Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Hệ biểu tượng nghệ thuật cơ bản trong tiểu thuyết lịch sử đương đại việt nam tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.62 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN NGUYNNnNGVInNNỆT

ĐOÀN THANH LIÊM

HỆ BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT CƠ BẢN
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT
NAM

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9. 22. 01. 21

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2020


Công trình được hoàn thành tại:
Học viện Khoa học xã hội
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP
PGS.TS Tôn Thị Thảo Miên
2. PGS.TS Nguyễn Thị Bích Thu
Phản biện 1: PGS.TS. Hà Văn Đức
Phản biện 2: PGS.TS. Ngô Văn Gía
Phản biện 3: PGS.TS Tôn Phương Lan



Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,
tại: Học viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội
Vào hồi

giờ

ngày

tháng

năm 2020

Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia
- Thư viện Học viện


DANH MỤC CÁC BÀI BÁO CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ ĐUỢC CÔNG BỐ
1.

Đoàn Thanh Liêm (2017), Biểu tượng Đấng minh quân qua
một số tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại, tạp chí Diễn đàn
văn nghệ Việt Nam số 273/ tháng 10 năm 2017.

2.

Đoàn Thanh Liêm (2017), Nguyễn Hoàng - hành trình mở cõi
qua tiểu thuyết Minh Sư của Thái Bá Lợi, tạp chí Khoa học và
công nghệ, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, số 2 tháng

11 năm 2017.

3.

Đoàn Thanh Liêm (2019), Lễ hội biểu tượng văn hóa Việt Nam
qua tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại, tạp chí Nhân lực
khoa học xã hội, Học viện khoa học xã hội Việt Nam, số 4
tháng 4 năm 2019


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Biểu tượng hiện hữu trong đời sống nhân loại ngay từ khi loài
người biết tư duy về tự nhiên và xã hội với những hình ảnh đơn giản nhất.
Từ xã hội nguyên thủy cho đến xã hội văn minh, từ con người tiền sử cho
đến con người hiện đại, biểu tượng luôn được tạo ra như là một công cụ
thực hiện chức năng xã hội, thể hiện nhận thức của con người về tự nhiên
và xã hội.
1.2. Biểu tượng không chỉ có trong phong tục tập quán, tín ngưỡng,
tôn giáo, trong chính trị, hoạt động quảng cáo sản phẩm mà biểu tượng
cũng tồn tại trong tác phẩm nghệ thuật rất phong phú, đa dạng.
1.3. Về mặt nhận thức, có nhiều phương tiện thực hiện chức năng
chuyển tải nội dung tư tưởng của tác phẩm văn học. Trong tiểu thuyết lịch
sử Việt Nam đương đại, thế giới biểu tượng là một phương tiện nghệ thuật
thực hiện chức năng đó.
1.4. Tiểu thuyết lịch sử là thể tài văn học có đặc trưng phức hợp, ở
đó hiện thực lịch sử là chất liệu “xương cốt” và hư cấu nghệ thuật làm “hồn
phách” tinh anh của tác phẩm. Đối với nền văn học Việt Nam đương đại,
thể tài tiểu thuyết lịch sử có những đóng góp lớn, để lại dấu ấn sâu sắc, với
nhiều tiểu thuyết lịch sử đạt giải qua các lần trao giải về văn học và rất

nhiều diễn đàn văn học bàn luận về tác giả và tiểu thuyết lịch sử.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Khám phá những giá trị văn hóa, lịch sử dân tộc Việt qua các hệ
biểu tượng.

1


- Trong quá trình nghiên cứu các biểu tượng, chúng tôi sẽ làm rõ
một số luận điểm có ý nghĩa định vị giá trị biểu tượng và sự kết nối các giá
trị ấy với vấn đề đời sống xã hội, con người đương đại.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận án sẽ giới thuyết lại một số vấn đề lý luận về biểu tượng và
tiểu thuyết lịch sử trên tinh thần kế thừa, phát huy các công trình đã nghiên
cứu trước đó.
- Luận án tập trung khảo sát, nhận diện và phân tích một số hệ biểu
tượng nghệ thuật cơ bản: hệ biểu tượng tự nhiên, hệ biểu tượng con người,
hệ biểu tượng văn hoá trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam.
- Luận án sẽ làm rõ vai trò, chức năng của biểu tượng là đơn vị ngôn
ngữ đặc trưng - ngôn ngữ biểu tượng trong tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam qua tư duy nghệ thuật của nhà văn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng trực tiếp mà luận án nghiên cứu là biểu tượng nghệ thuật
trong tiểu thuyết lịch sử thời kỳ đổi mới. Về bản chất, biểu tượng nghệ
thuật cũng là một loại ký hiệu, hàm chứa và biểu đạt vô vàn giá trị lịch sử,
tư tưởng, văn hóa, của cá nhân, cộng đồng... Trong văn học, biểu tượng rời
xa đời sống nguyên khởi của nó để trở thành một dạng ký hiệu, một đơn vị
ngôn ngữ quan trọng để kiến tạo nghĩa.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Bên cạnh việc đi sâu nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau
1986, ở một chừng mực nào đó, luận án sẽ khảo sát tiểu thuyết lịch sử các
giai đoạn trước đó, đồng thời, so sánh tiểu thuyết lịch sử của một số nền

