Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiểu luận Triết họcCHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.3 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC


Tiểu luận triết học
Đề tài nhóm 6:
“CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP
CỔ ĐẠI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ”


SVTH : NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH
STT : 052
LỚP : ĐÊM 5
KHÓA : CAO HỌC-K21
GVHD : T.S BÙI VĂN MƯA
Tp. HCM, Tháng 02 Năm 2012.
GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO 2
PHẦN MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY TÂM
KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI 4
1.1. Hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại: 4
1.2. Những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại: 4
1.2.1. Triết gia Xôcrát [Socrate (469 – 399 TCN)]: 5
1.2.2. Triết gia Platông [Platon (427 – 347 TCN)]: 6
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ
ĐẠI 10
2.1. Những giá trị của chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại 10
2.2. Những hạn chế của chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại: 14
KẾT LUẬN 17


TÀI LIỆU THAM KHẢO 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
SVTH: NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH 2 LỚP CAO HỌC: K21-ĐÊM 5
GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
PHẦN MỞ ĐẦU
Lịch sử nhân loại đã trải qua nhiều chặng đường huy hoàng với nhiều nền
văn minh của nhiều dân tộc phương Đông (Ai Cập, Babilon…) đã báo hiệu khả
năng sáng tạo vô tận của loài người. Nền văn minh Hy Lạp ra đời là một minh
chứng cho khả năng ấy, tuy ra đời muộn hơn nhưng rực rỡ hơn vào khoảng
những thế kỷ giữa của thiên niên kỷ I tr.CN. Nền văn minh Hy Lạp tiêu biểu cho
sức sống mạnh mẽ của nhân loại, nó là cái mốc lớn của lịch sử loài người từ thời
tiền sử bước vào thời đại văn minh. Không những vậy, chúng còn là cơ sở hình
thành nên nền văn minh phương Tây hiện đại, đúng như Ăngghen đã nhận xét:
“Không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì không có Châu Âu hiện
đại”[3, tr.397]. Trong nền văn minh ấy, đặc biệt, phải kể đến triết học - một
trong những di sản đồ sộ và sâu sắc mà người Hy Lạp cổ đại đã để lại.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại ra đời như một đơn đặt hàng
của lịch sử nhân loại. Trong lịch sử triết học Tây Phương, nếu Thales là triết gia
đầu tiên vì ông bắt đầu nhìn ra thế giới thì Xôcrát là triết gia và là hiền giả vĩ đại
nhất vì ông nhìn vào con người. Ông đã bước ra khỏi cõi huyền thoại với những
vị thần linh để đưa con người vào thế giới của vũ trụ, mà ở đấy các vấn đề nhân
sinh, như giá trị của con người, tri thức và đức hạnh được đề cao. Học trò xuất
sắc của Xôcrát là Platông-một nhà triết gia vĩ đại, cũng đã kế thừa và phát triển
hơn nữa những tư tưởng đó. Để tìm hiểu sâu hơn về những tư tưởng cơ bản,
những giá trị và hạn chế của trường phái triết học duy tâm khách quan này, người
viết chọn đề tài: “Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại và những
giá trị, hạn chế của nó”. Với tài liệu tham khảo chính là 1) Bùi Văn Mưa chủ
biên, Triết học – Phần 1 – Đại cương về lịch sử triết học (tài liệu dùng cho học
viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học của trường
Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh), 2011, 2) Hà Tiên Sơn, Lịch sử triết

học, NXB Trẻ, 2004, 3) Will Durant, Câu chuyện triết học, Trí Hải và Bửu
Đích biên dịch, NXB Văn hóa thông tin, 2008 và một số trang web khác.
SVTH: NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH 3 LỚP CAO HỌC: K21-ĐÊM 5
GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1. Hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại:
Hy lạp cổ đại là một quốc gia có khí hậu ôn hòa và rộng lớn bao gồm phần
đất liền và vô số hòn đảo lớn nhỏ trên biển Êgiê, vùng duyên hải Bancăng và
Tiêu Á. Chính sự thuận lợi về thiên nhiên và địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp
nhanh chóng phát triển các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị
văn hóa. Văn minh Hy Lạp cổ đại phát triển rất rực rỡ, nó phong phú trong các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học, văn học, nghệ thuật, và đặc biệt là về triết học.
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh chuyển biến lâu dài và sâu sắc các
quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử-chế
độ chiếm hữu nô lệ. Như Ăng-ghen đã nói: “Nếu không có chế độ nô lệ, thì cũng
không có nhà nước Hy Lạp, không có khoa học và nghệ thuật Hy Lạp”[8].
Do triết học Hy Lạp cổ đại gắn liền với lịch sử ra đời của nền chính trị Hy
Lạp cổ đại và phản ánh lịch sử của đất nước này. Do vậy, lịch sử triết học Hy
Lạp cổ đại chia làm ba thời kỳ: thời kỳ hình thành, thời kỳ cực thịnh và thời kỳ
suy tàn. Xuyên suốt ba thời kỳ ấy là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm mà đỉnh cao là cuộc đấu tranh giữa đường lối duy vật của
Đêmôcrít và đường lối duy tâm của Platông.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử
triết học Hy Lạp-La Mã cổ đại chứng tỏ rằng, ngay từ đầu, lịch sử triết học là lịch
sử đấu tranh giữa hai thế giới quan, hai phương pháp luận đối lập nhau. Cuộc đấu
tranh ấy phản ánh lợi ích của những tầng lớp, những giai cấp khác nhau trong xã
hội có giai cấp đối kháng.
1.2. Những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ
đại:

