Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Môn lãnh đạo quản lý báo chí, báo CHÍ TRUYỀN THÔNG là một HIỆN TƯỢNG xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.55 KB, 25 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Báo chí- Truyền thông là hiện tượng xã hội phổ biến, có vai trò rất quan
trọng trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, tác động và chi phối đến mọi
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Nó ra đời cùng với quá trình xuất
hiện và phát triển của xã hội loài người. Hoạt động truyền thông bao gồm
nhiều cấp độ và với các dạng thức hết sức đa dạng, phong phú, từ việc giao
tiếp cá nhân với những mục đích cá nhân thuần túy - ở đây chủ yếu hình
thành kỹ năng giao tiếp nội cá nhân, liên cá nhân mà vai trò chi phối chủ yếu
là môi trường giao tiếp, môi trường văn hóa gia đình - xã hội và tính chủ động
của mỗi người, đến việc nhận thức được một cách tự giác các hoạt động giao
tiếp - truyền thông và sử dụng nó vào việc giải quyết các vấn đề liên quan đến
cộng đồng - ở đây cần sự hiểu biết một cách hệ thống các lý thuyết và kỹ
năng chuyên nghiệp


B NỘI DUNG
1. Bản chất xã hội của Báo chí- truyền thông
1.1. Khái niệm về Báo chí- truyền thông
Báo chí - truyền thông đương đại là phương tiện và phương thức thông
tin giao tiếp xã hội, liên kết sức mạnh trí tuệ và cảm xúc xã hội để soi rọi vào
những vấn đề mà xã hội quan tâm. Đánh giá, phân tích, bổ sung và hoàn thiện
nó, thừa nhận hay phản bác với những cơ sở lý lẽ xác đáng.
Ở phương diện này báo chí nằm trong sức mạnh của cộng đồng được
phát huy trong một thiết chế chính trị, mà ở đó Nhà nước là của dân, do dân
và vì dân. Mặt khác cần xem báo chí là một thiết chế xã hội hoạt động trong
sự tương tác với các thiết chế xã hội khác. Ở phương diện này, báo chí vừa
bình đẳng, vừa bị chi phối bởi các thiết chế chính trị - xã hội cụ thể. Song
ngoài tính lệ thuộc của thiết chế này vào các thiết chế khác, thì báo chí còn có
tính đặc thù do chức năng báo chí và quy định của Luật Báo chí. Do đó mà
báo chí có mối liên kết rộng rãi, có khả năng tạo ra nhiều mối quan hệ liên kết
khác.


Báo chí có vai trò chi phối, quyết định sức mạnh, tính chất và khuynh
hướng của truyền thông đại chúng. Cho nên, trong nhiều trường hợp, người ta
dùng thuật ngữ báo chí để chỉ các phương tiện truyền thông đại chúng; mặt
khác, nói đến truyền thông đại chúng, trước hết là nói đến báo chí (hay giới
truyền thông nói chung). Thông tin báo chí và thông tin trên các phương tiện
truyền thông khác có sự khác biệt căn bản, nhưng giữa chúng có sự chia sẻ,
phối hợp, kết nối để gia tăng sức tác động và sự lan tỏa trên diện rộng cũng
như len lỏi vào công chúng xã hội theo nhóm nhỏ. Tuy nhiên trong môi
trường truyền thông số và thực tế hiện nay, vai trò này của báo chí đang bị
giảm dần, bởi công chúng xã hội có xu hướng ngày càng rời xa báo chí và gắn
kết với mạng xã hội.

1


Có nhiều cách định nghĩa lĩnh vực truyền thông, trong đó truyền thông
không bằng lời, truyền thông bằng lời và truyền thông biểu tượng.
Truyền thông (communication) là quá trình chia sẻ thông tin. Truyền
thông là một kiểu tương tác xã hội trong đó ít nhất có hai tác nhân tương tác
lẫn nhau, chia sẻ các qui tắc và tín hiệu chung. Ở dạng đơn giản, thông tin
được truyền từ người gửi tới người nhận. Ở dạng phức tạp hơn, các thông tin
trao đổi liên kết người gửi và người nhận. Phát triển truyền thông là phát triển
các quá trình tạo khả năng để một người hiểu những giừ người khác nói (ra
hiệu, hay viết), nắm bắt ý nghĩa của các thanh âm và biểu tượng, và học được
cú pháp của ngôn ngữ.
Truyền thông thường gồm ba phần chính: nội dung, hình thức, và mục
tiêu.
Nội dung truyền thông bao gồm các hành động trình bày kinh nghiệm,
hiểu biết, đưa ra lời khuyên hay mệnh lệnh, hoặc câu hỏi. Các hành động này
được thể hiện qua nhiều hình thức như động tác, bài phát biểu, bài viết, hay

bản tin truyền hình. Mục tiêu có thể là cá nhân khác hay tổ chức khác, thậm
chí là chính người/tổ chức gửi đi thông tin. Những quan niệm trên đây có
những khác biệt đáng kể do hoàn cảnh và điều kiện ứng dụng cho giao tiếp,
nhưng có thể thấy hiểu một cách chung nhất truyền thông là quá trình liên tục
trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm…, chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa
hai hoặc nhiều người nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau, tiến tới thay đổi
nhận thức, điều chỉnh hành vi và thái độ phù hợp với nhu cầu phát triển của cá
nhân/nhóm/cộng đồng/xã hội.
Trong các loại hình và dạng thức truyền thông, cần chú ý truyền thông
đại chúng. Truyền thông đại chúng là những kênh truyền thông hướng tác
động vào đông đảo công chúng; nó có vai trò quyết định sức mạnh, tính chất
và khuynh hướng của nền truyền thông. Trong truyền thông đại chúng, báo
chí với các loại hình báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử là
những kênh truyền thông có vai trò nền tảng, vị trí trung tâm và ý nghĩa quyết
2


định đối với truyền thông nói chung. Bởi vì, truyền thông đại chúng có thể
được hiểu là hệ thống (hoặc mạng lưới) các phương tiện truyền thông hướng
tác động vào đông đảo công chúng xã hội (nhân dân các vùng miền, cả nước,
khu vực hay cộng đồng quốc tế) để thông tin, chia sẻ, nhằm lôi kéo và tập
hợp, giáo dục thuyết phục và tổ chức đông đảo công chúng xã hội và nhân
dân nói chung tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội đã và
đang đặt ra, bảo đảm phát triển bền vững.
Truyền thông đại chúng có những đặc trưng nổi trội như:
Đối tượng tác động của truyền thông đại chúng là đông đảo công chúng
xã hội - những quần thể dân cư không phân biệt trình độ, dân tộc, tôn giáo,
đảng phái, tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp... Do đó, các sự kiện và vấn đề
đăng tải trên truyền thông đại chúng luôn hướng tới việc ưu tiên thỏa mãn,
phục vụ nhu cầu, mong đợi của công chúng xã hội và nhân dân; Truyền thông

