng, tình cảm tôn giáo cũng như các ý niệm và biểu tượng
của nó luôn thay đổi theo sự thay đổi của lịch sử xã hội loài người. Từ lập trường
của chủ nghĩa nhân bản, Phơi-ơ-bắc cho rằng, trong con người luôn có những ham
muốn, nhu cầu, khát vọng và thái độ ích kỷ. Những nhu cầu sinh học và trạng thái
tâm sinh lý này có thể được đáp ứng hoặc có thể không được đáp ứng, từ đó gây nên
trong con người hai xu hướng trạng thái tâm lý: hoặc sợ hãi, bất lực, nỗi buồn chán,
đau khổ (nếu con người gặp những điều bất hạnh) hoặc sự ngưỡng mộ, kính phục,
lòng biết ơn (nếu con người gặp những thuận lợi). Phơi-ơ-bắc viết "Tôn giáo là sự
phản ánh thời thơ ấu của nhân loại hay trong tôn giáo con người là đứa trẻ. Đứa trẻ
không thể thực hiện ý muốn của mình bằng sức mạnh của nó, phải nhờ đến một tồn
Học viên Hoàng Đức Toản

Trang 9



Tiểu luận triết học

tại mà nó cảm thấy lệ thuộc... tôn giáo có nguồn gốc xuất hiện, có chỗ đứng chân
chính, có ý nghĩa trong thời thơ ấu của nhân loại".

2. Quan điểm về tự nhiên
Thực tế cuộc sống của người nguyên thuỷ hàng ngày bắt phải tiếp xúc với
muôn vàn sự vật, hiện thể tượng đa dạng của giới tự nhiên như mặt trăng, mặt trời,
sấm sét, bão lụt, giông tố, sông sâu, biển rộng, núi non hiểm trở, rừng rậm, cây cao...
và lẽ đó nhiên là con người phải lệ thuộc vào chúng để tồn tại. Từ đó làm phát sinh
tâm lý hay tình cảm trong con người đối với giới tự nhiên: "Điều mục đầu tiên của tôi
trong Bản chất của tôn giáo có thể nói một cách vắn tắt là: cơ sở của tôn giáo là tình
cảm về sự lệ thuộc của con người. Trong ý nghĩa đầu tiên, giới tự nhiên chính là đối
tượng của tình cảm lệ thuộc này. Vì vậy, giới tự nhiên nói chung là khách thể đầu tiên
của tôn giáo". Từ trước tới giờ đối tượng của các bài giảng của tôi chính là ở chỗ, tình
cảm về sự lệ thuộc chính là cơ sở và nguồn gốc của tôn giáo... còn đối tượng của sự lệ
thuộc đó chính là giới tự nhiên". Vậy tại sao giới tự nhiên lại trở thành đối tượng đầu
tiên bắt buộc con người phải lệ thuộc Phơi-ơ-bắc giải thích như sau:
Thứ nhất, giới tự nhiên là đối tượng cảm giác trực tiếp của con người, là cái
tác động hàng ngày, hàng giờ lên các giác quan nhận biết của con người: "cái bắt
con người, lệ thuộc, cái mà con người cảm thấy lệ thuộc, cái mà từ đó con người
biết được sự lệ thuộc của mình chính là giới tự nhiên, là đối tượng của cảm giác, tất
cả những ấn tượng mà giới tự nhiên tạo ra cho con người thông qua các cảm giác
đều có thể trở thành lý do của sự sùng bái tôn giáo".
Thứ hai, giới tự nhiên còn bắt nguồn từ việc trong quá trình sống, do thể chất
yếu ớt của mình, con người thường có tâm lý sợ hãi các hiện tượng của giới tự
nhiên, dẫn đến tình trạng bất lực trước các hiện tượng đó: "Quan niệm về sức mạnh
vô biên như là đặc tính cơ bản của thần thánh xuất hiện và phát triển trong con

người đặc biệt khi con người so sánh hành động của mình với hành động của tự
nhiên. Con người không thể tạo nên cây cỏ, không làm nên bão tố và thời tiết, không