Trường phái duy tâm khách quan thể hiện lập trường chính trị của tầng lớp
chủ nô bảo thủ chống lại nền dân chủ Aten và hệ thống triết học duy vật của
SVTH: NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH 4 LỚP CAO HỌC: K21-ĐÊM 5
GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
trường phái nguyên tử luận. Trường phái này do Xôcrát đặt nền móng và Platông
- học trò của ông hoàn thiện.
1.2.1. Triết gia Xôcrát [Socrate (469 – 399 TCN)]:
Xôcrát khác với các nhà triết học khác, ông không hướng về nghiên cứu tự
nhiên mà chuyên tâm nghiên cứu về con người. Như triết gia La Mã Cicéron đã
nhận xét: “Xôcrát đã đưa triết học từ trên trời xuống đất và ông đã để nó sống
trong thành phố, bước vào các ngôi nhà bằng cách buộc con người phải suy nghĩ
về cuộc sống, về phong tục tập quán, về điều thiện, điều ác”[9]. Xuất phát từ
quan niệm này, ông dành phần lớn công sức nghiên cứu triết học về nhân bản, về
con người và về đạo đức, ông đã nói với các học trò rằng không nên đặt vấn đề
nghiên cứu tự nhiên, vì giới tự nhiên đã được thần thánh an bài cả rồi, nếu cố
công khám phá giới tự nhiên là xúc phạm đến thần thánh, thần thánh ở khắp mọi
nơi, có sức mạnh kỳ diệu, sáng tạo ra thế giới, có thể nhìn thấy tất cả, nhưng
không thích con người phát hiện ra mình.
Do vậy Xôcrát cho rằng triết học không có gì khác hơn là sự nhận thức của
con người về chính bản thân mình “con người hãy nhận thức chính mình”, từ đây
con người trở thành một trong những chủ đề trọng tâm nghiên cứu về triết học.
Theo ông ý thức của con người trong cuộc đàm thoại, ngoài yếu tố chủ quan, còn
có một nội dung khách quan, có tri thức phổ biến mang tính tổng quát. Đó là
những tri thức chung mà mỗi con người chúng ta có được bằng nỗ lực của mình.
Xôcrát cho rằng tri thức chung đó là chân lý khách quan thu được trong các cuộc
đàm thoại mà ai cũng phải thừa nhận. Nên ý kiến chủ quan của mỗi người không
phải là tiêu chuẩn của chân lý. Theo ông khám phá ra chân lý đích thực về bản
chất sự vật tức là phải hiểu nó có khái niệm. Nếu không có khái niệm xem như
không có tri thức. Một vấn đề được lý luận rõ ràng, có lô gíc sẽ dễ thuyết phục số
đông hơn.

Nhận thức luận của ông chủ yếu là thể hiện qua đạo đức của con người.
Đạo đức học của ông mang tính chất duy lý, ông thừa nhận Đạo Đức và Tri Thức
SVTH: NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH 5 LỚP CAO HỌC: K21-ĐÊM 5
GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
thống nhất là một “Mỗi điều thiện đó là tri thức và mỗi điều ác đó là sự dốt nát”,
mỗi hành vi vô đạo đức đều là kết quả của sự dốt nát của chúng ta. Ông cho rằng
cái thiện phổ biến là cơ sở của đạo đức, là tiêu chuẩn của đức hạnh, muốn tuân
thủ theo cái thiện thì phải nắm bắt được nó, hiểu nó, để phát hiện được cái phổ
biến, phải có phương pháp tìm ra chân lý thông qua các cuộc tranh luận. Theo
Xôcrát có 4 phương pháp là: mỉa mai, đỡ đẻ, quy nạp, và xác định…
Xôcrát là người khởi xướng ra phép biện chứng, theo nghệ thuật tranh luận,
ông có tài thuyết phục và gây hào hứng cho những người đàm thoại, từ đó rút ra
chân lý. Ông đã dùng hình thức vấn đáp để khảo sát những lời phát biểu, bằng
cách tra xét định nghĩa, đào sâu khái niệm, truy nã nội hàm của chúng, với giả
định rằng một lời phát biểu đúng không thể nào dẫn đến hệ quả sai.
Triết học Xôcrát là một bước ngoặt trong lịch sử triết học phương Tây cổ
đại với việc coi con người là trung tâm của các vấn đề thế giới quan. Đánh giá
cao điều đó, Mác đã gọi các quan niệm của Xôcrát là “biểu tượng của triết học”.
1.2.2. Triết gia Platông [Platon (427 – 347 TCN)]:
Platông là nhà triết học duy tâm cổ Hy Lạp, được coi là người mở đầu siêu
hình học phương Tây, là một trong những nhà triết học, nhà tư tưởng kiệt xuất
nhất thời cổ đại, người sáng lập chủ nghĩa duy tâm khách quan. Ông là học trò
nổi tiếng nhất của Xôcrát. Các nhà triết học sau này, khi nghiên cứu về nền triết
học phương Tây cổ đại, đều thống nhất nhận định: “Người kế thừa duy nhất
Xôcrát chính là Platông”.
Platông là người đầu tiên trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, xây dựng hệ
thống hoàn chỉnh của chủ nghĩa duy tâm khách quan. Điểm nổi bật trong hệ
thống triết học duy tâm của ông là học thuyết về ý niệm với giá trị bên trong là
phép biện chứng của khái niệm và nhiều tư tưởng sâu sắc khác về đạo đức- chính
trị- xã hội.