2


văn học khác để thấy rõ hơn thành tựu của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
đương đại.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp hệ thống
Phương pháp hệ thống giúp chúng tôi tập hợp được các biểu tượng
khác nhau, sắp xếp chúng theo hệ biểu tượng tương ứng để phân tích.
Phương pháp hệ thống cũng giúp chúng tôi tập hợp được các công trình, bài
viết nghiên cứu xoay quanh đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án.
4.2. Phương pháp so sánh
Sử dụng phương pháp so sánh, chúng tôi sẽ xác định được bản chất
của đối tượng nghiên cứu trong tương quan với đối tượng của các công
trình nghiên cứu khác; xác định bản chất của từng loại biểu tượng trong
mối quan hệ với các biểu tượng khác.
4.3. Phương pháp loại hình
Nói đến loại hình là nói đến tập hợp những sự vật, hiện tượng cùng
có chung những đặc điểm cơ bản nào đó. Phương pháp này sẽ giúp chúng
tôi nhận dạng các biểu tượng khác nhau để xếp chúng về một kiểu/ loại
phù hợp.
4.4. Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa
Tiếp cận biểu tượng văn học từ góc nhìn văn hóa sẽ giúp luận án có
điều kiện khám phá chiều sâu văn hoá, lịch sử nhân loại qua cách biểu đạt
giá trị của biểu tượng trong tác phẩm văn học.

4.5. Phương pháp liên ngành
Nghiên cứu biểu tượng trong văn học, đặc biệt là biểu tượng trong
tiểu thuyết, đòi hỏi sử dụng nhiều loại hình tri thức khác nhau như sử học,
xã hội học, văn hóa học, tâm lý học, tôn giáo, tín ngưỡng, thi pháp học, tự
3


sự học…Vì thế, luận án sẽ sử dụng phương pháp liên ngành nhằm cắt
nghĩa sâu hơn cách sử dụng biểu tượng cũng như các tầng nghĩa nằm sâu
trong biểu tượng văn học.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án là công trình nghiên cứu chuyên biệt về biểu tượng trong
tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam.
- Góp phần hệ thống hóa các tri thức lý thuyết về biểu tượng và biểu
tượng văn học, biểu tượng trong tiểu thuyết lịch sử làm cơ sở khám phá giá
trị văn hóa và văn học trong tiểu thuyết lịch sử nói riêng và văn học nói
chung.
- Phân tích hệ biểu tượng trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thời kỳ
đổi mới, chỉ ra những thành tựu sáng tạo nghệ thuật của nhà văn, qua đó,
nhận thấy rõ hơn sự giàu có và phong phú của các giá trị văn hóa trong văn
học.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận
- Luận án xác định được quan điểm cơ bản về tiểu thuyết lịch sử
Việt Nam đương đại.
- Luận án đóng góp thêm một tiếng nói nghiên cứu tiểu thuyết lịch
sử đương đại Việt Nam từ lý thuyết biểu tượng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án đi sâu nghiên cứu những giá trị lịch sử, văn hóa dân tộc
qua các hệ biểu tượng, từ đó góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn

hóa, lịch sử dân tộc trong bối cảnh đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế.
- Là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy văn
học ở phổ thông và đại học.
4


7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận
Chương 2: Hệ biểu tượng tự nhiên trong tiểu thuyết lịch sử đương
đại Việt Nam
Chương 3: Hệ biểu tượng con người trong tiểu thuyết lịch sử đương
đại Việt Nam
Chương 4: Hệ biểu tượng văn hóa cộng đồng trong tiểu thuyết lịch
sử đương đại Việt Nam

5


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Vấn đề nghiên cứu biểu tượng và tiểu thuyết lịch sử
1.1.1. Nghiên cứu biểu tượng
1.1.1.1. Khái lược tình hình nghiên cứu biểu tượng trên thế giới
Triết học mácxít xem biểu tượng là sản phẩm chủ quan cá nhân
trong hoạt động nhận thức của con người, biểu tượng mất đi giá trị văn hoá
không thuộc về cái đã có, cổ xưa được tích luỹ qua các thời đại và không
mang tâm thức cộng đồng.
Đối với các nhà phân tâm học, biểu tượng không phải là một giai

đoạn của quá trình nhận thức mà là những hình ảnh, sự vật được kết tinh từ
“vô thức tập thể”, của “vùng kinh nghiệm”. Hai đại diện tiêu biểu của học
thuyết phân tâm học là S. Freud và Carl Jung.
Dưới góc nhìn của ngôn ngữ học, biểu tượng là thuộc tính đặc trưng
của ngôn ngữ. Ferdinand de Sausure cho rằng “ngôn ngữ là một hệ thống
ký hiệu đã được xã hội chấp nhận bằng các quy ước... Một trong những
đặc tính quan trọng nhất cấu thành ngôn ngữ chính là tính biểu tượng được
thể hiện thông qua các ký hiệu”.
Theo Iu. M. Lotman, biểu tượng là một ký hiệu văn hóa. Ông khẳng
định văn hóa là hiện tượng ký hiệu học. Mọi hiện tượng văn hóa đều có
đặc điểm ký hiệu học.
Tóm lại, con đường giải mã biểu tượng khá phong phú, mỗi cách
giải mã có những đặc điểm riêng, hình thành nên hệ thống lí luận về biểu
tượng.