đại chúng có tính mục đích rõ rệt; Truyền thông đại chúng phong phú đa dạng
và nhiều chiều, dễ nhớ, dễ hiểu và dễ làm theoTruyền thông đại chúng có tính
gián tiếp bởi hầu hết các kênh truyền thông đại chúng, trong quá trình chuyển
tải thông điệp, không có sự tiếp xúc trực tiếp giữa chủ thể và khách thể mà
dùng các phương tiện kỹ thuật làm vật trung gian truyền dẫn; Một trong
những nguyên lý của truyền thông là trong quá trình truyền thông, tần suất
tương tác giữa chủ thể và khách thể càng nhiều, càng bình đẳng, càng nhiều
người tham gia, thì năng lực và hiệu quả truyền thông càng cao.
1.2. Một số nguyên lý cơ bản trong truyền thông
- Quá trình truyền thông, mục tiêu chung hay các mục tiêu cụ thể của
chiến lược, chiến dịch (hay kế hoạch) truyền thông, sau khi đã được thiết lập,
cần phải được kiên trì và bảo đảm được thực hiện. Tuy nhiên, mục tiêu ấy
phải được xây dựng bảo đảm tính thực tế.
- Quá trình truyền thông, tần suất tương tác càng dày và càng bình
đẳng, công chúng càng tham gia tích cực, thì năng lực và hiệu quả truyền
thông càng cao.
3


- Trong quá trình truyền thông, mục đích truyền thông, thông điệp đích
và mong đợi của chủ thể càng gần gũi, có thể chia sẻ và phù hợp với công
chúng - nhóm đối tượng tiếp nhận, thì năng lực và hiệu quả truyền thông càng
cao.
1.3. Bản chất xã hội của truyền thông
Thứ nhất, truyền thông là phương tiện và phương thức thông tin, giao
tiếp xã hội. Thông tin trong truyền thông chủ yếu là cung cấp sự kiện và vấn
đề cụ thể, có ý nghĩa xã hội, thông qua đó chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm mà
chủ thể và khách thể quan tâm hoặc liên quan đến mục đích truyền thông;
thông qua đó làm cơ sở cho việc mở mang hiểu biết, thay đổi nhận thức, thái
độ và hành vi cho công chúng tiếp nhận và cho chủ thể truyền thông theo chủ

định của nhà truyền thông và đáp ứng nhu cầu người tiếp nhận, công chúng.
Do đó, truyền thông chú ý từ hai phía, cả chủ thể và khách thể truyền thông.
Giao tiếp trong truyền thông thể hiện ở các cấp độ khác nhau. Trước hết
là giao tiếp liên cá nhân, giao tiếp gia đình, giao tiếp nhóm và giao tiếp đại
chúng. Dù ở cấp độ nào, giao tiếp truyền thông cũng cần các điều kiện cần và
đủ. Điều kiện cần là năng lực, trình độ, mục đích và phương tiện giao tiếp.
Vấn đề này phụ thuộc vào trình độ phát triển xã hội về con người, văn hóa, kỹ
thuật và công nghệ truyền thông, tạo cho cá nhân điều kiện phát triển và sự
nhận thức về vai trò, vị thế xã hội cũng như nhu cầu truyền thông, giao tiếp xã
hội. Điều kiện đủ là môi trường chính trị, văn hóa, xã hội của giao tiếp. Thực
tiễn phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, xã hội nào có chế độ
chính trị ưu việt, đề cao con người và sức sáng tạo cá nhân, thiết lập được môi
trường tự do dân chủ, bảo đảm tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tạo dựng được
môi trường truyền thông để có thể phát huy nguồn lực con người, thì xã hội
ấy phát triển nhanh và bền vững; ngược lại, sẽ là sự kìm hãm phát triển. Đáp
ứng và tạo điều kiện phát triển nhu cầu thông tin, giao tiếp trong môi trường
tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do truyền thông là tạo môi trường và động
lực cho sự phát triển.
4


Thứ hai, truyền thông là phương tiện và phương thức liên kết (kết nối)
xã hội. Thông qua các sự kiện và vấn đề có ý nghĩa xã hội đã và đang diễn ra
thường xuyên liên tục nhất, rộng khắp nhất, truyền thông thông tin, giao tiếp
xã hội với các nhóm xã hội; từ đó kết nối họ thành cộng đồng trên cơ sở mục
đích vì sự phát triển và lợi ích chung. Do đó, có thể khẳng định rằng, truyền
thông là phương tiện và phương thức liên kết xã hội hiệu quả nhất. Tùy theo
dạng thức và cấp độ của loại hình truyền thông, mà mức độ liên kết xã hội
khác nhau. Chẳng hạn, đơn thuần là truyền thông nội cá nhân cũng có thể biểu
hiện tính liên kết của truyền thông. Ở đây, mỗi cá nhân thực hiện truyền thông

nội cá nhân phụ thuộc vào điều kiện giao tiếp, trình độ, tư chất và năng lực tư
duy. Tính chất liên kết ở truyền thông liên cá nhân, truyền thông nhóm và
truyền thông đại chúng được thể hiện rõ rệt hơn.
Liên kết (kết nối) xã hội là phương thức thông qua các sự kiện, vấn đề
thời sự để xã hội hóa nó; thông qua xã hội hóa sự kiện, vấn đề thời sự mà khơi
nguồn nhận thức, kết nối, khai thác và phát huy nguồn lực sức mạnh mềm của
cộng đồng và quốc gia hay khu vực, quốc tế nói chung. Do đó, phương tiện và
phương thức kết nối xã hội của truyền thông là thường xuyên liên tục nhất, có
khả năng kết nối xã hội to lớn trên phạm vi rộng lớn nhất; bao quát nhiều
nhóm công chúng, đối tượng nhất; đa dạng, phong phú nhất, thiết thực và cụ
thể nhất. Như vậy, không một phương tiện, phương thức nào có khả năng kết
nối xã hội to lớn và hiệu quả như truyền thông.
Thứ ba, truyền thông là phương tiện và phương thức can thiệp xã hội.
Mọi vấn đề xã hội đều do con người tạo ra và giải quyết, từ chính trị, kinh tế,
văn hóa... Thông qua các phương tiện và dạng thức truyền thông, thông điệp
truyền thông tác động vào nhận thức, thái độ và hành vi xã hội của đông đảo
công chúng xã hội, giúp công chúng có thêm thông tin, hiểu biết, nhận thức
để có thể giải quyết vấn đề hiệu quả hơn. Mặt khác, báo chí, truyền thông có
khả năng dự báo, cảnh báo những rủi ro, khủng hoảng giúp hoạch định chính
sách và tiên liệu phương cách giải quyết vấn đề bảo đảm phát triển bền vững.
5