- Thuyết ý niệm: Platông chia thế giới làm hai loại: Thế giới ý niệm (là thế
giới tồn tại chân thực, bất biến, vĩnh viễn, tuyệt đối, là cơ sở tồn tại của thế giới
SVTH: NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH 6 LỚP CAO HỌC: K21-ĐÊM 5
GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
các sự vật cảm tính) và thế giới của các sự vật cảm tính (là thế giới tồn tại không
chân thực, thường xuyên biến đổi, phụ thuộc vào thế giới ý niệm, do các ý niệm
sản sinh ra). Theo ông, thế giới ý niệm là nguyên mẫu, nó có trước và thế giới vật
chất là cái được sinh ra, nó là thế giới cảm tính. Thế giới vật chất chẳng qua là
cái bóng, là sự mô phỏng, bắt chước thế giới ý niệm, thế giới ý niệm quyết định
thế giới vật chất, không có thế giới ý niệm thì không có thế giới vật chất.
Theo Platông, sự hình thành thế giới sự vật xãy ra gắn liền với bốn yếu tố
cơ bản là tồn tại (ý niệm), không tồn tại (vật chất), con số (quan hệ tỷ lệ), sự vật
cảm tính. Sự tồn tại của ý niệm thông qua quan hệ các con số tác động vào sự
không tồn tại của vật chất sinh ra sự vật cảm tính. Các con số là một dạng bản
chất độc lập đặc biệt chiếm vị trí trung gian ở giữa ý niệm và sự vật cảm tính, sự
khác nhau giữa các sự vật là do khác nhau về quan hệ toán học, do những con số
quyết định.
Ngoài ra, theo Platông, thần linh là thước đo của vạn vật. Con người là sự
kết hợp của thể xác khả tử với linh hồn bất tử. Linh hồn của con người là sản
phẩm của linh hồn vũ trụ được Thượng đế tạo ra. Hoạt động cơ bản của linh hồn
là nhận thức. Nhận thức chân lý (ý niệm) là cơ sở để con người có được hành vi
đạo đức và hành vi đạo đức của con người là chỗ dựa cho các hoạt động chính
trị-xã hội.
- Quan niệm về nhận thức: Lý luận nhận thức và học thuyết về linh hồn của
Platông được xây dựng trên cơ sở bản thể luận duy tâm khách quan mà cốt lõi
của chúng là học thuyết về ý niệm và học thuyết về sự tồn tại độc lập của linh
hồn bất tử. Ông cho rằng, nhận thức cảm tính không phải là nguồn gốc của tri
thức chân thực, mà tri thức chân thực - nhận thức ý niệm - chỉ có thể đạt được
bằng nhận thức lý tính và thể hiện trong khái niệm. Theo ông, mọi tri thức phải
có tính khái quát cao. Sự nhận thức của con người không phải là sự phản ánh thế

giới vật chất mà là sự hồi tưởng của linh hồn bất tử, hồi tưởng lại những gì mà
linh hồn bất tử đã quên đi khi nằm trong thế giới ý niệm. Linh hồn bất tử vốn
thuộc về thế giới ý niệm, khi đó nó biết hết tất cả những gì thuộc về thế giới ý
SVTH: NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH 7 LỚP CAO HỌC: K21-ĐÊM 5
GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
niệm nhưng vì thế giới ý niệm luôn vận động nên linh hồn bất tử vận động xuống
mặt đất, nhập vào con người, biến con người từ một thực thể bất động vô tri, vô
giác thành một cơ thể năng động và có tri giác. Nhưng cũng từ đó linh hồn bất tử
quên hết những gì biết được ở thế giới ý niệm, khi nó hồi tưởng những gì đã biết
tạo ra sự nhận thức. Phương pháp kích thích sự hồi tưởng lại thề giới ý niệm đó
là thuật logic đàm thoại – Platông gọi là phép biện chứng. Ông quan niệm đó là
nghệ thuật so sánh và phân tích những khái niệm trong khi tranh luận. Vì vậy.
Platông cho rằng, những ý kiến xác thực được khơi dậy nhờ các câu hỏi thì sẽ
thành tri thức.
- Quan niệm về đạo đức: Xuất phát từ đạo đức học duy lý, Platông cho
rằng, sống hạnh phúc là sống có đạo đức. Sống có đạo đức là làm điều thiện.
Hành vi hướng thiện là hành vi không dựa trên khoái lạc, lợi thú chủ quan mà là
hướng đến những ý tưởng tuyệt đối khách quan thuộc về thế giới ý niệm ở trên
trời. Con người chỉ nhận thức được những ý tưởng này bằng lý trí. Theo Platông,
con người muốn sống hạnh phúc phải dùng lý trí để chiêm nghiệm những ý
tưởng và khắc phục những dục vọng vật chất thấp hèn, giúp linh hồn thoát khỏi
cùm gông của nhà tù thể xác. Dục vọng phải phục tùng trái tim, trái tim phải làm
theo khối óc là điều kiện tiên quyết để sống hạnh phúc… Như vậy theo Platông,
con người không thể tìm thấy hạnh phúc cho riêng mình ở xung quanh mình,
dưới trần gian, con người chỉ có thể đạt được hạnh phúc trong thế giới ý niệm, ở
trên trời, sau khi chết. Quan niệm về đạo đức đầy tính chất duy tâm thần bí của
Platông là cơ sở cho nền đạo đức Thiên chúa giáo sau này.
- Quan điểm về chính trị - xã hội: Toàn bộ những tư tưởng về chính trị xã
hội của Platông được gói gọn trong mô hình “Quốc gia lý tưởng” mà ông đã dày
công gày dựng suốt cả cuộc đời. Trong quốc gia lý tưởng đó, mọi người được