Học viên Hoàng Đức Toản

Trang 10


Tiểu luận triết học

thể làm sáng lóe như chớp, gào thét như sấm... tất cả những hiện tượng tự nhiên này
vượt trội sức mạnh của con người, làm cho con người cảm thấy bất lực. Chính vì
vậy, thực thể tạo nên các hiện tượng đó đối với con người là một thực thể siêu nhân thực thể có tính thần thánh".
3. Quan điểm về xã hội
Xây dựng quan điểm xã hội học nhân đạo trên cơ sở đạo đức học. Ở đây,
Phơi-ơ-bắc chịu ảnh hưởng của phong trào ánh sáng (Montesquieu, Voltaire...) và
chủ nghĩa duy vật pháp thế kỷ XVIII. Từ khẩu hiệu tự do - bình đẳng - bắc ái
Feuerbach đã nêu lên tuyên ngôn nổi tiếng: “hãy thống nhất mọi người trên tinh thần
nhân bản!)
Con người bình đẳng như chính thiên nhiên tạo ra. Vấn đề này trong triết học
cận đại đề cập nhiều, nhưng đến Feuerbach mang thêm nhiều nét đặc trưng, thể hiện
tâm trạng của tầng lớp tiến bộ trong giai cấp tư sản Đức. Nếu con người bình đẳng
với nhau theo bản chất tự nhiên của mình, thì mọi đặc quyền đặc lợi đẳng cấp trên
đều trái với tự nhiên, do đó cần phải loại trừ.
Con người do thiên nhiên tạo ra để sống và hưởng thụ chứ không phải để đau
khổ. Quan niệm như vậy có lẽ còn thua các nhà duy vật Pháp. Cả Diderot lẫn
Hollbach đều đòi quyền tự do hoạt động kinh tế như quyền tự do của con người
trong xã hội công dân. Feuerbach hầu như không quan tâm đến cơ cấu kinh tế - xã
hội hiện thực mà ở đó một giai cấp này thống trị một giai cấp khác, không nhìn thấy
mối liên hệ giữa áp bức và bóc lột với chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.

Trong khi xem xét con người như một thực thể tự nhiên, Phơi-ơ-bắc cố gắng vạch ra
những điều kiện tồn tại tự nhiên của con người trong phạm vi xã hội tư sản, ảnh
hưởng của nó tới hoạt động sáng tạo của nhân cách cá thể. Ông tỏ ra hài lòng với
trật tự xã hội tư sản, nơi mà theo ông, con người đạt tới hạnh phúc một cách dễ
dàng, nói cách khác, con người có thể yên tâm với địa vị hiện tại. “Tất cả các sự vật,
ngoài trừ những trường hợp phản tự nhiên - vui lòng ở nơi mà chúng có, và vui lòng

Học viên Hoàng Đức Toản

Trang 11


Tiểu luận triết học

trở thành cái mà nó có”. Đó là sự biện hộ cho xã hội tư sản, một sự biện hộ vô hình
mà nhà triết học không để ý.
4. Quan điểm về tôn giáo
Tìm hiểu, đánh giá một cách toàn điện về nguồn gốc phát sinh của tôn giáo,
Feuerbach có cơ sở khoa học để đi đến kết luận: "Không phải Thượng đế đã sáng tạo
nên con người theo hình đáng của mình như đã miêu tả trong Kinh thánh, mà chính
con người đã sáng tạo nên Thượng đế theo hình dáng của mình... mọi Thượng đế
đều là tồn tại được sáng tạo nên bằng tư tưởng tượng. Con người u sầu, ốm yếu phản
ánh tâm trạng của mình trong hình ảnh một Thượng đế tương tư, con người vui vẻ
thì ngược lại, họ miêu tả Thượng đế với bộ mặt tươi tỉnh, sáng ngời. Tính đa dạng
của con người quy định tính đa dạng của Thượng đế". Như vậy, có thể nói một cách
ngắn gọn rằng, Feuerbach đã truy tìm bản chất của tôn giáo trong bản chất của con
người, ông viết. "Bản chất thần thánh không là cái gì khác như là bản chất con
người, bản chất đó đã được gột rửa, được giải phóng khỏi những giới hạn cá nhân,
nghĩa là khỏi những con người vật lý hiện thực, được khách quan hoá, được nhìn
nhận như một bản chất độc lập xa lạ. Bởi vậy, mọi sự xác đinh về bản chất thần

thánh đều có liên quan đến việc xác định bản chất con người. Dựa trên những khảo
cứu lịch sử hiện thực của nhân loại, Feuerbach thấy rằng trong thực tế thường diễn
ra sự thù địch giữa tôn giáo này với tôn giáo khác, sự thù địch giữa người theo đạo
và kẻ dị giáo. Hơn nữa có những người có chức sắc tôn giáo cao trong giáo hội,
song họ vẫn có nhũng hành vi phi đạo đức. Từ đó ông lên tiếng phản đối quan điểm
của các nhà thần học cho rằng dường như phủ định thương đế là một bước dẫn tới sự
tiêu diệt quan hệ đạo đức.