Truyền thông, đặc biệt là truyền thông đại chúng là phương tiện hữu
hiệu trong giám sát và phản biện xã hội, phản ánh tâm tư, nguyện vọng và thể
hiện sức mạnh xã hội của cộng đồng, thậm chí tạo nên áp lực xã hội bằng dư
luận xã hội trong quá trình tìm kiếm các giải pháp tối ưu cho việc giải quyết,
can thiệp các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội một cách hiệu quả.
2. Một số dạng thức truyền thông
Dạng thức, loại hình truyền thông là những khái niệm được dùng để

khu biệt các mô hình, mô thức, cách thức tổ chức liên kết các yếu tố hoạt
động truyền thông; nhờ đó, kế hoạch, hoạt động truyền thông được lập ra theo
những tiêu chí nhất định và những tiêu chí này làm cơ sở cho hoạt động kiểm
tra, giám sát và đánh giá kế hoạch hay chiến dịch truyền thông.
Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, sẽ có các cách phân loại khác nhau
cho dạng thức hay loại hình truyền thông.
- Căn cứ vào kênh chuyển tải thông điệp có truyền thông trực tiếp và
truyền thông gián tiếp và các dạng thức truyền thông khác nhau;
- Căn cứ vào mức độ phạm vi tác động, ảnh hưởng của truyền thông, có
thể phân chia thành truyền thông nội cá nhân, truyền thông liên cá nhân,
truyền thông nhóm và truyền thông đại chúng;
- Căn cứ vào mục đích và phương thức tổ chức hoạt động truyền thông,
sẽ có các loại hình truyền thông: Thông tin - giáo dục - truyền thông; tuyên
truyền; truyền thông thay đổi hành vi; truyền thông - vận động xã hội…
3. Vai trò của báo chí, truyền thông đại chúng
3.1. Chức năng thông tin - giao tiếp
Có thể nói rằng, thông tin - giao tiếp là chức năng khởi nguồn, chức
năng cơ bản nhất của truyền thông đại chúng. Truyền thông đại chúng ra đời
và phát triển, trước hết là nhằm thoả mãn ngày càng cao nhu cầu thông tin của
con người và xã hội. Thông tin là nhu cầu sống còn, nhu cầu phát triển của
con người và xã hội; đồng thời là động lực kích thích sự phát triển. Xã hội
càng phát triển thì nhu cầu thông tin càng cao. Trong quá trình đáp ứng nhu
6


cầu ấy, bản thân truyền thông đại chúng cũng phát triển không ngừng. Điều
đó giải thích tại sao trong quá trình đổi mới ở nước ta, báo chí, truyền thông
phát triển từng ngày. Đồng thời có thể khẳng định, cuộc đấu tranh tư tưởng,
chính trị, xã hội càng phức tạp, kinh tế thị trường càng phát triển thì tính chất
thông tin cũng ngày càng đa dạng và phức tạp. Số lượng, chất lượng và tính

chất các sản phẩm truyền thông phản ánh trình độ, diện mạo và tính chất thiết
chế chính trị - xã hội.
Để việc thực hiện chức năng thông tin trên các kênh truyền thông đại
chúng đạt hiệu quả cao, thì thông tin phải nhanh chóng, hợp thời, phong phú,
đa dạng, trung thực; thông tin phải phù hợp với các quy tắc xã hội, các giá trị
văn hoá và đạo lý của dân tộc; phù hợp với phát triển và phục vụ sự phát
triển; thông tin cần phải phục vụ tiến trình phát triển kinh tế - xã hội.
3.2. Chức năng cung cấp kiến thức, mở rộng hiểu biết và giáo dục tư
tưởng, cổ vũ hành động
Quá trình thực hiện chức năng thông tin cũng đồng thời là quá trình
cung cấp kiến thức, chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm trong cộng đồng xã hội,
khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Đó là quá trình cung cấp kiến thức, mở
rộng hiểu biết, nâng cao trình độ dân trí và góp phần cải thiện diện mạo văn
hóa cộng đồng. Kiến thức, hiểu biết tạo tiền đề cho hoạt động giáo dục tư
tưởng và cổ vũ hành động. Chỉ có trên cơ sở hệ kiến thức đa dạng, phong phú,
nhiều chiều trên cả bề rộng lẫn chiều sâu, con người mới có thể có được nhận
thức tư tưởng đúng đắn, khoa học, phù hợp với nhu cầu phát triển.
Tuyên truyền, thực chất là truyền bá hệ tư tưởng, làm cho hệ tư tưởng
của giai cấp thông trị chiếm lĩnh trong đời sống tinh thần của tuyệt đại đa số
nhân dân. Ở Việt Nam, tuyên truyền có thể được hiểu là truyền bá đường lối,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, làm cho nó thâm nhập và
chiếm lĩnh trong nhận thức, thái độ và hành vi của các tầng lớp nhân dân. Tư
tưởng là lĩnh vực rất khó nắm bắt, dễ biến động và liên hệ mật thiết với thực
tiễn kinh tế - xã hội. Muốn tuyên truyền tư tưởng và gây dựng niềm tin cho
7


đông đảo nhân dân, trước hết phải giải quyết tốt những vấn đề kinh tế - xã
hội, thúc đẩy sự phát triển bền vững và chống tiêu cực, tham nhũng, làm trong
sạch bộ máy công quyền, thông qua đó gây dựng niềm tin của nhân dân vào

chế độ xã hội.
3.3. Chức năng khai sáng, giải trí
Các sản phẩm báo chí, truyền thông góp phần to lớn vào việc nâng cao
dân trí, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc cũng như giao lưu,
tiếp thu các tinh hoa văn hoá của các dân tộc trên thế giới phục vụ sự nghiệp
phát triền đất nước, chấn hưng dân tộc. Số lượng và chất lượng các sản phẩm
truyền thông cũng là một trong những tiêu chí đánh giá trình độ phát triển của
một cộng đồng, một đất nước. Đồng thời, mức độ và khuynh hướng tiếp nhận
sản phẩm truyền thông còn là tiêu chí đánh giá trình độ, diện mạo văn hóa của
mỗi con người.
Báo chí và truyền thông đại chúng có thể và cần phải tác động, can
thiệp vào các cấp độ của giáo dục, khai sáng theo những nội dung, cách thức
phù hợp nhằm góp phần nâng cao dân trí, phát triển nguồn lực cho sự nghiệp
phát triển đất nước. Mặt khác, truyền thông đại chúng cũng là kênh có nhiều
ưu thế trong việc phổ biến các thành tựu khoa học - công nghệ, hướng dẫn
cách thức áp dụng, triển khai và chuyển giao công nghệ. Truyền thông đại
chúng còn là công cụ giám sát hữu hiệu trong việc bảo đảm mục tiêu, định
hướng và hiệu quả công tác giáo dục đào tạo cũng như tập hợp nguồn lực xã
hội tham gia giải quyết các vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển.
Truyền thông đại chúng còn là kênh tạo cơ hội cho đông đảo nhân dân
tham gia giải trí, tức là tạo điều kiện, tổ chức và hướng dẫn công chúng sử
dụng thời gian rỗi một cách hữu ích để cân bằng trạng thái tâm lý và tái sản
xuất sức lao động.
3.4. Chức năng giám sát và phản biện xã hội
Giám sát là một trong những chức năng quan trọng hàng đầu của truyền
thông đại chúng. Ở các nước phương Tây, chức năng này được đề cao với đầy
8


