Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CHÈ THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.31 KB, 31 trang )

9
du miền núi phía Bắc chiếm tới 63% diện tích, vùng Tây Nguyên
có 23% diện tích, còn lại là các vùng khác

Chương 2: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CHÈ THẾ GIỚI
VÀ VIỆT NAM
2.1 Vùng nguyên sản của cây chè
Năm 1753, Cac Vôn Linê, nhà thực
vật học Thụy Điển đã thu thập, phân
loại các mẫu chè giống ở Trung
Quốc, và lần đầu tiên đặt tên cây chè
là Thea sinensis, phân thành hai
giống chè: Thea bohea (chè đen) và Thea viridis (chè xanh), như
vậy đã xác nhận Trung Quốc là vùng nguyên sản cây chè trên thế
giới.
Năm 1951, Đào Thừa Trân (Trung Quốc) đưa ra thuyết Triết
trung được nhiều học giả thế giới công nhận. Theo thuyết này, cái
nôi tự nhiên cây chè là ở khu vực gió mùa Đông Nam Á, vì ở
Lào, Mianma, Vân Nam và Bắc Việt Nam đều có những cây chè
hoang dại. Các điều kiện đất đai, khí hậu, lượng mưa của cả khu
vực này đều rất thích hợp với sinh trưởng của cây chè, hợp thành
một vườn chè nguyên thủy. Hơn nữa cây chè mọc hoang dại tìm
10
thấy rất nhiều dọc hai bờ các con sông lớn: Kim Sa Giang, Phú
Long Giang, Salouen, Irravadi, Mê kông, Bramapoutrơ...các con
sông này đều bắt nguồn từ dãy núi phía nam cao nguyên Tây
Tạng. Cho nên vùng nguyên sản cây chè là vùng núi ở cao
nguyên Tây Tạng. Cây chè di thực về phía đông qua tỉnh Tứ
Xuyên, bị ảnh hưởng của khí hậu, nên biến thành giống ché lá
nhỏ, di thực về phía nam và tây nam là Ấn Độ, Mianma, Annam
(Việt Nam) biến thành giống chè lá to.


Năm 1933, Đớtxơ (J.J.B.Deuss, Hà Lan), nguyên giám đốc viện
nghiên cứu chè Buitenzorg ở Java (Indonesia), cố vấn các công ty
chè Đông Dương thời Pháp thuộc, sau khi khảo sát vùng chè cổ
Tham Vè tại xã Cao Bồ (Vị Xuyên – Hà Giang) đã viết: “...Điểm
cần chú ý là ở những nơi mà con người tìm thấy cây chè, bao giờ
cũng ở bên bờ các con sông lớn, như sông Dương Tử, sông Tsi
Kiang ở Trung Quốc, sông Hồng ở Vân Nam và Bắc Kì (Việt
Nam), sông Mê Kông ở Vân Nam, Thái Lan và Đông Dương,
sông Salouen và Irrawadi ở Vân Nam và Mianma. Tất cả những
con sông đó đều bắt nguồn từ dãy núi phía đông cao nguyên Tây
Tạng, cho nên nguồn gốc cây chè là từ dãy núi này phân tán đi.
2.2 .Sơ lược lịch sử phát triển chè trên thế giới
2.2.1. Lịch sử Phát triển chè trên thế giới
11
Theo các tư liệu lịch sử, ngay từ năm 805 sau công nguyên,
các nhà sư Nhật Bản tu hành tại chùa Quốc Thanh (Chiết Giang,
Trung Quốc), khi về nước đã mang hạt giống chè gieo trồng ở Hạ
Xuyên (Shiga Ken, Nhật Bản). Từ đó phát triển nhanh chóng
thành nước sản xuất chè lớn trên Thế giới.
Đến năm 828 sau công nguyên, Triều Tiên bắt đầu có chè, trồng ở
núi Kim La Đạo Trí Dị Sơn.
Sau thế kỷ XVII, chè truyền bá nhanh qua “con đường chè” trên
đất liền và trên biển. Người Đức đã nhập hạt chè năm 1654, để
trồng lại Java và Sumatra (Indonesia). Năm 1780 công ty đông
Ấn Độ của nước Anh đã nhập giống chè từ Trung Quốc để trồng
tại Ấn Độ
Ngay từ thế kỷ XVII người Anh đã nhập từ Trung Quốc hạt chè
để trồng thử nghiệm tại Srilanca. Sau khi các đồn điền cà phê bị
bệnh gỉ sắt xóa sổ, mới chuyển sang trồng chè mạnh mẽ với quy
mô rất lớn.