6


1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam
Việc nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam diễn ra theo hai xu hướng
chính là dịch thuật các công trình nghiên cứu nước ngoài và vận dụng lí
thuyết đã được dịch thuật để nghiên cứu biểu tượng theo từng lĩnh vực đời
sống xã hội.
Về mặt dịch thuật và giới thiệu lí thuyết, có thể kể đến một số công
trình đáng chú ý sau đây: 1/ Từ phân tâm học, chủ yếu là tác phẩm của
Sigmund Freud, Carl Jung như: Vật tổ và cấm kỵ (Đoàn Văn Chúc dịch),
Thăm dò tiềm thức (Vũ Đình Lưu dịch); các ấn phẩm đề cập đến biểu
tượng trong mối quan hệ với văn hoá tâm linh, nghệ thuật, tình yêu, tính
cách dân tộc do Đỗ Lai Thúy và các cộng sự thực hiện; 2/ Từ ngôn ngữ, ký
hiệu học văn hóa với Ký hiệu học văn hóa của Iu. M. Lotman (1922-1993)

do nhóm tác giả Lã Nguyên, Đỗ Hải Phong, Trần Đình Sử thực hiện…
Những công trình dịch thuật trên có giá trị nền tảng lí thuyết cho hướng
nghiên cứu biểu tượng văn hóa và văn học ở Việt Nam.
Nghiên cứu biểu tượng trong văn học cũng là hướng nghiên cứu
được chú ý trong thời gian qua. Tuy hoạt động nghiên cứu cũng đạt được
kết quả đáng trân trọng, phản ánh được giá trị to lớn của thế giới biểu
tượng trong đời sống xã hội nhưng nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam
chưa hướng đến xây dựng hệ thống lí luận đặc thù, chưa thành lập được
khoa nghiên cứu biểu tượng độc lập.
1.1.2. Nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
Trước 1986, những công trình nghiên cứu về dòng văn học này
không nhiều, chỉ là những bài viết ngắn, nhỏ lẻ đăng trên các tạp chí, thảng
hoặc xuất hiện một số nhận định khái quát chung nhân đọc tác phẩm của
Triêu Dương, Tân Dân Tử, Nguyễn Triệu Luật… Đáng kể nhất trong các
7


công trình nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trước 1986 là công
trình nghiên cứu Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại của Phan Cự Đệ.
Từ sau 1986, hoạt động nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử có bước
chuyển biến tích cực trên lĩnh vực dịch thuật, cũng như phê bình. Nhiều
hội thảo chuyên đề về tiểu thuyết lịch sử diễn ra. Hội thảo khoa học “Sáng
tạo văn học, nghệ thuật về đề tài lịch sử” (2012), hội thảo khoa học về
nghiên cứu và giảng dạy tiểu thuyết lịch sử (2019), hay toạ đàm về tiểu
thuyết Nguyễn Xuân Khánh...
Bên cạnh đó, có nhiều công trình luận án nghiên cứu về tiểu thuyết
lịch sử. Luận án tiến sĩ của Bùi Văn Lợi bàn diện mạo và đặc điểm của tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến 1945. Chuyên
luận Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1945 của Nguyễn Thị Tuyết Minh (do
Nxb CAND ấn bản năm 2012) là bước “chạy tiếp sức” rất ý nghĩa, tiếp nối

công trình của Bùi Văn Lợi. Luận án Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986
dưới góc nhìn tự sự học của Nguyễn Văn Hùng là một công trình lí luận về
tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thời kỳ đổi mới. Nhìn chung, các tác giả đã
phân tích và tìm ra những đặc trưng quan trọng về điểm nhìn trần thuật, kết
cấu tự sự, diễn ngôn tự sự của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thời kì này.
1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài
1.2.1. Vấn đề biểu tượng
1.2.1.1. Khái niệm biểu tượng
Biểu tượng là gì? Theo nhà ký hiệu học văn hóa Iu.Lotman thì “từ
biểu tượng (symbol) là một trong những từ nhiều nghĩa nhất trong hệ thống
các khoa học về ký hiệu”. Tác giả J.Chevalier lại cho rằng “Không định
nghĩa được biểu tượng. Tự bản chất của nó, phá vỡ các khuôn khổ định sẵn

8


và tập hợp các thái cực lại trong cùng một ý niệm. Nó giống như mũi tên bay
mà không bay, đứng im mà biến ảo, hiển nhiên mà lại không nắm bắt được”.
Khảo sát những định nghĩa về biểu tượng từ các bộ từ điển, chúng ta
nhận thấy có sự tương đồng nhau khi xem biểu tượng là cái đại diện, biểu
hiện cho cái gì đó, ngoài nó và khác nó. Đó có thể là một vật, một hình
ảnh, một hành vi, một nghi thức, nghi lễ… có tính “ý niệm” được xã hội
thừa nhận. Có thể coi biểu tượng gồm có hai thành tố “Cái biểu đạt” và
“Cái được biểu đạt”.
1.2.1.2. Phân biệt biểu tượng với một số dạng thức tương cận
Biểu trưng: Là bày ra, trưng ra cho nhận thấy một cái gì đó. Vật
được chọn làm biểu trưng có quan hệ nghĩa “gần gũi hay chồng khớp” với
giá trị được diễn đạt.
Ký hiệu: Ký hiệu được hiểu theo hai nghĩa: (1) - dấu hiệu vật chất
đơn giản do quan hệ tự nhiên hoặc do quy ước, được coi như thay cho một

thực tế phức tạp hơn (chữ viết, ký hiệu hóa học); (2) - cái có thể nhận biết
trực tiếp, cho phép kết luận về sự tồn tại hoặc về tính chân thực với một cái
khác liên hệ với nó (chữ cái).
Dấu hiệu: Dấu hiệu là một từ rất thông dụng trong đời sống hằng
ngày. Đó là dấu để làm hiệu, báo hiệu một cái gì đó sắp sửa xảy ra. Vật
làm “dấu” cũng đơn giản là hình ảnh, cử chỉ, màu sắc…có tính ước lệ.
Tín hiệu: Tín hiệu là một từ có hàm nghĩa cố định, bất biến và
không thay thế cho vật nào.
Ẩn dụ: Là phương thức chuyển nghĩa của cái này cho cái kia. Mối
quan hệ giữa vật/cái biểu đạt và cái được biểu đạt dựa trên cơ sở tương
đồng nhau.