đủ hành lang pháp lý, cho nên báo chí và truyền thông đại chúng được coi là

quyền lực thứ tư, kiểm soát cả quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Phản biện xã hội có thể được hiểu là cách thức (hay phương thức) thể
hiện, huy động nguồn lực trí tuệ và cảm xúc của đông đảo nhân dân vào việc
góp ý kiến hoàn thiện các chủ trương, quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước,
trong quá trình giải quyết các vấn đề lớn, liên quan đến sự phát triển của cộng
đồng.
Ở Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 6 (lần hai) khóa VIII của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã ghi nhận, khẳng định báo chí và truyền thông đại
chúng là một trong bốn hệ thống giám sát xã hội. Đây là bước phát triển quan
trọng về lý luận, nhận thức của Đảng về vai trò xã hội của báo chí và truyền
thông đại chúng.
Giám sát xã hội của báo chí, truyền thông đại chúng là giám sát chủ
yếu bằng tai mắt của nhân dân, giám sát bằng dư luận xã hội. Đó là quá trình
giám sát mọi nơi, mọi lúc. Chức năng giám sát xã hội của báo chí, truyền
thông đại chúng trong quá trình thực hiện chủ trương chính sách, luật pháp là
để kịp thời phát hiện những nơi làm đúng, làm hay để biểu dương khích lệ và
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; đồng thời cũng để sớm phát hiện những “trục
trặc”, những nơi làm dở, làm sai, những nơi vi phạm chủ trương, chính sách
và luật pháp để đấu tranh. Vai trò và sức mạnh giám sát xã hội của truyền
thông đại chúng trước hết là xã hội hóa những việc tốt và những sai phạm của
tổ các chức hoặc cá nhân nào đó để khơi nguồn và định hướng dư luận xã hội
theo hướng ủng hộ hoặc chỉ trích, tạo áp lực dư luận và buộc các cơ quan
công quyền giải quyết, giải thích và giải đáp trước nhân dân, trước công luận.
3.5. Chức năng kinh tế - dịch vụ xã hội
Sản phẩm truyền thông đại chúng có thể được sản xuất, chuyển tải qua
nhiều kênh khác nhau, với những mục đích và ý đồ cụ thể, với những phương
thức khác nhau. Có loại sản phẩm được sản xuất phục vụ mục đích chính trị,
quảng bá; có loại được sản xuất đáp ứng nhu cầu xã hội, thị trường trên cơ sở
9



bảo đảm yêu cầu chính trị và chuẩn mực văn hóa, được lưu thông và hạch
toán như sản phẩm hàng hóa theo thị trường cung - cầu. Do đó, sản phẩm
truyền thông đại chúng vừa phục vụ yêu cầu chính trị - xã hội trong từng thời
điểm cụ thể, nhưng cần chú ý nó là sản phẩm hàng hóa với những đặc thù
riêng có. Trong nền kinh tế thị trường nước ta, với sự phát triển của truyền
thông đại chúng, đã và đang hình thành nền công nghiệp giải trí.
Trong môi trường truyền thông số và hội nhập quốc tế, cùng với quá
trình toàn cầu hóa, báo chí và truyền thông nói chung có vai trò ngày càng to
lớn; sức mạnh chi phối và can thiệp của nó vào các quá trình xã hội ngày càng
gia tăng. Báo chí và truyền thông là một thiết chế xã hội đặc thù, có tính độc
lập nhưng gắn chặt với hệ thống chính trị và quyền lực chính trị. Nó có vai trò
đa dạng, phong phú, với bản chất là phương tiện và phương thức thông tin,
giao tiếp, kết nối và can thiệp xã hội. Vấn đề phát huy, huy động sức mạnh và
nguồn tài nguyên của thông tin báo chí, truyền thông như thế nào tùy thuộc
vào quan niệm, quan điểm và chính sách cụ thể. Nhưng cần thống nhất nhận
thức rằng, báo chí, truyền thông không chỉ là công cụ tuyên truyền chính trị,
nó còn là thiết chế xã hội và có vai trò xã hội rộng lớn, đa dạng, phù hợp với
nhu cầu công chúng và phát triển khách quan của xã hội.
4. Tác động của các trang mạng xã hội đối với báo chí trong giai
đoạn hiện đại
Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ kỹ thuật số, Internet đã và
đang tác động sâu sắc, đa dạng đến “bữa tiệc” thông tin của công chúng
truyền thông hiện đại, ảnh hưởng trực tiếp đến sự “sinh tồn” của các phương
tiện truyền thông truyền thống, đặt ra cho các tòa soạn và nhà báo những
thách thức chưa từng có.
Có thể khẳng định, giờ đây báo chí hiện đại đã và đang tiệm tiến đến xu
thế đa nền tảng. Thực tế cho thấy, nếu một tòa soạn chỉ có báo in, truyền hình
hay website vẫn chưa đủ, mà cần phải có các phiên bản cho máy tính bảng và
điện thoại di động theo thiết kế chuyển đổi linh hoạt. Một số ứng dụng của

10


mobile “ra đời” trong vòng quay biến thiên, nhằm để tập trung khai thác các
thị trường ngách, tạo ra lợi nhuận mới cho các tòa soạn, đồng thời đáp ứng
yêu cầu mới của công chúng trong môi trường truyền thông cạnh tranh đầy
khốc liệt hiện nay.
Có thể khẳng định, truyền thông xã hội đã và đang tạo ra một cuộc chơi
mới, khiến báo chí truyền thống phải thay đổi để giữ chân độc giả. Với khả
năng đưa tin, chia sẻ, thu hút, tìm kiếm thông tin nhanh chóng, truyền thông
xã hội có lợi thế hơn báo chí truyền thống, tuy nhiên, báo chí vẫn có chỗ đứng
vững chắc và quan trọng của mình trong “trận địa” thông tin mở như hiện nay,
nếu duy trì được chất lượng, coi nội dung là “vua”, đồng thời kết hợp được
những tính ưu việt mà truyền thông xã hội đem lại, từ đó tăng cường sức
mạnh cũng như tăng giá trị cho báo chí truyền thống.
Thông điệp quan trọng nhất mà bất cứ nhà báo nào luôn phải “khắc cốt
ghi tâm”: truyền thông xã hội chỉ là một nguồn tham khảo - công cụ thu thập
và thẩm định thông tin, liên lạc với nguồn tin… Và, trong sự vận động và phát
triển của báo chí hiện đại, việc sử dụng và tích hợp truyền thông xã hội vào
báo chí là một trong những xu hướng mới của báo chí, bất cứ ai hoạt động
trong lĩnh vực này đều phải quan tâm và tìm ra hướng đi phù hợp trong cuộc
chơi đầy cam go và khốc liệt như hiện nay.
Ngược lại, với Sự xuất hiện của hiện tượng “khủng hoảng truyền
thông” liên quan một số sự kiện, vấn đề mới nảy sinh trong xã hội không phải
khi nào cũng mang ý nghĩa tích cực, mà nhiều khi còn đem lại hệ lụy khó có
thể chấp nhận. Trong các nguyên nhân đẩy tới hiện tượng này, cần đề cập vai
trò của báo chí với xu hướng khai thác khía cạnh giật gân, câu khách,… và
làm nhiễu loạn thông tin.
Sự cố một sản phẩm “có ruồi” của Tân Hiệp Phát - hãng nước giải khát
hàng đầu Việt Nam, là một thí dụ về sự tham gia quá mạnh mẽ song chưa

đúng cách của truyền thông. Khi bị tống tiền, lúc đầu là một tỷ đồng, sau còn
500 triệu đồng cho một chai nước ngọt chưa chắc do mình sản xuất, Tân Hiệp
11