Năm 1833, Sa Hoàng nước Nga đã nhập cây chè từ Trung Quốc
về trồng tại Crưm trên bờ biển Đen, rồi từ đó phát triển sang
Gruzia, Kratxnôđa.
Việt Nam, Mianma và Lào đã trồng và chế biến chè từ xa xưa.
Nhưng sự phát triển chè với quy mô lớn ờ Việt Nam chỉ bắt đầu
12
từ năm 1918 khi thành lập trạm nghiên cứu nông lâm Phú Thọ. Ở
Mianma năm 1919 mới có cơ sở nghiên cứu chế biến chè đen.
Ở Malaysia, năm 1914, Hoa kiều nhập giống chè Trung Quốc
trồng lại công viên Kuala Lumpua.
Những năm 1920, người Anh đã đầu tư trồng chè tại Châu Phi.
Những năm 1950, Trung Quốc viện trợ cho các nước Mali,
Ghinê, Pakixtan trồng và chế biến chè.
Chè ở Nam Mĩ, do Nhật Bản trồng đầu tiên vào khoảng cuối thế
kỷ XIX tại vùng Corientê, Tucuman (Achentina).
Châu Úc, năm 1940 nhập giống chè Trung Quốc, do Nhật Bản
trồng thử ở Quynxlen, đảo Tatsmania (Australia) và Nenson
(Newzilan).Trong thế kỷ XX, tiêu thụ chè ngày càng nhiều, vùng
sản xuất chè mở rộng liên tục, nhà máy chế biến chè tăng nhanh,
khoa học kỹ thuật chè phát triển mạnh mẽ, thị trường chè 100
năm qua đã tăng trưởng gấp bội.
Năm 1998, tổng diện tích chè thế giới là 2.422.600 ha. Năm
2000, tổng sản lượng chè là 2.963.000 tấn, năng suất bình quân
1.248 kg/ha, mức tiêu thụ 506g/đầu người, mức tiêu thụ ở người
lớn 633g/người.
2.2.2 Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè trên thế giới
2.2.2.1 Tình hình sản xuất
13
Chè được sản xuất ở gần 40 nước trên thế giới với diện tích
2,25 triệu ha, tập trung ở một số nước chủ yếu như: Trung Quốc

1,1triệu ha Ấn Độ 486 nghìn ha, Srilanca 190 nghìn ha, Thổ Nhĩ
Kỳ 80 nghìn ha, Kenia 120 nghìn ha. Sản Lượng chè của các
quốc gia này cũng chiếm khỏang 70% tổng sản lượng chè thế
giới. xu thế hiện nay của các nước trồng chè chủ yếu chú ý nhiều
đến việc tăng sản lượng và tăng năng suất lao động. Việc mở rộng
diện tích trồng chè ở nhiều nước không còn là chỉ tiêu chính.
Trong 20 năm gần đây (từ 1980 – 2000) diện tích chè từ 2,34
triệu ha tăng lên 2,55 triệu ha (tăng 6,8%) trong khi sản lượng
tăng từ 1,85 triệu tấn lên đển trên 2,98 triệu tấn (tăng 61%). Năng
suất bình quân trên 1 tấn/ha cao nhất là Papua New Ginê đạt gần
3 tấn chè khô/ha, tiếp theo là Kenya 2,2 tấn/ha. Ấn Độ, Indonesia,
Srialanca đạt từ 1,5 đến 2,0 tấn/ha. Việt Nam đạt khoảng 0,9
tấn/ha vẫn thấp hơn năng suất bình quân của thế giới.
Năm 2000 sản lượng chè thế giới đạt 2,95 triệu tấn. Ấn Độ là
nước có sản lượng chè cao nhất, hằng năm đạt 850 – 870 ngàn
tấn. tiếp đến là Trung Quốc 680 ngàn tấn. Srilanca, Kenya trên
300 ngàn tấn. Indonesia, Thổ Nhĩ kỳ, Nhật Bản trên 100 ngàn tấn.
Việt Nam khoảng 80 ngàn tấn xếp thứ 8 trong tổng số các nước
có sản lượng chè trên thế giới.
14
Về công nghệ chế biến, hiện nay các nước chủ yếu là sản xuất
chè đen (chiếm 75% tổng sản lượng) phương pháp để sản xuất
chè đen phổ biến là Orthodox và phương pháp CTC. Trong đó
sản xuất bằng phương pháp CTC đang được sử dụng phổ biến.
Các nước Kenia Malavi, Banglades 100% chè được sản xuất theo
công nghệ CTC, Ấn Độ 84,8%, Indonesia 10% là chè CTC.
Trung Quốc, Achentina và các nước Liên Xô cũ 100% chè đen
sản xuất theo phương pháp Orthodox, Srilanca chè Orthodox
chiếm 97% tổng sản lượng chè đen.
2.2.2.2. Tình hình tiêu thụ