9


Phúng dụ: Là một biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta dùng hình
ảnh cụ thể, sinh động để biểu thị một ý niệm về triết lý nhân sinh hay một
bài học luân lý đạo đức, nhằm làm cho sự trình bày đó trở nên sâu sắc,
thâm thúy.
1.2.1.3. Hình tượng nghệ thuật và biểu tượng nghệ thuật
Trong tác phẩm văn học, hình tượng và biểu tượng không phải là
những cái song trùng cũng không hoàn toàn phụ thuộc vào nhau mà nằm
trong cấu trúc hình tượng của tác phẩm. Gốc của hình tượng được xây dựng
từ tư duy hình tượng chủ quan của người nghệ sĩ còn gốc của biểu tượng
thuộc về văn hoá và tâm thức cộng đồng. Nếu hình tượng thường đồng hoá
mình với những giá trị bên ngoài, phảng phất trong đó những mẫu hình nghệ
thuật bên cạnh nó thì biểu tượng có sự đồng hoá nội tại các giá trị vào mình
để tạo nên thế giới khó phân định, khó nắm bắt cụ thể.
1.2.2. Vấn đề tiểu thuyết lịch sử
1.2.2.1. Quan niệm về tiểu thuyết lịch sử

Như tên gọi, thể tài tiểu thuyết lịch sử có sự kết hợp chặt chẽ giữa
hai thành tố lịch sử và tiểu thuyết, chất liệu hiện thực và đặc trưng phản
ảnh của loại hình nghệ thuật ngôn từ. Theo quan niệm truyền thống, tiểu
thuyết lịch sử là sự tái hiện chân thực về lịch sử đã qua. Theo quan niệm
hiện đại, tiểu thuyết lịch sử là diễn ngôn lịch sử dưới cái nhìn của thời đại
dân chủ hóa, toàn cầu hóa. Nhà văn viết về lịch sử theo nguyên tắc “hoài
cổ vi kim”.
Chúng ta có thể khái quát những quan điểm nhận thức về tiểu thuyết
lịch sử như sau: 1) Lịch sử là nguồn cảm hứng nghệ thuật trong quá trình
sáng tác; 2) Lịch sử không phải là lâu đài để nhà văn chạy trốn hiện thực
đang diễn ra mà là cái cớ để nhà văn trải nghiệm, chất vấn hiện tại và tương
10


lai; 3) Tính quy mô, bao quát rộng lớn các vấn đề của hiện thực bằng nhận
thức mới của thời đại làm cho các sự kiện, nhân vật lịch sử trở nên gần gũi
với đời sống đương đại hơn so với khoa học lịch sử; 4) Hư cấu nghệ thuật
không thể thiếu khi viết về lịch sử. Hư cấu khác với bịa đặt, viết lại lịch sử.
1.2.2.2. Vài nét về tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam
Về mặt nghệ thuật trần thuật: Kết cấu, ngôn ngữ, điểm nhìn, giọng
điệu trần thuật của tiểu thuyết lịch sử thể hiện rõ nhất sự đổi mới. Về
phương diện hiện thực lịch sử: Các nhà văn không ngần ngại gia cố chất
đời tư, thế sự vào các nhân vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử. Về khuynh
hướng sáng tác: Căn cứ vào kết cấu nghệ thuật sẽ có các kiểu loại tiểu
thuyết theo kết cấu nhân/quả, tiểu thuyết theo kết cấu tuyến nhân vật chính
diện/phản diện, tiểu thuyết theo kết cấu chương hồi, tiểu thuyết theo kết
cấu mang dấu ấn hậu hiện đại. Căn cứ vào mục đích sẽ có tiểu thuyết lịch
sử chính sử, giáo huấn, tiểu thuyết lịch sử - văn hóa. Căn cứ vào tính chất
và chức năng phản ảnh sẽ có khuynh hướng tiểu thuyết mô phỏng lịch sử
và khuynh hướng tiểu thuyết hư cấu lịch sử.

1.3. Hướng tiếp cận của luận án
Hướng tiếp cận của luận án xác định hai vấn đề cơ bản là tiểu thuyết
lịch sử và hệ biểu tượng.
Tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam (khái niệm đương đại vừa
dùng để nói đến thời gian ấn hành tác phẩm vừa nói đến phương thức
sáng tạo và tiếp nhận khác với trước đó, tính từ 1986) có nhiều khuynh
hướng sáng tác, nhưng khuynh hướng tiểu thuyết lịch sử - văn hóa là
khuynh hướng nổi bật hơn cả. Đó là những diễn ngôn về lịch sử, văn hóa
mang cảm quan nghệ thuật thời đại dân chủ, hội nhập.

11


Vấn đề hệ biểu tượng cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau.
Chúng tôi quan niệm, hệ biểu tượng là tập hợp, hệ thống những biểu tượng
có chung nguồn gốc hoặc cơ chế nảy sinh từ hệ hình tư tưởng, văn hóa, tín
ngưỡng cộng đồng.
Chương 2
HỆ BIỂU TƯỢNG TỰ NHIÊN
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM
2.1. Các biểu tượng Nước, Lửa, Đất, Trời
2.1.1. Biểu tượng Nước và các biến thể
Nước là một trong tứ đại mẫu gốc tự nhiên có giá trị phổ quát trong
mọi nền văn hoá nhân loại. Những dạng thể tồn tại của nước rất phong
phú, đa dạng, đó là tất cả dạng thức tinh thể lỏng, bay hơi và ngưng tụ.
Mở rộng biên độ giá trị biểu tượng, với cái nhìn nghệ thuật thời đại
mới, các nhà văn đã khái quát đặc tính của biểu tượng nước và các biến thể
không chỉ lưu dấu hào hùng của kẻ chiến thắng mà sau mỗi trận chiến,
sông nước làm chứng cho thảm cảnh tang thương. Qua đó nói lên tiếng nói
phản kháng chiến tranh, dù thắng hay bại trên đấu trường quân sự đều là sự