sống hạnh phúc, đầy đủ và thỏa mãn với những gì mà họ đã tạo ra: “Người ta sẽ
sản xuất lúa, rượu, áo quần, giày dép, nhà cửa. Họ sẽ làm việc lưng trần trong
mùa hạ và mang áo ấm trong mùa đông. Họ tự nuôi sống bằng lúa mì, xay bột,
SVTH: NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH 8 LỚP CAO HỌC: K21-ĐÊM 5
GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
bánh nướng, họ ngồi ăn trên chiếu hoặc trên lá, ngã lưng vào giường hoặc vào
thân cây. Họ ăn uống với gia đình, uống rượu do họ tự làm lấy…” [16].
Theo Platông, đã có ba hình thái nhà nước là: hình thái nhà nước quân chủ,
hình thái nhà nước quân phiệt, và hình thái nhà nước dân chủ đã tồn tại trước đó
và đều xấu xa, tồi tệ. Theo ông, thể chế nhà nước lý tưởng nhất là nhà nước cộng
hoà vì nó được xây dựng với ba đẳng cấp là: đẳng cấp cai trị, đẳng cấp vệ quân,
đẳng cấp nông dân và thợ thủ công. Ông cho rằng giai cấp nô lệ không thuộc một
đẳng cấp nào hết vì họ không phải là con người, họ chỉ là một động vật biết nói
tiếng người, là một công cụ biết nói, họ không có một quyền nào khác ngoài
quyền được tự do làm nô lệ cho người khác. Quan điểm về chính trị - xã hội của
Platông chứa đầy tính bảo thủ và mâu thuẫn.
Cuộc đời của Platông là cuộc đời của một nhà bác học quên mình. Suốt đời
ông nghiên cứu miệt mài, viết sách và dạy học. Hêghen, nhà triết học nổi tiếng
Đức đã gọi ông là “Nếu ai đạt được danh hiệu là người thầy của nhân loại thì
người đó là Platông”.
SVTH: NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH 9 LỚP CAO HỌC: K21-ĐÊM 5
GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY
TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI
2.1. Những giá trị của chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại
a/ Thực hiện đơn đặt hàng của lịch sử:
Trường phái duy tâm Hy Lạp cổ đại lúc đầu xuất hiện dưới hình thức ngụy
biện và lập thành một trường phái gọi là phái ngụy biện. Theo trường phái ngụy
biện, cho rằng mọi nhận thức đều có tính chủ quan, "con người là thước đo của
mọi sự vật". Như thế có nghĩa là chủ trương mỗi cá nhân đều có thể căn cứ vào

trực giác của mình để giải thích thế giới. Mặt khác, phái ngụy biện còn cho rằng
"tồn tại không tồn tại". Nếu có cái gì thực sự tồn tại chăng nữa thì cũng không
thể dùng ngôn ngữ để diễn tả được, vì ngôn ngữ không đủ để diễn tả tư tưởng.
Từ đó, kết luận chân lý là không có.
Và dĩ nhiên là thuyết tương đối, thái độ hoài nghi và chủ nghĩa cá nhân của
trường phái ngụy biện đã làm dấy lên một làn sóng phản đối đương thời. Một số
người Hy Lạp bảo thủ còn cho rằng điều đó dường như dẫn đến tình trạng vô
chính phủ và vô thần. Nếu chân lý và những điều tốt hay công lý chỉ mang tính
tương đối với ý nghĩ chợt nảy ra trong tâm trí của một con người thì tôn giáo,
những nền tảng đạo đức, nhà nước hay xã hội đều không thể duy trì được lâu dài.
Kết quả của sự thú nhận đó là sự ra đời và phát triển của phong trào triết học mới
mà những người đứng đầu là Xôcrát, Platông [6, tr.61]. Chủ nghĩa duy tâm khách
quan của hai ông cho rằng chân lý và ý niệm tuyệt đối là thực sự tồn tại, đồng
thời nâng sự lý giải vấn đề đạo đức – chính trị lên trình độ khái niệm, chứng
minh tính chất khách quan của đức hạnh, chính trị, pháp quyền để đối lập với chủ
nghĩa tương đối của trường phái ngụy biện.
b/ Đạo đức lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại được đề cập và đặt nền tảng
vững chắc:
Xuất phát từ việc thừa nhận tri thức khách quan, Xôcrát đi đến khẳng định
tính khách quan của các chuẩn mực đạo đức. Ông cho rằng đức hạnh là cái thiện,
SVTH: NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH 10 LỚP CAO HỌC: K21-ĐÊM 5
GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
là sự am hiểu bản ngã-“cái tôi” chân chính. Chỉ có người nào biết đức hạnh là gì
mới thực sự được hạnh phúc. Cái ác và bất hạnh là kết quả của sự không hiểu
biết cái thiện. Con đường đi đến tri thức cũng chính là con đường hoàn thiện
nhân cách đạo đức của con người, con đường hướng con người tới cái thiện và
hạnh phúc.
Như vậy, nhận thức chân lý, tri thức là nền tảng đạo đức học của ông. Công
lao của ông là đã bước đầu nhận thấy mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong
hoạt động đạo đức của con người. Sự đóng góp của Xôcrát đã làm nên một bước