Phát đương nhiên nghĩ đến việc nhờ pháp luật tìm ra sự thật. Giới luật sư
cũng phải thừa nhận, hành vi của Võ Văn Minh là tống tiền do thiếu hiểu biết
pháp luật. Có giả thuyết cho rằng, khi Võ Văn Minh phát hiện có ruồi trong
chai nước, anh không đòi tiền mà chỉ thông báo với báo chí, Hiệp hội người
tiêu dùng và doanh nghiệp, thì đây sẽ là một việc làm đáng biểu dương, anh
không phải đứng trước tòa và hình ảnh, uy tín của Tân Hiệp Phát cũng không
bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, đáng tiếc là quá nhiều tờ báo, trang tin lại có vẻ
nghiêng về phía Võ Văn Minh khi đưa ra hàng loạt tin, bài đả kích gây bất lợi
cho Tân Hiệp Phát. Có bài báo chủ yếu khai thác thông tin bên lề, viết cả về
sự đau khổ của vợ con Võ Văn Minh, cốt để tăng số lượng người đọc, mà bỏ
qua ảnh hưởng của sự việc.
Cuộc chiến trên facebook cũng mạnh mẽ không kém khi xuất hiện cả
các hội, nhóm cực đoan kêu gọi tẩy chay không chỉ một mà các sản phẩm của
thương hiệu này. Sự vào cuộc có phần thiếu thiện chí của báo chí, mạng xã
hội đã khiến “câu chuyện con ruồi” để lại hậu quả đáng tiếc. Và khi vào cuộc
như thế, một số báo, trang điện tử và những người hô hào trên mạng xã hội có
biết rằng, chính họ đã cản trở, gây khó khăn cho sản xuất trong nước, tác
động tiêu cực đến việc hình thành thương hiệu có uy tín của Việt Nam? Tất
nhiên nếu sai thì cần phải phê phán, nhưng phê phán để một người phải vào tù
bảy năm vì tội cưỡng đoạt tài sản, một doanh nghiệp phải đứng trước nguy cơ
kinh doanh khó khăn, một thương hiệu của người Việt có thể biến mất trên thị
trường thì có nên chăng? Mặc dù cũng phải đặt ra câu hỏi rằng, trong trường
hợp này, doanh nghiệp Tân Hiệp Phát đã xử lý khủng hoảng một cách có lý có
tình, khôn ngoan và linh hoạt không, nếu không nói là đã thất bại?
Một thí dụ khác là việc gần đây báo chí thông tin chưa đúng, khiến dư

luận xã hội hết sức bức xúc, là sự khủng hoảng vắc-xin. Hẳn chúng ta chưa
quên sự kiện hàng nghìn người chen lấn, xếp hàng từ đêm đến sáng với hy
vọng tiêm được vắc-xin dịch vụ 5 trong 1 (Pentaxim) cho con. Có gia đình mà
ông bà, bố mẹ còn phải thay phiên nhau xếp hàng, có nhà thuê người giữ chỗ
12


trước với giá 100 đến 200 nghìn đồng... Cuối cùng, do quá đông người chen
lấn nên phải hoãn tiêm. Sau sự cố này, để tránh tình trạng chen lấn tại các
điểm tiêm chủng, Bộ Y tế đưa ra giải pháp đăng ký trực tuyến, ai đăng ký
thành công (có phiếu đăng ký riêng ghi rõ số thứ tự, thông tin của trẻ, người
đưa trẻ đi tiêm, thời gian hạn tiêm chủng) thì mới đưa trẻ đến tiêm. Và không
ngoài dự đoán, nhiều bố mẹ đã “trực chiến” bên máy tính vẫn không thể đăng
ký nổi một suất tiêm cho con vì bị… nghẽn mạng, không đăng nhập được!
Trong khi đó, bên cạnh vắc-xin dịch vụ, vẫn có vắc-xin 5 trong 1 của
chương trình tiêm chủng mở rộng, đó là vắc-xin Quinvaxem của Hàn Quốc,
tiêm miễn phí cho trẻ dưới một tuổi từ tháng 6-2010, đã tiêm được khoảng 24
triệu liều. Mặc dù theo Tổ chức Y tế thế giới WHO, Quinvaxem là vắc-xin an
toàn, được sử dụng tại 91 quốc gia trên thế giới và số ca tai biến sau tiêm tại
Việt Nam thấp hơn so với khuyến cáo, nhưng nhiều người vẫn chưa tin, vẫn
cứ “săn” vắc-xin dịch vụ. Thậm chí, nhiều gia đình có điều kiện còn đưa con
ra nước ngoài tiêm, có gia đình chọn tiêm vắc-xin được quảng cáo là “hàng
xách tay” với giá cao. Nguyên nhân chủ yếu là do trong năm 2015, xảy ra 16
trường hợp phản ứng nặng (tím tái, khó thở, sốt cao) sau tiêm, đặc biệt là chín
ca tử vong, Quinvaxem đã trở thành nỗi ám ảnh của nhiều gia đình có trẻ nhỏ
đang trong tuổi tiêm chủng.
Với sự cố này, nhiều tờ báo đã vào cuộc một cách thái quá, chỉ trích Bộ
Y tế không cung cấp đủ vắc-xin, không đổi vắc-xin trong chương trình tiêm
chủng mở rộng, vắc-xin Quinvaxem không an toàn… Tuy nhiên, khi đưa ra ý
kiến chỉ trích, nhiều nhà báo tỏ ra thiếu kiến thức, không hiểu rằng việc đổi

vắc-xin cần đến một lộ trình, gồm rất nhiều yếu tố đi kèm, không thể hoàn
thành trong một sớm một chiều. Một số tác giả cũng đưa cái nhìn chủ quan,
trút sự phẫn nộ vào các bài báo và thông tin đến với người đọc thiếu tính
khách quan.
Mặt khác, có trang tin “ăn theo” sự cố để tăng lượng người đọc nên đã
đưa vô số tin, bài để câu view, đưa thông tin ngoài lề, không cần thiết nhưng
lại đánh trúng tâm lý lo lắng của người đọc.
13


Bên cạnh đó, một thách thức khác là hàng loạt thông tin bất lợi được
cập nhật từng phút trên mạng xã hội, chưa được kiểm chứng nhưng phần
nhiều theo chiều hướng tiêu cực. Hậu quả là truyền thông đã phần nào khiến
người dân thêm hoang mang, lo lắng, đẩy phẫn nộ lên cao trào. Sử dụng
truyền thông đưa sự việc đến mức như vậy, họ có quan tâm đến khả năng về
nguy cơ do tâm lý lo sợ của cha mẹ mà sẽ có ít trẻ em được tiêm chủng hơn,
dịch bệnh có thể quay trở lại và khi đó, số lượng trẻ tử vong sẽ lớn hơn rất
nhiều?
Khi báo chí đưa tin trung thực, ý kiến phân tích khách quan, có tri thức,
có thiện chí, rạch ròi, cụ thể, chỉ rõ điều cần phê phán sẽ có tác dụng tích cực,
gây hiệu ứng lành mạnh trong xã hội. Khi ấy buộc đơn vị, tổ chức liên quan
phải nhận lỗi trước dư luận, điều chỉnh quá trình sản xuất, thậm chí phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật nếu để lại hậu quả nghiêm trọng. Còn nếu báo chí
chạy theo xu hướng khai thác khía cạnh giật gân để câu khách, công bố ý kiến
thiếu khách quan, thiếu hiểu biết cặn kẽ vấn đề, lại phiến diện, mập mờ, lợi
dụng sự kiện để đưa ra các liên hệ có tính đả kích, bài bác… thì sẽ gây tổn hại
đến uy tín, lợi ích của đơn vị, tổ chức liên quan.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh in-tơ-nét phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội
cũng “góp phần” biến một số sự cố (đôi khi rất nhỏ) thành một cuộc khủng
hoảng truyền thông. Tốc độ cập nhật thông tin trên mạng xã hội không còn