thất bại của chiến tranh bởi hậu quả nặng nề nó để lại cho nhân loại.
Nhìn từ phương diện văn hóa, biểu tượng nước có thể xem xét trên
hai bình diện hoàn toàn đối lập: “Nước là nguồn sống và là nguồn chết, có
chức năng tạo dựng và tiêu huỷ” [67, tr.711]. Trong tiểu thuyết lịch sử
đương đại Việt Nam, các nhà tiểu thuyết đã khai phóng tính chất của nước
với ý nghĩa mang tâm thức Mẫu, nước và các biến thể tái sinh những kiếp
sống trong ý nghĩa thiêng liêng nhất, với ý nghĩa là dòng chảy cuộc đời,
nước và các biến thể nhiều khi đưa đến sự chết chóc, hủy diệt.

12


2.1.2. Biểu tượng Lửa và các biến thể
Lửa tồn tại một cách bí ẩn trong tự nhiên. Lửa vừa tượng trưng cho sự
văn minh, chân lí, soi sáng, tẩy uế, hồi sinh, sinh sôi nảy nở… vừa tượng trưng
cho sự tàn phá, huỷ diệt, thiêu cháy. Đó là ngọn lửa tư duy, trí tuệ, ngọn lửa tinh
thần, tình yêu, ngọn lửa của dục vọng, thù hận, ngọn lửa chiến tranh…
Từ thuộc tính nguyên sơ, các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt
Nam đã thắp sáng giá trị của lửa khi kiến giải những góc khuất lịch sử,
những khát vọng bên trong tâm hồn, nhân cách con người. Lửa khơi sâu
những biểu hiện bản thể vốn có của xã hội và con người trước thời cuộc
vần vũ. Lửa vừa là biểu tượng cho chiến loạn, hận thù tàn phá, chết chóc
vừa tượng trưng cho niềm tin, sức mạnh, trí tuệ, khai sáng và tái sinh trong
mối tương liên với thời đại lịch sử và con người thời đại.
2.1.3. Biểu tượng Đất và các biến thể
Trong tiến trình vận động và phát triển của văn hoá nhân loại, biểu
tượng đất hình thành sớm nhất, mang tính phổ quát rộng rãi và ổn định hơn
so với các biểu tượng cổ mẫu tự nhiên khác.
Trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, biểu tượng đất và
biểu tượng đấng minh quân được các nhà văn khai sáng trong mối quan hệ

gắn kết mật thiết, tương hỗ nhau. Đó là đất thiêng khởi nghiệp của các bậc
thánh nhân, các triều đại hùng mạnh. Đất mang tâm thức Mẫu – Đất Mẹ
chở che, bao bọc, in đậm dấu ấn văn hoá Đại Việt nhằm chống lại văn hoá
ngoại lai du nhập vào.
Không chỉ dừng lại ở giá trị bản nguyên đất là nơi trú ngụ, đất ở của
con người, trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, giá trị của biểu
tượng đất còn là ranh giới tư tưởng, quyền lực và lòng người.

13


2.1.4. Biểu tượng Trời/ Ông Trời
Biểu tượng Trời trong các nền văn hoá, tư tưởng, tôn giáo dường
như có sự tương đồng về ý nghĩa: Trời là một biểu hiện trực tiếp của cái
siêu tại, của uy quyền, của cái vĩnh hằng, cái thiêng liêng: cái mà không
sinh vật nào trên mặt đất này có thể đoạt được.
Các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam đã khai thác và làm
sáng tỏ mối quan hệ Trời - đấng tối cao quyền uy của muôn loài và Vua Thiên Tử, đấng tối cao quyền uy của muôn dân cũng như giá trị xã hội của
các biểu tượng tương liên này. Trời ở đây tương liên mật kết “dùng để chỉ
cái tuyệt đối của những hoài bão của con người, như là kết quả mỹ mãn
của sự tìm kiếm, như là nơi mà tinh thần con người có thể được hoàn thiện,
tựa hồ trời là tinh thần của thế giới” [36, tr.959-960] như đấng minh quân
là tinh thần của nhân dân.
Đại nghiệp của đấng minh quân nếu vì nhân dân thì luôn được Trời
chứng kiến và hỗ trợ, ngược lại đại nghiệp của họ không vững bền nếu họ
không sắp xếp ổn thỏa mối quan hệ của họ với nhân dân. Trong ý nghĩa
tìm về lịch sử để vi kim, các nhà tiểu tuyết đề cao lẽ sống Ý Trời và Lòng
Dân hài hòa trong mọi chính sách xã hội của đấng minh vương là thông
điệp gởi đến mọi giai tầng trong đời sống xã hội đương đại.
2.2. Phương thức kiến tạo hệ biểu tượng tự nhiên trong tiểu

thuyết lịch sử đương đại Việt Nam
2.2.1. Quá trình chuyển hóa mở rộng biên độ giá trị biểu tượng
Trong tư duy nghệ thuật của nhà văn, mọi hình ảnh, hình tượng đều
có khuynh hướng trở thành biểu tượng nghệ thuật khi nó hội đủ các điều
kiện đa nghĩa, cổ sơ, huyền bí. Vậy nên, những cổ mẫu nguyên sơ không
thể là biểu tượng chết, các giá trị của nó luôn luôn được bồi đắp khi đi qua
14