chuyển mới: nền triết học Hy Lạp cổ đại thay đổi từ nguyên lý vũ trụ sang
nguyên lý nhân minh. Để tôn vinh những giá trị của tư tưởng Xôcrát đối với sự
phát triển trong lịch sử, triết học Hy Lạp cũng đã lấy ông làm tiêu chí để phân kỳ.
Môn đệ của ông - là Platông cũng giúp ta có cái nhìn sâu sắc hơn về vấn đề
đạo đức. Đạo đức của Platông được xây dựng dựa trên cơ sở học thuyết về linh
hồn, theo Platông linh hồn có 3 bộ phận là lý trí, ý chí và nhục dục. Platon cho
rằng lý tính của linh hồn là cơ sở của sự thông thái, ý chí là cơ sở của lòng dũng
cảm, chế ngự nhục dục là cơ sở của sự điều độ. Sự thông thái là một đức tính cao
nhất, sự kết hợp 3 yếu tố trên dưới sự chỉ đạo của lý tính sẽ tạo ra chính nghĩa là
yếu tố thứ tư. Lý tính, ý chí, chế ngự dục vọng và chính nghĩa là bốn yếu tố trong
đạo đức học của Platon. Như vậy, đạo đức học của Platon hướng con người vào ý
niệm tối cao của cái thiện, đó là sự thông thái và lòng dũng cảm.
c/ Tạo nền tảng triết lý cho những người Thiên Chúa, một số người Do Thái
giáo và một số triết học gia sau này:
Quan niệm về con người và linh hồn của Platông được những người Thiên
Chúa và một số người Do Thái giáo rất ngưỡng mộ. Platông cho rằng bản chất
con người như hai nhánh rẽ vào linh hồn và thể xác. Hai thực thể này nhập chung
vào nhau khi con người được sinh ra đời. Khi chết, linh hồn tách ra khỏi thể xác
và bay trở về với Thượng đế. Khoảng nửa thế kỷ sau cái chết của chúa Jesus
(năm 37 sau Thiên chúa), những lời thuyết giảng của Chúa Jesus được viết lại
SVTH: NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH 11 LỚP CAO HỌC: K21-ĐÊM 5
GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
theo hình thức triết lý của Platông và chi phối toàn bộ thần học Cơ Đốc đến thế
kỷ thứ 13 và ngày nay phần nào vẫn còn phổ biến [13, tr.36].
Ý niệm về thiên đàng và địa ngục cùng những huyền thoại mà Platông đề ra
cũng đã được giáo hội Thiên chúa giáo áp dụng nhằm thực hiện nền đạo đức và
các thủ đoạn chính trị của mình. Cả nghìn năm dân chúng Châu Âu đã được cai
trị mà không cần dùng đến vũ lực, họ sẵn sàng chấp nhận sự cai trị ấy và không
bao giờ đòi hỏi tham gia trực tiếp vào bộ máy chính quyền [16, tr.20].
Những lời giảng của Platông về học thuyết lý tưởng của ông ở trong số

những tư tưởng có ảnh hưởng nhất trong lịch sử văn minh phương Tây. Suốt hơn
hai ngàn năm qua, trong các đối thoại muôn hình, muôn vẻ, Platông chạm tới hầu
hết các vấn đề mà những nhà triết học đi sau ông quan tâm, đặc biệt là những nhà
triết học theo chủ nghĩa duy tâm. Hơn nữa, các tác phẩm đối thoại của Platông đã
được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau và được phổ biến bằng nhiều ấn bản…
d/ Phép biện chứng duy tâm chất phác lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử
triết học của nhân loại:
Xôcrát đóng góp cho triết học một định hướng nhân văn cùng với phương
pháp mới mẻ tiếp cận tri thức, đó là phương pháp truy vấn biện chứng, được biết
đến dưới tên gọi là “phương pháp Xôcrát” hay “phương pháp bác bỏ bằng lôgíc”
(elenchus). Phương pháp này dùng hình thức vấn đáp để khảo sát những lời phát
biểu, bằng cách tra xét định nghĩa, đào sâu khái niệm… ông dẫn dắt người đối
thoại đến với chân lý bằng tư duy lôgíc và khả năng biện luận thuyết phục, có cơ
sở, có chứng cứ. Đó là phép biện chứng của khái niệm hay biện chứng chủ quan.
Ông đã áp dụng phương pháp này chủ yếu cho việc kiểm nghiệm các khái niệm
quan trọng về mặt đạo đức như tốt đẹp – công bằng, cái thiện – cái ác, cái tốt –
cái xấu,…
Thuyết ý niệm và các quan niệm triết học của Platông cũng chứa đựng
nhiều yếu tố biện chứng. Thông qua các khái niệm đối lập và phương pháp đối
SVTH: NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH 12 LỚP CAO HỌC: K21-ĐÊM 5
GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
chiếu những mặt đối lập, ông giải quyết thấu đáo mối quan hệ giữa vận động –
đứng im, hữu hạn – vô hạn, liên tục – gián đoạn, tồn tại – hư vô,…
Các triết gia của triết học cổ điển Đức (cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX)
cũng đã tiếp thu những tư tưởng biện chứng quý báu trong di sản triết học Hy
Lạp, phát triển thêm và xây dựng được phép biện chứng mới như một học thuyết
triết học về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển xảy ra trong thế giới. Đó là
phép biện chứng tư duy – một cống hiến vĩ đại cho kho tàng tư tưởng của nhân
loại và là một cội nguồn của triết học Mác.
e/ Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại là động lực thúc đẩy khoa