tính theo ngày hay giờ, mà tính theo phút, theo giây. Cho nên, điều đáng lo
ngại là khi báo chí đưa thông tin chưa chính xác, thiếu kiểm chứng, bình luận
vội vàng và cảm tính, được khai thác để đưa lên mạng xã hội thì mức độ lan
truyền tăng lên rất nhanh, tác động tới sự tiếp nhận của công chúng, thậm chí
chiếm được niềm tin của nhiều người, nhất là khi có người đã nhân danh
chuyên môn để bàn thảo, đánh giá và phê phán. Từ đó có thể nói, trách nhiệm
của báo chí đối với dư luận càng phải được đề cao.
Những đổi mới trong công nghệ thông tin đã đưa thế giới đến với một
kỷ nguyên của các phương tiện truyền thông đại chúng, trong đó hầu như tất
14


cả mọi người đều được tiếp cận tin tức và thông tin, và trở thành những người
sáng tạo và đóng góp cho ngành công nghiệp báo chí. Nhờ đó, ngày nay, tin
tức được truyền đi theo những cách thức phi truyền thống với những hệ quả
không thể đoán trước được. điều này cho thấy nghĩa vụ và trách nhiệm của
ngành truyền thông đại chúng cần phải nâng cao vai trò, trách nhiệm của
mình trong quá trình thu nhận, phát tán, truyền tải thông tin đến công chúng.
5. “Công cụ” đắc lực cho Báo chí- Truyền thông hiện đại
Vấn đề đặt ra là, trong xã hội “mở”, truyền thông xã hội thường gắn với
các hoạt động truyền thông không chính thức, bởi nó cho phép người sử dụng
dễ dàng tham gia vào một nhóm nào đó trên mạng xã hội để trò chuyện và
đưa ra quan điểm riêng của mình về một vấn đề mà họ đang quan tâm. Nếu
xét từ giác độ phương thức truyền thông, truyền thông xã hội được hoạt động
trên nền tảng là các dịch vụ trực tuyến, tin tức có thể chia sẻ và được lan
truyền một cách nhanh chóng và có tính tương tác cao giữa những người tham
gia. Do đó, sự phát triển của truyền thông xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát
triển của môi trường truyền thông trực tuyến, nhất là Internet. Thực tế cho
thấy, sự phát triển mạnh mẽ của truyền thông xã hội đã ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động của các cơ quan báo chí, thậm chí làm đảo lộn và thay đổi môi

trường truyền thông hiện nay. Trước kia, trong môi trường truyền thông cổ
điển, những tiêu chuẩn mang tính chiến lược nhất về giá trị nội dung của
thông tin là giá trị của tin tức. Có nghĩa, một tin được coi là có giá trị, được
các cơ quan báo chí truyền thống quan tâm nhiều hơn, nếu nó là những tin
mang tính thời sự, có tác động lớn đối với kinh tế - xã hội. Đối với những tin
giải trí, giật gân, bạo lực, hoặc những tin nhỏ lẻ bị “phê bình” là “phi tin tức”,
hay tin ít có giá trị. Chính điều đó đã khiến báo chí truyền thống được phép sử
dụng tiêu chuẩn xác định giá trị thông tin này để tạo ra sự khác biệt trong tin
tức nhằm lôi kéo công chúng. Tuy nhiên, đó chỉ là trong bối cảnh mà báo chí
truyền thống giữ vai trò độc tôn trong hoạt động cung cấp tin tức, và họ có
quyền làm chủ “cuộc chơi” truyền thông.
15


Sự xuất hiện của truyền thông xã hội đã làm thay đổi “luật chơi”, công
chúng hiện nay với sự hậu thuẫn của trào lưu truyền thông xã hội đã có thêm
những sự lựa chọn mới. Trong môi trường truyền thông mới, cái được gọi là
“phi tin tức” đang trở thành làn sóng mới, chi phối sự lựa chọn biên tập và
xuất bản của cơ quan báo chí truyền thống, bởi nó đáp ứng nhu cầu của công
chúng hiện đại. Và đương nhiên, một khái niệm trong nghiên cứu báo chí và
truyền thông xuất hiện đó là tin tức xã hội. Đây là lượng thông tin khổng lồ
được chia sẻ, trong đó phần lớn là kiểu “phi tin tức” được đăng tải khắp trên
mạng xã hội. Thực chất, nếu phân tích kỹ từ giác độ lý luận báo chí, tin tức xã
hội có lợi thế hơn báo chí truyền thống ở chỗ nó được đăng tức thời.
Một điều đáng nói là, khi truyền thông xã hội phát triển, sẽ tạo ra một
nguồn thông tin đa dạng và phong phú cho báo chí truyền thống. Thông
thường, truyền thông xã hội có ưu thế trong việc phát hiện ra các thông tin xã
hội rất nhanh, nhưng lại bị hạn chế bởi khả năng theo đuổi sự kiện đến cùng,
do đó, khó có thể tạo thành chùm hoặc chuỗi tin, bài vừa có sức nặng vừa có
giá trị cao.

Trung tâm nghiên cứu PEW (Mỹ) vừa công bố Báo cáo hàng năm về
tình hình báo chí truyền thông của Mỹ (The State of the News Media
2013[1]). Trong bản Báo cáo này, các nhà nghiên cứu đã phân tích một số xu
thế phát triển quan trọng của ngành báo chí Mỹ, bao gồm sự ảnh hưởng mạnh
mẽ của truyền thông xã hội đối với lĩnh vực báo chí truyền thông, đồng thời
nhấn mạnh: “Quyền lực đang dần dịch chuyển từ báo chí truyền thống sang
“báo chí cá nhân”. Thực chất, xu thế này đang hình thành, mặc dù tiềm lực
của nó chưa rõ ràng, song động thái này rất rõ nét, thông qua công cụ tìm
kiếm trên mạng, thư điện tử (email), blog và mạng xã hội..., người sử dụng
dần dần trở thành thành “phóng viên” và “người phát ngôn báo chí”, đồng
thời ở một mức độ nào đó đã tách rời sự lệ thuộc vốn có vào các cơ quan báo
chí chuyên nghiệp”. Không riêng chỉ có Mỹ, kết quả nghiên cứu của Viện
Khoa học Xã hội Trung Quốc về sự phát triển của các phương tiện truyền
16


thông mới vừa công bố cho thấy, các tiểu blog (micro-blog) đã có những ảnh
hưởng mang tính cách mạng đối với báo chí truyền thống và dư luận xã hội ở
nước này. Theo thống kê, hiện có trên 70% số người sử dụng micro-blog ở
Trung Quốc coi mạng xã hội là nguồn cung cấp thông tin quan trọng.
Trong đời sống truyền thông hiện đại, ngày càng nhiều sự kiện quan
trọng được truyền phát thông qua các kênh của mạng xã hội như Twitter,
Facebook... Chính vì vậy, mạng xã hội không chỉ là một diễn đàn khác tồn tại
song song với các phương tiện truyền thông truyền thống, mà còn đại diện
cho xu thế của truyền thông mới trong tương lai. Và điều đó đặt ra cho người
làm báo và các hãng truyền thông lớn phải biết sử dụng và khai thác triệt để
truyền thông xã hội phục vụ cho hoạt động của mình.
Theo điều tra của Hãng thông tấn PRNewswire toàn cầu chi nhánh tại
Trung Quốc, trên 90% số phóng viên làm việc trong các cơ quan báo chí
truyền thống của nước này sử dụng micro-blog, trong đó có gần ½ số phóng