giới hạn mỗi vùng văn hóa, tư tưởng. Đặc biệt, trong tác phẩm nghệ thuật,
các nhà văn rất có ý thức thanh lọc và chuyển hóa các mã giá trị để biểu
tượng sinh động và phù hợp với tư duy nghệ thuật thời đại. Do đó, ý niệm
của con người tạo ra thế giới biểu tượng, đến lược thế giới biểu tượng tiếp
tục được thanh lọc qua tư duy người nghệ sĩ để tham gia vào quá trình sáng
tạo nghệ thuật và có sức sống mới. Trong nhiều tác phẩm (Giàn thiêu, Hồ
Quý Ly, Mẫu thượng ngàn…), thế giới tự nhiên hiện diện như là một đơn
vị ngôn ngữ nghệ thuật tham gia trực tiếp xây dựng kết cấu văn bản và tính
cách nhân vật. Trong mối quan hệ với hệ biểu tượng tín ngưỡng - tôn giáo,
hệ biểu tượng tự nhiên là chiếc cầu nối thế giới trần thực với thế giới tâm
linh, giữa các bậc minh quân với lực lượng siêu nhiên.
2.2.2. Kiến tạo hệ biểu tượng tự nhiên từ góc nhìn sinh thái
Từ trong đời sống văn hóa tộc người đến đời sống triết học, thế giới
tự nhiên trong mối quan hệ với xã hội và loài người luôn gắn kết, soi chiếu,
phản thức lên nhau. Con đường kiến tạo hệ biểu tượng tự nhiên trong tiểu
thuyết lịch sử đương đại Việt Nam cũng bắt nguồn từ những nhận thức, kiến
giải về tự nhiên và các mối quan hệ giữa tự nhiên với xã hội, loài người theo
lăng kính nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử đương đại. Từ những giá trị bản thể
mang tâm thức văn hóa, các nhà văn chắp cánh cho hệ biểu tượng tự nhiên
vẻ đẹp nghệ thuật ngôn từ để qua đó biểu đạt những tâm tư, ý nghĩ, xoáy sâu
vào bản thể bên trong của con người trước thời cuộc, hoàn cảnh đang sống.


15


Chương 3
HỆ BIỂU TƯỢNG CON NGƯỜI
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM
3.1. Các biểu tượng đấng minh quân, kẻ sĩ, liệt nữ
3.1.1. Biểu tượng đấng minh quân
Đấng minh quân, anh hùng dân tộc trở thành biểu tượng văn hoá, xã
hội bởi khi nhắc đến họ, nhân dân thường liên tưởng đến những kiểu mẫu
tính cách lí tưởng trong niềm ngưỡng vọng, sùng bái. Khi viết về đấng minh
quân, anh hùng dân tộc, các nhà văn đề cao giá trị tư tưởng thân dân - trọng
dân - vì dân, tư tưởng tôn tài - trọng tài - dụng tài trong đường lối lãnh đạo
xây dựng đất nước của bộ máy chính quyền, của những kẻ cầm quyền.
Đấng minh quân, anh hùng dân tộc trong tâm thức của người Việt
không phải là đấng cứu thế siêu nhiên mà là con người, chủ thể của xã hội,
tài giỏi võ văn, tha nhân đức độ soi đường cho dân tộc tiến lên phía trước
tốt đẹp hơn. Những bậc vĩ nhân ấy có thể được nhân dân thánh hóa, huyền
thoại hóa, làm nên tín ngưỡng thờ cúng sùng bái, họ trở thành biểu tượng
nhân sinh trong nhận thức của nhân dân. Họ trở thành biểu tượng hội đủ
Tài - Tâm - Tầm của người lãnh đạo trong công cuộc xây dựng đất nước
trong dòng chảy lịch sử dân tộc.
3.1.2. Biểu tượng kẻ sĩ, nhà cải cách
Kẻ sĩ, trí thức là một biểu tượng vĩnh hằng nhưng bất định. Vĩnh hằng
vì tư chất thông minh, trình độ học vấn, nhân cách cao đẹp của kẻ sĩ là giá trị
văn hóa bất biến đối với mọi thời đại. Nhưng bất định bởi lẽ kẻ sĩ cũng có
“năm bảy đường”. Kẻ sĩ chính danh quân tử, kẻ sĩ ngu trung thủ cựu, kẻ sĩ thức
thời cơ hội cá nhân, kẻ sĩ thức thời canh tân vì nước vì dân. Trong số ấy, nếu
kẻ sĩ ngu trung thủ cựu là vật cản trở sự tiến bộ xã hội, thường dễ bị bỏ rơi

16


trước thời cuộc thì kẻ sĩ chính danh quân tử, kẻ sĩ thức thời canh tân là nguồn
nhân lực vĩnh hằng trong công cuộc kiến thiết xây dựng đất nước.
Mỗi kẻ sĩ là một thân phận trong xã hội. Trước thời đại lịch sử, họ
có cách chọn lựa xuất xử khác nhau. Có những kẻ sĩ vi quân vị liễu bất vi
thân. Có những kẻ sĩ bị ràng buộc vào chính trị bởi quyền lực. Cũng có
những trường hợp kẻ sĩ bám riết lấy chữ trung, để rồi không theo kịp
chuyển biến của thời đại, đành bất lực nhìn thời đại bỏ rơi. Trong mối quan
hệ với thế lực cầm quyền, và bộ máy cai trị xã hội, rất nhiều trường hợp, kẻ
sĩ bị bạc đãi, bị xua đuổi trên con đường đến với chính trị, thậm chí nhận
lấy những bi kịch thảm khốc trước thực tại không đoán biết, đo lường hết
được. Trong muôn vàn kẻ sĩ trí thức tài hoa ấy, chúng tôi muốn đề cập cụ
thể đến Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và con đường đến với
quyền lực chính trị của họ.
Tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam luận về những kẻ sĩ trong
lịch sử hẳn có dụng ý gởi đến đời sống đương đại về vai trò, bản chất và
giá trị đích thực của nhân sĩ trí thức đối với nhà cầm quyền, đối với xã hội
trong thời đại hội nhập và phát triển đất nước.
3.1.3. Biểu tượng liệt nữ
Anh thư, liệt nữ là biểu tưởng tượng nói đến những người phụ nữ hi
sinh vì giang sơn, xã tắc. Xét đến khía cạnh này, Công chúa An Tư, Công
chúa Huyền Trân, Công chúa Ngọc Hân và nhiều cung nữ khác là những
liệt nữ, biểu tượng cho sự hi sinh cái Riêng vì cái Chung. Họ trở thành bất
tử giữa trần gian.
Tuy nhiên, dưới cái nhìn của các nhà tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam, anh thư, liệt nữ còn là biểu tượng cho thân phận nổi trôi của
người phụ nữ trong xã hội. Điều này hoàn toàn khác với hình tượng người
17