Đối với một số nước chè là mặt hàng xuất khẩu thuần tuý, thì
ở một số nước phần lớn sản lượng chè lại được tiêu thụ trong
nước. Hầu như toàn bộ sản lượng chè Argentina, Kenya, Srilanca
được xuất khẩu, trong khi đó phần lớn sản lượng chè của Ấn Độ
và Trung Quốc được tiêu thụ trong nước. Do dân số tăng nhanh,
trong tương lai 2 nước Ấn Độ và Banglades có thể là các nước
nhập khẩu chè. Mặc dù nhu cầu về chè ở Trung Quốc dự kiến sẽ
tăng nhưng do chính sách dân số cứng rắn và năng suất tăng
mạnh trong những năm gần đây đã dẫn đến việc ngày càng nhiều
chè Trung Quốc được xuất khẩu ra thị trường thế giới.
15
Sự phát triển kinh tế tại nhiều nước tiêu thụ chè lớn cũng ảnh
hưởng đến thị hiếu và khẩu vị người tiêu dùng. Chè giá cao, có
lượng giá trị tăng lớn, đang dần thay thế cho chè rời giá thấp có
chất lượng kém. Nhu cầu chè túi, chè hoà tan, chè uống liền ngày
càng gia tăng đặc biệt ở các nước công nghiệp phát triển. Các
hãng sản xuất nước ngọt có gas lớn đang thâm nhập vào thị
trường chè nước đóng lon (hộp Ice tea). Loại chè này phổ biến ở
Mỹ, Nhật, Tây Âu, và bắt đầu được giới trẻ ở các nước Châu Á
quan tâm. Đặc biệt tại Mỹ nhu cầu tiêu thụ chè dược thảo phổ
biến nhất là chè bạc hà, cam thảo, lô hội… với nhu cầu gia tăng
về số lượng cũng như chất lượng của chè thì vấn đề vệ sinh an
toàn thực phẩm cũng rất được quan tâm và chú trọng kể cả ở một
số nước nhập khẩu chè với số lượng lớn khác…
Để nắm được tình hình sản xuất chè của các nước và kinh
nghiệm sản xuất của các nước , trong phần này sẽ giới thiệu sơ
qua một số nước như sau:
1. Trung quốc
Trung quốc là một nước trồng chè và chế biến chè sớm nhất,
là quê hương của chè. Trung quốc sản xuất ra hàng chục loại chè