viên thường xuyên sử dụng kênh truyền thông xã hội. Có thể thấy, truyền
thông xã hội đã trở thành công cụ đắc lực để phóng viên Trung Quốc tiến
hành phỏng vấn và cũng theo kết quả điều tra, trên 60% số phóng viên được
hỏi có ít nhất một lần thông qua truyền thông xã hội phát hiện ra đầu mối
thông tin và dựa vào “nguồn” đó để hoàn thành tác phẩm của mình. Hãng
BBC của Anh luôn coi mạng xã hội Twitter là diễn đàn mở rộng nội dung,
“công cụ” thu thập thông tin, phỏng vấn và biên tập tin, bài. Đây được coi là
phương pháp mới để nhà báo gắn kết với công chúng. Rất nhiều hãng truyền
thông cho rằng, truyền thông xã hội đóng vai trò rất quan trọng đối với hoạt
động phỏng vấn, biên tập của nhà báo hiện nay. Cụ thể, các hãng truyền thông
này không những lập các trang mạng xã hội riêng cho mình, mà còn khích lệ
phóng viên tích cực sử dụng kênh truyền thông mới vào quá trình tác nghiệp.
Trong 5 năm nghiên cứu các nguồn cung cấp thông tin, nhóm nghiên
cứu phát hiện xu hướng chung là lượt xem truyền hình và báo, trang tin trực

17


tuyến đang có xu hướng tăng trong khi tỷ lệ đọc báo in ngày càng suy giảm
đáng kể.
Tuy nhiên, thay đổi lớn nhất trong thế giới truyền thông số là sự tăng
trưởng của những thông tin truy cập qua mạng xã hội như Facebook, Twitter,
Instagram và Snapchat. Ở Mỹ, số người sử dụng mạng xã hội là nguồn cấp tin
chính tăng đến 46% trong tổng mẫu khảo sát, gần gấp đôi kể từ năm 2013.
Nhưng vấn đề không chỉ là tiếp cận với tin tức thông qua mạng xã hội.
Đối với Facebook, cách thể hiện tin tức đang trở thành một yếu tố mà dịch vụ
này đẩy mạnh phát triển trong năm qua.
Thực ra, từ giữa năm 2011 trở đi, xu hướng tích hợp truyền thông xã
hội vào báo chí truyền thống ở một số nước trên thế giới mới dần trở nên rõ
nét. Bởi mạng xã hội đã thâm nhập một cách toàn diện vào từng khâu trong

quy trình sản xuất báo chí truyền thông hiện đại, từ phỏng vấn, thu thập tin
tức đến viết và biên tập tin, bài; từ đưa tin đến tương tác giữa nhà báo với
công chúng... Do vậy báo chí truyền thông là hiện tượng xã hội phổ biến, có
vai trò rất quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, tác động và
chi phối đến mọi lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội
6. Vấn đề đặt ra cho các nhà báo hiện nay
Thứ nhất, nhà báo cần thu hút sự hợp tác và cùng tham gia của công
chúng. Trong thực tế, quy trình truyền thông truyền thống diễn ra như sau: sự
kiện được nhà báo truyền tải tới công chúng thông qua các phương tiện truyền
thông. Trong quá trình truyền thông đó, nhà báo đóng vai trò là người chủ
động tích cực, còn công chúng thường ở vị trí bị động hơn. Tuy nhiên, trong
môi trường truyền thông mới, quy trình truyền thông đơn nhất đã thay đổi,
ranh giới giữa nhà báo và công chúng dần bị xóa nhòa, công chúng ngày càng
chủ động và tích cực hơn, khiến chủ thể của truyền thông được chuyển từ sự
“lũng đoạn độc quyền” của phóng viên chuyên nghiệp thành phóng viên và
công chúng cùng chia sẻ, mô hình truyền thông được chuyển từ (đơn nhất)
một chiều sang truyền thông tương tác (đa chiều). Sự nhất thể hóa giữa người
18


truyền thông và công chúng đã trở thành nét đặc trưng chủ yếu của mô hình
truyền thông mới trong kỷ nguyên truyền thông hội tụ.
Ví dụ, các cuộc tấn công tại Mumbai (Ấn Độ) tháng 11/2008 đã tạo ra
một “cơn bão” tin tức được cập nhật trực tiếp từ người dân, làm tăng lượng
truy cập và thông tin trên các trang mạng xã hội Twitter và Flickr. Một bản đồ
Google map về các địa điểm bị tấn công nhanh chóng được thiết lập. Một bài
viết dài về các cuộc tấn công nhanh chóng xuất hiện trên trang Wikipedia
(trang bách khoa toàn thư mở do độc giả đóng góp) chưa đầy một tiếng đồng
hồ sau cuộc tấn công.”[4]
Qua đó, có thể thấy, công chúng là đối tác quan trọng của nhà báo. Vì

vậy, để có thể sử dụng những thông tin thật sự hữu từ công chúng, các trang
tin trên mạng cần mời gọi và tôn trọng sự đóng góp nội dung từ phía công
chúng. Nếu không, công chúng sẽ dễ dàng đi sang các trang web khác – nơi
họ có thể tương tác, để lại ý kiến của mình, vì biết rằng ý kiến đó sẽ có người
đọc hoặc nghe. Ngoài ra, khả năng tư duy của phóng viên còn được thể hiện
thông qua các sản phẩm báo chí hội tụ, phương tiện truyền thông hợp nhất,
thu hút lượng công chúng lớn cho cơ quan báo chí của mình.
Thứ hai, nhà báo cần biết tổng hợp và chắt lọc thông tin. Trong môi
trường truyền thông hội tụ, sự đa dạng hóa của các loại hình truyền thông đã
đem lại cho con người nguồn thông tin đa dạng và phong phú, tuy nhiên sự
hỗn tạp và thiếu trật tự của thông tin đã khiến công chúng gặp không ít khó
khăn trong việc lựa chọn những thông tin hữu ích, thậm chí là bị “quấy rối”
trước tình trạng “bùng nổ thông tin”. Với sự đa dạng của các phương tiện
truyền thông cũng khiến tần suất tiếp xúc với các phương tiện truyền thông
của công chúng tăng mạnh, ảnh hưởng đến cuộc sống của con người, khiến
mọi mặt trong đời sống đều mang dấu ấn của truyền thông. Đặc biệt, trong
trong thời đại Web2.0, công chúng có thể tự cung cấp nội dung thông tin,
đồng thời thông qua các kênh truyền thông tiến hành các hoạt động giao lưu
và xã hội hóa truyền thông.
19


Trong xã hội hiện đại, sự ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông
càng ngày càng lớn, khả năng phân biệt tính chính xác của công chúng đối với
thông tin lại không cao, vai trò “gác cổng” của báo chí không được phát huy
tốt, không khu biệt được một cách hiệu quả đối với thông tin, thậm chí xuất
hiện các luồng tin lá cải, sai sự thật, câu khách rẻ tiền. Trên mạng Internet,
hiện tượng này càng nghiêm trọng hơn, phá hoại “môi trường sinh thái” vốn
có của mạng Internet, xâm phạm đến quyền được nắm bắt thông tin của công
chúng.