Học viên Hoàng Đức Toản

Trang 12


Tiểu luận triết học

CHƯƠNG III
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHƠI-Ơ-BẮC

1. Giá trị
Đã để lại cho di sản văn hóa nhân loại vô cùng quý giá. Là một người có tư
tưởng cách tân triết học, Phơi-ơ-bắc cho rằng triết học là một khoa học về thực tại
trong chân lý và tính tổng thể của nó. Tính tổng thể của thực tại không là gì khác
ngoài giới tự nhiên, và điều này chỉ biết được nhờ sự cảm nhận thông qua sự tác
động của các hiện tượng khác từ bên ngoài. Điều này không có nghĩa là triết học
phải hy sinh cho những khoa học chuyên biệt cụ thể như toán, lý, hóa, sinh, tâm lý,
sinh lý học. Bên cạnh đó Phơi-ơ-bắc còn đưa ra nhiều nét độc đáo trong chủ nghĩa
vô thần trong tư tưởng triết học của mình Phơi-ơ-bắc đều viết về tôn giáo, và khi
viết về mảng này thì ông nghiên cứu phán xét tôn giáo là cơ sở, điều kiện tất yếu để
khám phá bản tính của con người và ngược lại. Nghiên cứu một cách căn bản lịch sử
hình thành và phát triển của tôn giáo đã cho Phơi-ơ-bắc cơ sở lý luận vững vàng để

khẳng định rằng: Chủ nghĩa phiếm thần và tôn giáo đa thần phản ánh sự lệ thuộc của
con người vào giới tự nhiên cũng như nhân cách hóa các hiện tượng tự nhiên, từ đó
mà phát sinh ra biểu tượng về thần sông, thần núi... như đã miêu tả trong thần thoại
Hy Lạp. Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phơi-ơ-bắc là đóng góp to lớn vào cuộc
đấu tranh chống lại việc giải thích duy tâm, nhị nguyên luận, thậm chí cả chủ nghĩa
duy tâm tầm thường về vấn đề con người.
2. Hạn chế

Phơi-ơ-bắc có công lao to lớn trong viêc chống lại chủ nghĩa Hê-ghen
song thiếu sót lớn nhất của Phơi-ơ-bắc trong vấn đề này là không biết kế thừa hạt
nhân hợp lý của triết học Hê-ghen là phép biện chứng. Phơi-ơ-bắc đã đạp tan hệ
Học viên Hoàng Đức Toản

Trang 13


Tiểu luận triết học

thống triết học của Hê-ghen và chỉ đơn thuần gạt nó sang một bên thôi. Song chỉ
tuyên bố một triết học nào đó là sai lầm thì chưa có nghĩa là chiến thắng. Như
Ăng-ghen đã nói: “phải tiêu diệt hình thức của nó bằng phê bình, nhưng cứu lấy
nội dung mới mà nó đạt được”. Triết học của Phơi-ơ-bắc có những hạn chế sau:
- Ông có thái độ phủ định sạch trơn, không thấy được thành tựu quý giá
của Hê-ghen là phép biện chứng đã kế thừa và phát triển. Ông hiểu tính quy
luật, tính tất yếu, tính nhân quả... một cách siêu hình. Cho nên chủ nghĩa duy
vật nhân bản của ông còn mang nặng tính siêu hình. Trong lý luận nhận thức,
Phơi-ơ-bắc đã tiếp tục truyền thống cảm giác luận duy vật, chống lại thuyết
không thể biết và lối tư biện trừu tượng. Ông không phủ nhân vai trò của tư
duy trong nhân thức, nên chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phơi-ơ-bắc chưa
thoát khỏi tính trực quan của chủ nghĩa duy vật trước Mác.

- Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phơi-ơ-bắc còn không triệt để, vì ông
hiểu con người chỉ là những cá nhân trừu tượng, là thực thể thuần túy tự nhiên
- sinh vật. Ông không thấy được mặt xã hội của con người trong hoạt động
biến đổi hiện thực.
- Những hạn chế của nguyên tắc duy vật trong thế giới quan của Phơi-ơbắc còn thể hiện rõ trong việc nghiên cứu tôn giáo và đạo đức. Ở lĩnh vực này,
ông lại rơi vào lập trường duy tâm thể hiện trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo
và ý định đưa ra nguyên tắc đạo đức chung cho mọi dân tộc, mọi thời đại lịch sử.
- Phơi-ơ-bắc muốn phá bỏ những ảo ảnh duy tâm, chứng tỏ rằng đời
sống nhân loại là chân lý của những ý nghĩa siêu nhiên. Nhưng lý thuyết của
ông còn mang tính trừu tượng, vì chỉ nói đại cương rằng chính nhân đức là nội
dung chân thực của thần đức, nhưng không giải thích cụ thể vì sao bấy nhiêu
hình thức siêu nhiên đã xuất hiện trong lịch sử. Sở dĩ là chưa tìm được phương

Học viên Hoàng Đức Toản

Trang 14


Tiểu luận triết học

cách thiết thực để định nghĩa nội dung đời sống nhân loại, vậy không có cách
giải quyết các vấn đề cụ thể.
Kết luận: Mặc dù còn những hạn chế, triết học của Phơi-ơ-bắc vẫn có ý nghĩa to lớn
trong lịch sử triết học và trở thành một trong những nguồn gốc lý luận quan trọng của triết
học Mác.

CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN
Tuy chỉ tồn tại trên diễn đàn tư tưởng hơn một thế kỷ, song triết học cổ điển
Đức đã có nhiều đóng góp cho lịch sử triết học nhân loại và gây nên một tiếng vang
lớn về phương diện chính trị - xã hội - giáo dục.

Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phơi-ơ-bắc phản ánh tiếng nói tri ân của thời
đại khai sáng, đang bước sang phần kết của nó - đó là một giai đoạn lịch sử mà con
người vươn lên đòi quyền sống của mình, đòi lại tất cả những gì mình bị chế độ
phong kiến chuyên chế và giáo hội tước đoạt trước đó. Dưới ảnh hưởng của nhiều
trường phái sinh lý học đương thời, Phơi-ơ-bắc đã tiếp cận con người như một thực
thể sinh học, theo ông con người có đầy đủ mọi khát vọng tự nhiên như ăn, uống,
sinh hoạt giới tính, biểu hiện tâm tư tình cảm, ước muốn,... những nhu cầu tự nhiên
đó của con người là cơ sở sinh học tạo nên đời sống hiện thực vốn có của nó.
Mặc dù đạt được khá nhiều thành tựu trong sự nghiệp nghiên cứu khoa học của
mình, song Phơi-ơ-bắc chưa thể nào “thoát khỏi vương quốc của sự trừu tượng, để đi
tới hiện thực sinh động”. Trên phương diện lý luận, Phơi-ơ-bắc lớn tiếng phê phán tôn
giáo và chủ nghĩa duy tâm, song thực tế, ông vẫn chưa thể trút bỏ bộ áo thâm chùng
của giáo hội ban tặng và chiếc mũ duy tâm tự biện của triết học Hê-ghen.

Học viên Hoàng Đức Toản

Trang 15


Tiểu luận triết học

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Triết học (tập 1, 2, 3) - Dùng cho Nghiên cứu sinh
và Học viên cao học không thuộc chuyên ngành Triết học. NXB Chính trị
Quốc gia – năm 2001.
2. Giáo trình Triết học – Nhà xuất bản Lý luận chính trị (2006)
3. Hệ tư tưởng Đức – Nhà xuất bản sự thật - năm 1977.
Các Mác, Phri đích Ăng-ghen – Tuyển tập (Tập 6) – NXB Sự thật – năm
1984.

4. Phoi-ơ-bắc sự đối lập giữa quan điểm duy vật chủ nghĩa và quan điểm duy
tâm chủ nghĩa-Nhà xuất bản sự thật- năm 1977.
5. Website trên Internet:
-
-

Học viên Hoàng Đức Toản

Trang 16


Tiểu luận triết học

MỤC LỤC

Lời mở đầu ……………………………………………………………………. 1
Chương I: Lịch sử ra đời chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach…………….. 2
1)
2)
3)
4)

Tiểu sử Feuerbach ……………………………………………………… 2
Sơ lược về lịch sử & Triết học cổ điển Đức …………………………..... 2
Chủ nghĩa duy tâm của Heghen ………………………………………….4
Vài nét sơ về Chủ nghĩa duy vật của Feuerbach ………………………....5

Chương II: Nội dung chính của Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach
1) Quan điểm về con người……………………………………………….….6
a) Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên…………………………..….6

b) Mối quan hệ giữa tư duy & tồn tại…………………………………......7
c) Mối quan hệ giữa con người với con người …………………………...8
d) Mối quan hệ giữa người & thần …………………………………….…8
2) Quan điểm về tự nhiên ………………………………………………….. 10
3) Quan điểm về xã hội ….………………………………………………......11
4) Quan điểm về tôn giáo ………………………………………………........11
Chương III: Những giá trị & hạn chế của Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach
1) Giá trị……………………………………………………………………..13
2) Hạn chế …………………………………………………………………..13
Chương IV: Kết luận …………………………………………………………...15
Tài liệu tham khảo………………………………………………………….…….16

Học viên Hoàng Đức Toản

Trang 17



×