và có kinh nghiệm sản xuất phong phú. Trước đây Trung quốc
đứng hàng đầu về sản lượng chè trên Thế giới và chiếm tới 90%
16
sản lượng chè xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Năm 1936 tổng
diện tích trồng chè của Trung quốc là 364 nghìn hecta, chế biến
được 309 nghìn tấn chè. Nhưng trải qua nhiều năm chiến tranh và
dưới chính quyền phản động Tưởng Giới Thạch, ngành sản xuất
chè của Trung quốc bị xa sút nghiêm trọng. Sau ngành giải
phóng, ngành sản xuất chè của Trung quốc đã dần dần được hồi
phục: năm1952 có 244 nghìn hecta ( không kể 40 nghìn hecta ở
Đài loan), năm 1950 chỉ sản xuất được 60 nghìn tấn chè đến năm
1955 lên tới 104,5 nghìn tấn và tới năm 1956 diện tích trồng chè
lên tới 300 nghìn hécta, sản xuất được 120,4 nghìn tấn. Vào năm
1964-1965 đã sản xuất được 200 nghìn tấn đứng hàng thứ 3 trên
Thế giới về sản lượng chè sau ấn độ và Xây lan.
2. Ấn độ
Ấn độ là nước có lịch sử phát triển chè chưa lâu, nhưng nhờ
học tập kinh nghiệm của các Trung quốc và các nước , do điều
kiện khí hậu thổ nhưỡng thích hợp với sự sịnh trưởng của cây chè
nên ngành sản xuất chè của ấn độ phát triển khá nhanh. Hiện nay,
Ấn độ đứng hàng đầu thế giới về sản lượng chè sản xuất hàng
năm . Năm 1955, tổng diện tích trồng chè ở Ấn độ là 320 nghìn
hécta, sản xuất 300.4 nghìn tấn chè. Nhưng điều đáng chú ý là
gần đây công nghiệp sản xuất chè đen của Ấn độ có nhiều thay
17
đổi về kỹ thuật sản xuất, chủ yếu là áp dụng các biện pháp mới để
sản xuất ra các loại chè đen phù hợp với yêu câù của thị trường
Quốc tế. Chè đen sản xuất bằng phương pháp CTC (sản phẩm chủ
yếu là loại chè mảnh) tăng lên với tỷ lệ cao, còn chè đen sản xuất
bằng phương pháp truyền thống (sản phẩm gồm hai loại chè cánh

và chè mảnh) giảm xuống rõ rệt. đồng thời chè đen làm bằng
phương pháp không làm héo cũng tăng lên và từ năm 1960 đã áp
dụng phương pháp vò liên tục. Nguyên nhân chủ yếu của phương
pháp này là ở chỗ, không nhưng dùng phương pháp CTC làm cho
quá trình lên men chè được tiến hành đều đặn và sâu sắc, nâng
cao được màu sắc của nước chè . Như mọi người đều biết, chè
đen được sử dụng phổ biến ở các nước Châu Âu, nhất là ở Anh và
Liên xô, chè đen thường được pha thêm đường hoặc sữa để uống,
cách pha chè đen cũng khác cách pha chè xanh, chỉ pha một lần
rồi bỏ bã đi nhưng yêu cầu trong một lần pha đó phải rút chiết
được gần như toàn bộ các chất có trong chè, nước chè phải đậm
đặc và có nồng độ cao. Để đạt được yêu cầu đó chỉ có loại chè
mảnh (nhưng không phải là chè vụn), phương pháp CTC đáp ứng
được yêu cầu này vì nguyên liệu của nó là các loại chè mảnh
(FBOP,BOP,BP..). Trong một số nhà máy chè đen của Trung
quốc ( như nhà máy chè đen Thiệu Hưng) cũng đã sử dụng máy
18
cắt CTC vào sản xuất và đang được nghiên cứu vào áp dụng rỗng
rãi.
3. Xây-Lan
Xây-Lan là nước sản xuất ra các loại chè đen nổi tiếng. Về
sản lượng hiện Xây-Lan đứng hàng thứ hai trên thế giới. Năm
1955, Xây-Lan có 229 nghì hécta chè, sản xuất 173 nghìn tấn.
Năm 1962, sản xuất 210.15 nghìn tấn chè và tới năm 1963 sản
xuất 217.025 nghìn tấn chè. Xây-Lan hàng năm xuất khẩu khoảng
90% lượng chè trong nước sản xuất ra.
4 . Nhật Bản
Nhật Bản chủ yếu sản xuất chè xanh, chè đen chỉ chiếm 13%
tổng sản lượng chè hàng năm. Năm 1961, Nhật Bản sản xuất
khoảng 72 nghìn tấn chè, tăng lên không nhiều lắm so với năm