phụ nữ tràn đầy khát vọng trực tiếp được cống hiến, được tham gia vào
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ
đầu thế kỷ XX đến 1945.
Có thể thấy, mỗi cá thể tồn tại trong xã hội đều vừa là sản phẩm kết
tinh của một nền văn hoá vừa là chứng nhân cho lịch sử nhiều biến động.
Thật không thể nói hết được những tai ương trong cuộc đời hồng nhan bằng
lời. Đời người lắm lúc xinh đẹp và thông minh, tưởng phúc nhưng là hoạ.
Đấy là chân giá trị mà các nhà văn nhắm đến khi viết về những hồng nhan,
liệt nữ.
3.2. Phương thức kiến tạo hệ biểu tượng con người trong tiểu
thuyết lịch sử đương đại Việt Nam
3.2.1. Bút pháp huyền thoại hoá
Bút pháp huyền thoại hoá chính là việc nhà văn tổ chức các thực thể
huyền thoại như là một phương thức biểu đạt theo mã thẩm mĩ nghệ thuật
ngôn từ nhằm hướng đến đối tượng nghệ thuật nào đó.
Trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, các nhà văn sử dụng
những huyền tích mẫu hoặc sáng tạo nên những huyền tích mới làm thành
“kiểu sáng tác huyền thoại” nhằm làm mới phương diện cách tân nghệ, làm
cho thế giới biểu tượng thêm lung linh, giàu sức biểu đạt. Bên cạnh đó, các
nhà văn cũng sử dụng các Sử dụng motip giấc mơ, Motip hoá thân để tạo
nên màu sắc huyền hoặc cho các biểu tượng. Các motip ấy là mạch nguồn
kết cấu các thiên truyện đồng thời gia tăng tính huyền bí, sắc thái huyền
thoại cho các biểu tượng nhân hình.
Tóm lại, với tư cách là một phương thức nghệ thuật, biến hiện thực
thành hoang đường mà không đánh mất tính chân thật, bút pháp huyền

18



thoại hoá đã thổi hồn sinh khí mới mẻ vào các biểu tượng nhân hình làm
cho các biểu tượng huyền ảo, giàu giá trị biểu đạt hơn.
3.2.2. Bút pháp giải thiêng, phi tâm hoá
Nếu bút pháp huyền thoại, sử thi kiến tạo nên biểu tượng thiêng thì
bút pháp giải thiêng, phi tâm hoá lại kiến tạo nên biểu tượng đời thường.
Đây là đặc điểm khác biệt khi viết về nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết lịch
sử Việt Nam trước 1986 và sau 1986.
Cách thức tạo ra nhiều điểm nhìn trần thuật để soi chiếu vào nhân
vật trung tâm là cách nhà văn gửi gắm dụng ý giải huyền thoại, phi tâm hoá
nhưng lại cài vào đó tâm thức của cộng đồng để cho biểu tượng trở nên
sống động, chân thực hơn trước lịch sử.
Sự kết hợp giữa cái thiêng và cái đời thường là nét đặc trưng của
tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam. Những hình tượng lịch sử được
khai thác sâu ở góc nhìn nội tâm. Họ chất vấn lịch sử là để bảo vệ chính
danh cho hành động lịch sử của họ. Nhưng cũng có khi họ chất vấn lịch sử
bởi họ nhận ra sự cô đơn trong tâm hồn họ khi lịch sử chọn họ làm người
vĩ đại mà tước đoạt bản thể tự nhiên của một con người.
Việc các nhà văn để cho các nhân vật lịch sử chất vấn thời đại và
bản thân làm cho chính những con người lỗi lạc ấy mang vẻ đẹp đời tư, họ
trở nên gần gũi và bình dị hơn. Đấy là vẻ đẹp tự thân mà lịch sử thời đại đã
cuốn đi, bị khuất lấp ít được đề cập đến trong sáng tác giai đoạn trước.

19


Chương 4
HỆ BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM
4.1. Các biểu tượng tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội

4.1.1. Biểu tượng tín ngưỡng đạo Mẫu
Đạo Mẫu của người Việt trước tiên là một tín ngưỡng cộng đồng thể
hiện sự sùng bái tự nhiên diễn tiến như là một giai đoạn tất yếu của loài
người trong quá trình phát triển nói chung. Sức sống huyền diệu của văn hóa
dân tộc - tâm thức Mẫu và tín ngưỡng thờ Mẫu được các nhà văn lí giải qua
hình tượng đầy nữ tính của những người đàn bà. Chính “Người đàn bà là
Mẫu, là Mẹ - người đàn bà là Đất xứ sở. Người đàn bà là văn hiến” [78,
tr.806]. Dường như mỗi một người đàn ông chí ít thuộc về người đàn bà nào
đó, rồi bị họ mê hoặc, bị họ chi phối và được tái sinh cuộc đời. Mẫu là hồn
của đất. Chính hồn đất ấy khiến cho bao kẻ xâm chiếm Đại Việt cứ ngỡ
mình là chúa tể chẳng thể huênh hoang được mà sợ hãi sự trả thù. Đây chính
là ý nghĩa ngợi ca văn hóa bản địa, đồng thời đáp trả sự cưỡng đoạt văn hóa
từ các nền văn hóa khác khi du nhập vào Việt Nam.
Đạo Mẫu với những giá trị tri thức địa phương mà bao hàm ở đó là
đời sống tâm linh, không gian văn hóa, thực hành văn hóa thuần Việt được
các nhà văn tái hiện, khắc họa sâu sắc trong các tác phẩm nhằm gởi gắm về
sự uyển chuyển của văn hóa dân tộc trong thời kỳ hội nhập và phát triển
hiện nay, là cội gốc cấu thành bản chất của xã hội, cấu thành phẩm chất của
mỗi con người trong thời đại mới.
4.1.2. Biểu tượng tôn giáo đạo Phật
Đạo Phật là tôn giáo ăn sâu trong đời sống văn hóa dân tộc Việt.
Phân tích những giá trị của đạo Phật từ điểm nhìn biểu tượng văn hóa 20


nghệ thuật, chúng tôi chỉ điểm lược những nét nghĩa khái quát của những
biểu tượng riêng lẻ như chùa làng, đất Phật, triết lý nghiệp duyên, từ bi hỉ
xả… trong mối gắn kết với cuộc đời, số phận các biểu tượng nhân hình các nhân vật làm thành biểu tượng trong tác phẩm nghệ thuật.
Trong tâm thức của người Việt, “Phật, chủ về cả thế tục lẫn tâm
linh... Nói cho đúng thì Phật liên kết chúng sinh lại...” [40, tr.98]. Vậy nên,
con người đến với cõi Phật không nhằm chạy trốn cuộc đời, tìm nơi cứu rỗi

mà để thanh tẩy tâm hồn cho trong sạch, cao quý hơn.
Nếu Nho giáo với thuyết cai trị thiên hạ là phần dương tính của xã
hội thì Phật giáo là phần âm của hồn dân Việt. “Đạo Phật giữ phần linh
thiêng, phần chìm, phần lặng lẽ và thâm thúy của núi sông” [77, tr.495].
Tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam đề cao tâm từ bi hỉ xả của đạo Phật
như là một thông điệp kêu gọi thế gian trở về với chính tâm để thoát khỏi
những đau khổ. Đạo Phật - biểu tượng của sự giải thoát và thức tĩnh lương
tri. Nhưng Đạo Phật và chùa chiền không phải là nơi kinh doanh nỗi sợ hãi,
nỗi bất an vì lòng tham vô đáy dù đó là thượng đế hay thứ dân.
4.1.3. Biểu tượng lễ hội
Những lễ hội, sinh hoạt dân gian Việt Nam rất đa dạng, phong phú
tùy thuộc vào ước nguyện của con người. Có những lễ hội gắn với ngành
nghề như lễ tịch điền, lễ cầu mưa, lễ khai mở cửa rừng, lễ hội mừng được
mùa; có những lễ hội gắn với các nhân vật lịch sử, các đấng minh quân,
anh hùng dân tộc được nhân dân thánh hóa, linh thiêng hóa như Hội Đồng
Cổ, Hội Đông Quan, Hội Đống Đa, hội mừng vua mới lên ngôi, hội quân,
hội thề… Tất cả những hội lễ ấy đã hàm ẩn những giá trị văn hóa, chỉ toàn
bộ hoạt động tinh thần, ý chí của cộng đồng cư dân Đại Việt.

21


Trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, các lễ hội dân gian
Đại Việt có thể được lưu giữ nguyên vẹn nhưng cũng có khi dịch chuyển
về hình thức, biến thể về ý nghĩa theo cảm quan nghệ thuật của người cầm
bút. Mỗi nhà văn viết về lễ hội với suy ngẫm riêng của mình. Tuy nhiên,
mấu chốt chung chúng ta dễ nhận thấy là các nhà văn viết về lễ hội khi
nhận thức được những giá trị văn hóa đó đang mai một mất đi trước dòng
thời đại cuộn chảy, qua đó dóng lên hồi chuông cảnh báo việc tổ chức lễ
hội đang diễn ra trong đời sống đương đại. Nó là đức tin hướng đến sự

đoàn kết quốc dân hay là những dự án, kế hoạch được vạch ra nhằm trục
lợi vật chất? Sẽ chẳng còn ý nghĩa chân chính khi phá vỡ tính cộng đồng,
áp đặt quyền lợi cá nhân lên các lễ hội là thông điệp sâu sắc cần nhận thức
đầy đủ mà nhà văn hướng đến con người đương đại.
4.2. Phương thức kiến tạo hệ biểu tượng văn hóa cộng đồng
trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam
4.2.1. Các tầng bậc không gian với khả năng kiến tạo hệ biểu
tượng văn hoá cộng đồng
Trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, không gian của hệ
biểu tượng văn hóa không đơn thuần là không gian vật lí vũ trụ, là tầng
không, là nơi chốn, là ranh giới vùng miền gắn với tộc người một cách giản
đơn mà đó là không gian lịch sử, văn hoá, không gian tâm lí.
Những tầng bậc không gian từ không gian sinh hoạt trần thế đến
không gian siêu thực được nhà văn miêu tả sinh động, in đậm tính chất văn
hóa truyền thống người Việt, phản ánh những giá trị cốt lõi của đời sống
tinh thần xã hội, gắn liền với từng biểu tượng văn hóa khác nhau.
Sự tồn tại của hai dạng thức trong không gian này trong tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam đương đại như hai mặt cơ bản vừa thống nhất vừa đối lập
22


×