học phát triển:
Nhà triết học Platông đã có ảnh hưởng vô cùng sâu sắc đến nền triết học nói
riêng và sự phát triển văn hóa Châu Âu nói chung. Đặc biệt là nhận thức luận,
triết học toán học và tư tưởng giáo dục toán học của ông, dưới điều kiện xã hội
Hy Lạp đương thời, đã có một tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ đối với sự hình thành
của khoa học và sự phát triển của toán học.
Vào TK III TCN, Platông đã thành lập trường dạy học ở Aten, mang tên
Hàn lâm viện, được coi là trường đại học đầu tiên ở Châu Âu. Ở đây, người ta có
thể tự do suy nghĩ và trao dồi kiến thức, những vấn đề lý luận được quan tâm
nghiên cứu. Học trò phải học bốn môn cơ bản: toán học, thiên văn học, âm nhạc,
và phép biện chứng. Platông rất coi trọng toán học. Ông chủ trương bồi dưỡng
khả năng tư duy logic thông qua môn hình học, bởi vì hình học mang lại cho con
người ấn tượng trực quan, thể hiện sự trừu tượng của quy luật Logic trong các
hình cụ thể.
Những học trò của Platông cũng góp phần không kém vào việc phát triển sơ
khai nền toán học. Chẳng hạn như Eudoxus, người đã sáng tạo ra “Phép so sánh”,
Aristole cũng là một nhà triết học cổ đại, đặt nền móng về logic hình thức. Tư
tưởng logic của ông đã mở ra con đường cho hệ thống logic chặt chẽ trong bộ
môn hình học sau này.
SVTH: NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH 13 LỚP CAO HỌC: K21-ĐÊM 5
GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
f/ Quan niệm về chính trị – xã hội được áp dụng nhiều nơi trên thế giới:
Trong suốt 1000 năm, Âu châu bị đặt dưới quyền cai trị của một giai cấp
không khác gì giai cấp cầm quyền lý tưởng mà Platông đã mô tả. Trong thời kỳ
trung cổ, người ta thường phân chia dân chúng thành ba giai cấp: cần lao, quân
nhân và giáo sĩ. Giai cấp giáo sĩ, mặc dù chỉ là thiểu số, đã nắm trong tay tất cả
quyền hành và đã cai trị một cách gần như tuyệt đối một phần nửa lãnh thổ Âu
châu. Giai cấp giáo sĩ này cũng không bị ràng buộc vì nếp sống gia đình và trong
nhiều trường hợp, họ được hưởng nhiều tự do trong vấn đề luyến ái mà Platông
chủ trương nên dành cho giai cấp lãnh đạo.

Sau cách mạng tháng 10 năm 1917, những nhà lãnh đạo cộng sản ở Nga Xô
cũng đã sống cuộc đời mà Platông đã mô tả. Họ là một thiểu số, cấu kết với nhau
bằng một niềm tin mãnh liệt. Họ sợ sự khai trừ khỏi đảng hơn là sợ cái chết, hoàn
toàn hiến thân cho đảng, chết vì đảng không khác gì các thánh tử đạo. Họ sống
một cuộc đời giản dị đơn sơ trong khi cầm quyền cai trị một nửa diện tích Âu
châu. Nói tóm lại, khi đề ra quan niệm về chính trị - xã hội của mình, Platông
không coi đó là một quan niệm hão huyền và xa rời thực tế.
Hơn nữa, Platông thể hiện tư tưởng tiến bộ trong vấn đề nam nữ bình
quyền. Theo Platông, không có sự phân chia nam nữ nhất là trong giáo dục. Con
gái cũng có cơ hội học tập và vươn lên đỉnh cao chính trị như con trai. “Nếu một
người đàn bà tỏ ra có khả năng trong lãnh vực chính trị, hãy để cho bà ta làm
chính trị. Nếu một người đàn ông có khả năng rửa chén, hãy để cho ông ta rửa
chén.” [16]
2.2. Những hạn chế của chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại:
Bên cạnh những giá trị đạt được thì chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng
còn một số hạn chế như sau:
a/ Thuyết ý niệm mang đầy màu sắc duy tâm và thần bí:
Theo Arixtốt, về mặt bản thể luận, việc Platông chia thế giới ra thành thế
giới ý niệm và thế giới sự vật là thiếu cơ sở và đầy mâu thuẫn. Bởi vì ý niệm là
SVTH: NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH 14 LỚP CAO HỌC: K21-ĐÊM 5
GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
cái tồn tại bên ngoài và độc lập với sự vật thì không thể làm bản chất cho sự vật
được. Hơn nữa, ý niệm là cái trừu tượng, phi cảm tính thì không thể làm khuôn
mẫu cho sự vật cảm tính được. Còn về mặt nhận thức luận, việc Platông coi ý
niệm là cái có trước và độc lập so với sự vật thì ý niệm (khái niệm) cũng không
thể được dùng để nhận thức sự vật được. Đối với Platông , tri thức bị giới hạn bởi
thế giới của hình thái, trong khi thế giới được biết đến bởi các giác quan, chân lý
thì được gỡ ra khỏi các sự vật đặc thù. Ngược lại, Arixtốt cho rằng bản chất phải
nằm ngay trong bản thân sự vật và phải được nhận thức của con người khái quát
thành cái chung dưới dạng khái niệm, quy luật, phạm trù. Khái niệm, quy luật,