1955 (39 nghìn hécta, 70 nghìn tấn chè)
5. Liên Xô cũ
Vùng chè chủ yếu của Liên Xô cũ là Gruzia, miền Kratnoda
thuộc Nga và Adecbaidan. Năm 1955, diện tích trồng chè ở Liên
Xô là 74.5 nghìn hécta, chế biến được 36.5 nghìn tấn chè. Riêng
vùng chè của Grugia ở Liên Xô, năm 1955 có 63.1 nghìn hécta,
chế biến được 33.7 nghìn tấn chè trong đó có 28.7 nghìn tấn chè
rời, còn lại là chè bánh.
19
6. Inđonexia
Vùng chè chủ yếu của Inđonexia là đảo Giava, chủ yếu sản
xuất chè đen, đứng hàng thứ ba trong các nước tư bản về sản xuất
chè. Năm 1951 có 138.5 nghìn hécta. Năm 1955 chỉ còn 64 nghìn
hécta (bằng 46.2% so với trước chiến tranh) và sản xuất được
43.5 nghìn tấn chè.
Ngoài ra trên thế giới cũng có nhiều nước trồng và sản xuất
chè, ví dụ Pakistan cũng là một vùng chè lớn. Các nước Uganda,
Tangiania, Congo hàng năm cũng sản xuất được khoảng từ 3.7
đến 4.8 nghìn tấn chè.
2.3 . Lịch sử phát triển cây chè tại Việt Nam
2.3.1 Sơ lược lịch sử phát triển chè ở Việt nam
Hiện nay chưa có tài liệu chính thức về sự phát triển chè ở
nước ta. Nhưng căn cứ vào tài liệu hiện có thì nước ta đã có lịch
sử trồng trọt và chế biến chè từ rất lâu đời, trước tiên chè có ở
vùng Hà giang.
Theo tài liệu của William H.Ukers thì vùng biên giới Tây
Bắc nước ta nằm trong khu vực thuỷ tổ của giống chè trên thế
giới. Điều đó chứng tỏ, chúng ta đã có một lịch sử trồng chè từ
lâu.
20

Ở Phú thọ, chè được phát triển vào những năm 1825 và phát
triển nhiều vào những năm 1930. Riêng vùng ở Komtum cao
nguyên miền Tây nam trung bộ thì chè có tương đối nhiều vào
năm 1923, nhưng nói chung, chè đều nằm trong tay tư bản Pháp,
địa chủ, chỉ một số ít thuộc về nông dân.
Những năm sau, chè phát triển vào khoảng thời gian 1938-
1942. Sau đó vì ảnh hưởng của chiến tranh thế giới, Nhật xâm
chiếm nước ta và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chè
phát triển chậm lại hoặc bị bỏ hoang . Sau ngày hoà bình lập lại,
Đảng và Chính phủ đã giúp đỡ nông dân khôi phục các vùng chè
cũ và phát triển những vùng chè mới, ngoài những ruộng chè của
các hợp tác xã nhiều nông trường chè mới đã được xây dựng và
đã được thu hoạch. Song song với việc phát triển diện tích trồng
chè, được sự giúp đỡ của các nước anh em chúng ta đã xây dựng
được một số nhà máy chè để chế biến các loại chè. Đầu năm 1953
Liên Xô đã giúp ta xây dựng hai nhà máy chè đen và chè xanh
hiện đại tại Phú Thọ, hàng năm cũng đã sản xuất được hàng nghìn
tấn búp chè tươi.Nhà máy chè Hà nội là cơ sở sản xuất cũ có từ
năm 1933, nhưng tới năm 1960 nhà máy được sự giúp đỡ của
Trung quốc đã trang bị thêm một số máy móc và chủ yếu nhận
chè bán thành phẩm từ các địa phương để gia công. Ngoài ra ở rải

×