Trong bối cảnh đó, vai trò của nhà báo trong quá trình tổng hợp và chắt
lọc thông tin, đem đến cho công chúng những sản phẩm truyền thông chất
lượng, giảm thiểu những khó khăn cho công chúng trong vấn đề tiếp nhận
những thông tin hữu ích, làm tốt vài trò của “người gác cổng” là rất cần thiết..
Thứ ba, nhanh nhưng phải chính xác. Trong kỷ nguyên truyền thông
hội tụ, mặc dù cách thức truyền thông luôn được đổi mới, nhưng “nội dung là
số một” vẫn là yếu tố then chốt để các hãng truyền thông cạnh tranh với nhau
và yêu cầu về chất lượng nội dung cũng cao hơn. Sự hội tụ về mặt kỹ thuật đã
khiến tốc độ truyền phát thông tin tăng lên nhanh chóng, nhưng chất lượng
nội dung không cao và xem nhẹ tính khách quan của báo chí; tin, bài thiếu
chiều sâu, hiện tượng đồng nhất hóa (giống nhau) khá nghiêm trọng. Hiện
tượng này được thể hiện ở sự trùng lặp và na ná trong các bản tin, góc độ tiếp
cận không có điểm đột phá. Với một sự kiện, nhưng nhiều tờ báo cùng đăng
tải trên trang chủ ở góc độ tiếp cận giống nhau. Đặc biệt, khi trong nước và
quốc tế xảy ra sự kiện lớn, tình trạng “tông xe” này lại càng rõ nét, phần lớn
đều dùng bài viết hoặc ảnh của hãng truyền thông lớn, nên nội dung gần như
không có sự khác biệt nhiều.
Hiện nay, cuộc cạnh tranh giữa các phương tiện truyền thông ngày càng
gay gắt, các hãng truyền thông lớn đều lấy việc đưa các bản tin độc quyền vào
thời điểm sớm nhất làm tôn chỉ. Tuy nhiên, vì theo đuổi tính cấp thời và “độc
quyền” thông tin, nhiều nhà báo gần như phải biên tập rất nhanh, và chú ý rất
20


nhiều đến kỹ xảo làm “hot” bản tin để “câu” độc giả, khán giả. Hậu quả của
việc theo đuổi tốc độ dẫn đến coi nhẹ tính khách quan của báo chí, đưa tin
thiếu chiều sâu, nội dung hời hợt. Ngoài ra, một số cơ quan báo chí vì lợi ích
kinh tế nên tìm mọi cách để lấy lòng “thượng đế”, bằng các nội dung chương
trình có khuynh hướng câu khách, kém chất lượng, rẻ tiền…


21


LỜI KẾT
Trong xã hội hiện đại, các phương tiện truyền thông đại chúng thể hiện
ưu thế trong mối liên hệ ấy, đặc biệt ở tính quảng đại và tính kịp thời của
thông tin. Xã hội càng phát triển, bùng nổ về mặt công nghệ, nhu cầu thông
tin của con người càng cao. Các sự kiện đăng tải trên phương tiện truyền
thông đại chúng hiện đại sẽ đáp ứng được tính thời sự, hấp dẫn, đa chiều và
phong phú của thông tin cũng như nhu cầu mong đợi của công chúng. Ngoài
chức năng thông tin, truyền thông đại chúng còn mở ra một thế giới tri thức
rộng lớn để mọi người có thể học hỏi và tiếp thu một cách chủ động nhất.
Đồng thời những thông điệp đề cao giá trị đạo đức, văn hóa cũng sẽ được các
phương tiện truyền thông đại chúng chuyển tải nhằm góp phần xây dựng tri
thức và hoàn thiện nhân cách con người.
Mặt khác truyền thông đại chúng cũng tạo nên một không gian công
cộng cho công chúng có quyền phát biểu ý kiến cá nhân hay phản biện xã hội.
Các phương tiện truyền thông đại chúng là diễn đàn xã hội là nơi dành cho
chính quyền có thể trả lời trước dân về chủ trương đường lối chính sách cũng
như tìm sự ủng hộ của người dân về những dự thảo, chính sách ban hành.
Truyền thông đại chúng cũng góp phần giải quyết nhiệm vụ thông tin hóa xã
hội, gia tăng hiệu quả thời sự của sự việc trên cơ sở khai thác cảm nhận tâm lý
về sự hiện diện và mối quan tâm của công chúng với những sự kiện đang diễn
ra. Và ngược lại công chúng cũng thông qua truyền thông đại chúng để đóng
góp ý kiến với nhà cầm quyền về những chính sách của nhà nước.
Vì tính chất quảng đại và tính định hướng xã hội nêu trên, truyền thông
đại chúng cũng mang chức năng hình thành và thể hiện dư luận xã hội.
Truyền thông đại chúng là nơi khơi nguồn dư luận xã hội, nó đã phản ánh và
truyền dẫn dư luận xã hội, đồng thời định hướng dư luận, điều hòa tâm trạng,
tâm lý xã hội về những sự kiện vấn đề có tính chất thời sự “Các phương tiện

truyền thông đại chúng luôn luôn được sử dụng để tác động lên con người và
22


ý thức của họ, cũng là tác động đến hành vi, lao động, cuộc sống, sinh hoạt
của con người. Nhiều khi người ta coi phương tiện truyền thông đại chúng là
nguồn gốc của mọi cải cách xã hội”. Có thể thấy truyền thông đại chúng
không chỉ là phương tiện truyền tải thông tin mà còn là công cụ hữu hiệu
trong việc khơi gợi sự tranh luận về những sự kiện , chủ đề cấp thiết của xã
hội, thiết lập các mối liên kết xã hội, góp phần hình thành nhận thức cộng
đồng, thúc đẩy sự phát triển toàn diện gắn với yếu tố đạo đức và văn hóa bởi
theo C.Mác: “sản phẩm của truyền thông đại chúng là dư luận xã hội”.

23


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................1
B NỘI DUNG...................................................................................................2
1. Bản chất xã hội của Báo chí- truyền thông...............................................2
1.1. Khái niệm về Báo chí- truyền thông..........................................................2
1.2. Một số nguyên lý cơ bản trong truyền thông.............................................4
1.3. Bản chất xã hội của truyền thông...............................................................5
2. Một số dạng thức truyền thông..................................................................7
3. Vai trò của báo chí, truyền thông đại chúng.............................................7
3.1. Chức năng thông tin - giao tiếp..................................................................7
3.2. Chức năng cung cấp kiến thức, mở rộng hiểu biết và giáo dục tư tưởng,
cổ vũ hành động................................................................................................8
3.3. Chức năng khai sáng, giải trí......................................................................9
3.4. Chức năng giám sát và phản biện xã hội....................................................9

3.5. Chức năng kinh tế - dịch vụ xã hội..........................................................10
4. Tác động của các trang mạng xã hội đối với báo chí trong giai đoạn
hiện đại...........................................................................................................11
5. “Công cụ” đắc lực cho Báo chí- Truyền thông hiện đại.........................16
6. Vấn đề đặt ra cho các nhà báo hiện nay..................................................19
LỜI KẾT........................................................................................................23

24


×