phạm trù không phải là cái có trước, sinh ra và quyết định sự tồn tại của sự vật.
Tóm lại, chủ nghĩa duy tâm khách quan mang tính “duy tâm” là vì cho rằng
“ý niệm”, “tinh thần thế giới” là cái có trước, sản sinh ra thế giới tự nhiên và
mang tính “thần bí” là vì không thể giải thích được “ý niệm” đã sản sinh ra thế
giới tự nhiên bằng cách nào.
b/ Quan niệm về đạo đức vẫn còn hạn chế:
Platông không nhận thấy được sự quý giá và thiêng liêng trong tình cảm vợ
chồng, cha mẹ với con cái. Ông không tiên liệu được tính ghen tuông của người
đàn ông và kể cả tình mẫu tử thiêng liêng của người đàn bà vì thế ông mới chủ
trương chồng chung, vợ chung, con cũng chung và như vậy ông đã xúc phạm đến
phong tục tập quán và đạo đức sơ đẳng của con người. “Khi ông muốn phá vỡ
đời sống gia đình, ông đã phá vỡ điều kiện cho một nếp sống đạo đức. Chế độ
cộng sản chẳng qua cũng chỉ là một chế độ gia đình được nới rộng cho toàn dân,
khi đã kích gia đình, Platông không biết rằng ông đã phá vỡ nền móng của xã
hội lý tưởng” [16].
Ngoài ra, theo Platông đời sống đạo đức, hạnh phúc của con người gắn liền
với thế giới ý niệm, chứ không phải gắn với cuộc sống trần gian, gắn liền với bản
tính tự nhiên của mình. Quan niệm này của ông đã bị học trò là Arixtốt phủ nhận.
Theo Arixtốt, đời sống đạo đức, hạnh phúc của con người không nằm trong thế
giới ý niệm trên trời, mà nằm trong thế giới hiện thực, dưới đất, nơi trần gian;
SVTH: NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH 15 LỚP CAO HỌC: K21-ĐÊM 5
GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
đồng thời, chúng cũng phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, nhu cầu của từng
người trong cộng đồng xã hội…
c/ Quan niệm về chính trị - xã hội chứa đầy tính bảo thủ và mâu thuẫn:
Xã hội chính trị lý tưởng của Platông mặc dù được che đậy bằng những ý
tưởng rất tốt đẹp như công bằng, hạnh phúc nhưng nó đã không bảo đảm được
những vấn đề cơ bản của cá nhân bởi “những mối nguy hiểm đều bắt nguồn từ
những ý định rất tốt đẹp là xác lập sự công bằng chung cho mọi người” [4,
tr.153].

Ông đã phạm sai lầm trầm trọng khi ông đã quá xem thường những giai cấp
dưới trong việc phân chia giai cấp. Ông đã quá lí tưởng vấn đề trật tự mà quên đi
rằng con người rất cần và rất quan trọng vấn đề tự do vì họ không phải là những
con robot để có thể đặt định như thế nào cũng được. Thật ra những giai cấp dưới
không phải là không biết làm chính trị, chỉ tại bởi lằn ranh giai cấp đã bó buộc và
ngăn cản bước tiến của họ. Nếu có điều kiện họ cũng sẽ làm chính trị rất giỏi và
rất xuất sắc. Vì thế, việc phân chia giai cấp của ông “không khác gì nhà côn trùng
phân loại các côn trùng. Ông còn tạo ra các huyền thoại để biết dân chúng tin
tưởng vào sự phân loại ấy”. Do vậy, Will Durant mới nhận xét “Quốc gia của
Platông là một quốc gia thủ cựu, thuật chính trị của Platông thiếu sự tế nhị mềm
dẻo, nó đề cao trật tự mà không đề cao sự tự do, nó thích cái đẹp nhưng không
biết nuôi dưỡng nghệ sĩ” [16].
Có thể nói quan điểm về chính trị - xã hội của Platông chứa đầy tính bảo
thủ và mâu thuẫn. Bởi vì, ông vừa đòi hỏi phải xóa bỏ tư hữu vừa bảo vệ cho
bằng được chế độ đẳng cấp và sự bất bình đẳng trong xã hội; vừa kêu gọi phải
xây dựng cho bằng được nhà nước cộng hòa lý tưởng, lại vừa ra sức bảo vệ cho
bằng được lợi ích và địa vị của tầng lớp chủ nô quý tộc chống lại nhà nước dân
chủ Aten [2, tr.109]. Nhà nước mà ông coi là lý tưởng, thực chất chỉ là sự biện hộ
cho giai cấp chủ nô quý tộc. Đúng như nhận xét của Mác, nó chỉ là lý tưởng hóa
chế độ đẳng cấp của Aicập vào Aten mà thôi.
SVTH: NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH 16 LỚP CAO HỌC: K21-ĐÊM 5
GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
KẾT LUẬN
Triết học Hy Lạp cổ đại như là những viên gạch đầu tiên xây nên toàn bộ
ngôi nhà văn minh của Châu Âu ngày nay. Đến nay, những gì mà triết học Hy
Lạp cổ đại mang đến cho nhân loại vẫn còn giữ nguyên giá trị.
Xôcrát và Platông là hai đại diện tiêu biểu của hệ thống triết học duy tâm
Hy Lạp cổ đại. Triết học của Xôcrát có đóng góp quan trọng vào việc tạo ra bước
tiến mới trong sự phát triển triết học Hy Lạp cổ đại. Nếu các nhà triết học trước
Xôcrat chủ yếu bàn về vấn đề khởi nguyên của thế giới, về nhận thức luận thì

Xôcrát là người đầu tiên đưa đề tài con người trở thành chủ đề trọng tâm nghiên
cứu của triết học phương Tây. Vấn đề đạo đức, phẩm hạnh của con người cũng
được ông đề cao. Ngoài ra, ông còn mang đến cho loài người một phương pháp
tiếp cận tri thức mới, đó là phương pháp biện chứng thông qua các cuộc tranh
luận, tọa đàm… Bên cạnh đó, Platông là học trò của Xôcrát, dưới hình thức duy
tâm, ông đã phát triển các tư tưởng của Xôcrát xây dựng những nền tảng khách
quan của ý thức con người. Ông có công lớn trong việc nghiên cứu các vấn đề ý
thức xã hội, khẳng định vai trò to lớn của nó trong việc hoàn thành nhân cách và
ý thức cá nhân con người. Với “Quốc gia lý tưởng” của Platông, mặc dù không
đưa ra được những đường hướng đúng đắn nhất, nhưng ý tưởng của ông về một
xã hội lý tưởng ấy thì quả thật đáng kính và đáng phục rồi.
Bên cạnh những giá trị đạt được của chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp
cổ đại, thì phép biện chứng của Xôcrát và Platông cón nhiều hạn chế do chịu sự
tác động của điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội đương thời. Chẳng hạn, cho rằng
thế giới tự nhiên là do thần thánh an bài, coi mọi sự vật chỉ là hiện thân của ý
niệm, tách rời thực tế, từ bỏ cảm giác, mang tính duy lý… Song sự xuất hiện của
Xôcrát và Platông cùng với phép biện chứng duy tâm đã để lại dấu ấn lịch sử triết
học, tạo điều kiện cho tư duy triết học Hy Lạp cổ đại cũng như triết học sau này
có cơ hội khám phá và phát triển.
SVTH: NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH 17 LỚP CAO HỌC: K21-ĐÊM 5
GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bernard Morichere và nhóm giáo sư triết học các trường Đại Học Pháp,
Triết học Tây phương từ khởi thủy đến đương đại, Phan Quang Định biên dịch,
NXB Văn hóa thông tin, 2010.
2. Bùi Văn Mưa chủ biên, Triết học – Phần 1 – Đại cương về lịch sử triết học
(tài liệu dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên
ngành triết học của trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh), 2011.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.21, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995.

4. Đỗ Minh Hợp và nhiều tác giả, Đại cương Lịch sử Triết học Phương Tây,
NXB Tổng hợp, 2006.
5. Đinh Ngọc Thạch, Lịch sử triết học phương Tây (dùng cho học viên cao học
không thuộc chuyên ngành triết học của trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn – Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh), 2010.
6. Edward McNall Burns, Văn minh phương Tây - Lịch sử và văn hóa, NXB Từ
điển bách khoa, 2010.
7. Hà Thiên Sơn, Lịch sử Triết học, NXB Trẻ, 2004.
8. Hà Thúc Minh, Triết học cổ Hy lạp La mã, NXB Mũi Cà Mau, 1997.
9. Jostein Gaarder, Thế giới của Sôphie, Trần Minh Châu biên dịch, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội, 1988.
10. Lê Tôn Nghiêm, Lịch sử triết học Tây phương, NXB Thành phố Hồ Chí
Minh, 2001
11. Nguyễn Ước, Đại cương triết học Tây Phương, NXN Tri Thức, 2009.
12. Nhiều tác giả, “Almanach Những nền văn minh Thế giới, NXB Văn hóa
thông tin, Hà Nội, 1998.
13. Norman F.Cantor, Nền văn minh thế giới cổ đại, Kiến Văn và Khắc Vinh
biên dịch, NXB Lao Động Xã Hội, 2008.
SVTH: NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH 18 LỚP CAO HỌC: K21-ĐÊM 5
GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
14. Tô Mộng Vi, Tìm lại nền văn minh Hy Lạp cổ đại, Nguyễn Kim Dân biên
dịch, NXB Lao động, 2010.
15. Vũ Dương Minh chủ biên, Lịch sử văn minh thế giới cổ đại, NXB Giáo Dục
Việt Nam, 2011.
16. Will Durant, Câu chuyện triết học, Trí Hải và Bửu Đích biên dịch, NXB
Văn hóa thông tin, 2008.
Một số trang web khác:
17. Phan Thị Cam, Cuộc đời và nội dung Triết học của Platon Platông,
/>dhoi-va-noi-dung-triet-hoc-cua-platon.
18. Viện Triết học, h_p://www.vientriethoc.com.vn, h_p://www.philosophy.vn/

19. Wikipedia: />SVTH: NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH 19 LỚP CAO HỌC: K21-ĐÊM 5

×