Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.94 KB, 44 trang )

Thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại việt nam
I. Quá trình hình thành và phát triển các DNVVN tại Việt nam
Quá trình hình thành và phát triển các DNVVN ở Việt nam diễn ra từ
khá lâu, trải qua nhiều giai đoạn với những đặc điểm khác nhau, môi trờng
khác nhau mà nhìn chung là chịu sự ảnh hởng của hai nhóm nhân tố chính là
cuộc trờng kỳ kháng chiến kéo dài gần một thế kỷ và những quan điểm chính
trị thời kỳ hậu chiến tranh.
Giai đoạn trớc năm 1945, khi mà Việt nam còn nằm trong ách thống trị
của thực dân Pháp thì cũng đã tồn tại một số lợng đáng kể các doanh nghiệp
mà lúc đó là các cơ sở, các xởng sản xuất nhỏ chủ yếu tập trung vào các lĩnh
vực nông nghiệp, các nghề thủ công truyền thống. Các mặt hàng giai đoạn nay
phần lớn vẫn ở dạng nguyên sơ nhng cũng đáp ứng đợc nhu cầu củ nhân dân
trong hoàn cảnh rất đặc biệt của thời kỳ đô hộ, thậm chí nhiều hàng còn đợc
gửi đi triển lãm ở một số nớc phơng Tây thời bấy giờ.
Trong giai đoạn từ cuộc cách mạng tháng 8/1945 thành công và cả nớc
bớc vào giai đoạn kháng chiến chống pháp. Các DNVVN lúc này tồn tại cả ở
vùng ta và vùng địch, đáng chú ý là các DNVVN ở vùng căn cứ đã đóng góp
vai trò đáng kể, vừa phục vụ nhu cầu thời chiến của nhân dân, vừa đáp ứng
nhu cầu hậu cần cho kháng chiến lâu dài.
Sau thắng lợi Điện Biên Phủ lừng lẫy, cả miền bắc bắt tay vào xây dựng
lại đất nớc trên con đờng xây dựng CNXH. Các DNVVN ra đời rất nhanh và
nhiều trong giai đoạn này, lúc này chịu sự chi phối của đờng lối chính trị hình
thức hợp tác xã, tổ hợp tác kinh doanh đợc khuyến khích phát triển, còn các
DNVVN dới hình thức sở hữu t nhân thì bị loại trừ, trong khi đó loại hình
DNVVN t nhân ở miền Nam lúc đó lại rất phát triển.
Sau khi thống nhất đất nớc năm 1975 và đến trớc đại hội VIII. Điểm
đáng lu ý trong các DNVVN ở giai đoạn này là ở Miền nam, kinh tế t nhân là
hình thức bị kỳ thị và các DNVVN dới hình thức sở hữu t nhân buộc phải
quốc hữu hoá, DNVVN của t nhân bị cải tạo, xoá bỏ, không khuyến khích
phát triển. Nếu muốn tồn tại thì phải tồn tại dới dạng khác nh dới hình thức hộ
gia đình, tổ hợp tác, hợp tác xã, công t hợp danh.


Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt nam năm 1986 thực sự là một bớc
ngoặt, Đại hội VI đã đa ra chủ trơng phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức sử hữu khác nhau,
thay đổi quan điểm với kinh tế t nhân, từ kỳ thị chuyển sang coi trọng. Chủ tr-
ơng này đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng loạt cơ sở sản xuất t nhân, cá thể,
hộ gia đình kinh doanh ngành công nghiệp, dịch vụ, thơng mại ra đời và phát
triển.
Bên cạnh đó, từ năm 1986 đến nay, Nhà nớc đã ban hành nhiều văn bản
pháp quy, quy định chế độ chính sách đối với hộ gia đình, hộ cá thể, doanh
nghiệp t nhân, hợp tác xã, doanh nghiệp Nhà nớc. Đáng chú ý là Nghị quyết
16 của Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam (1988); Nghị định 27, 28, 29
/HĐBT (1988) về kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình; Nghị định
66/HĐBT về nhóm kinh doanh dới vốn pháp định, Công văn số 681/CP-KTN
ngày 20/6/98 về định hớng chiến lợc và chính sách phát triển DNVVN và một
loạt các Luật nh: Luật công ty, Luật doanh nghiệp t nhân mà nay hai Luật này
đã đợc gộp lại thành Luật doanh nghiệp (1999), Luật hợp tác xã, Luật doanh
nghiệp Nhà nớc, Luật khuyến khích đầu t trong nớc(1994), Luật đầu t nớc
ngoài(1989) đã tạo điều kiện và môi trờng thuận lợi cho các doanh nghiệp
phát triển.
Trong thời gian qua, nhiều cơ quan khoa học, cơ quan quản lý và nhiều
địa phơng nghiên cứu về DNVVN nh: Bộ kế hoạch và đầu t (MPI), Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế trung ơng(CIEM), Phòng thơng mại và công
nghiệp Việt nam (VCCI), Hội đồng liên minh các hợp tác xã Việt Nam(VCA),
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh;
nhiều cuộc hội thảo trong nớc và quốc tế bàn về chính sách hỗ trợ DNVVN đã
đợc tổ chức, và cũng đã có nhiều tổ chức quốc tế, các dự án hỗ trợ về tài chính
và khoa học cho DNVVN, trong đó có Viện Friedrich Ebert (FES) của CHLB
Đức, Ngân hàng hợp tác và phát triển Nhật bản (JBIC), Tổ chức hợp tác kỹ
thuật Đức (GTZ), Dự án hỗ trợ của phòng hợp tác quốc tế Nhật bản (JICA),
Chơng trình phát triển dự án Mekong về DNVVN (MPDF). Bên cạnh đó,

Cũng có rất nhiều trung tâm ra đời với mục đích hỗ trợ các DNVVN, đó là
Trung tâm xúc tiến DNVVN thuộc Phòng Thơng mại và Công nghiệp Việt
nam (SME PC/VCCI) ở số 9 Đào Duy Anh, Trung tâm hỗ trợ DNVVN thuộc
Tổng cục Tiêu chuẩn-Đo lờng-Chất lợng (SMEDEC) ở số 8 Hoàng Quốc Việt,
Trung tâm dịch vụ và hỗ trợ DNVVN (BPSC) ở số 7 Nguyễn Thái Học, Câu
lạc bộ DNVVN Hà nội( HASMEC) ở số 418 Bạch Mai
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của mình, DNVVN vẫn gặp không
ít những khó khăn, vớng mắc, và nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh
tế của đất nớc, chính phủ đã có Nghị định 90/2001/CP-ND ngày 23/11/2001
về chính sách trợ giúp, phát triển DNVVN trong đó quy định rõ khái niệm,
tiêu chí xác định DNVVN ở Việt Nam, khẳng định tầm quan trọng của
DNVVN trong chiến lợc phát triển kinh tế xã hội của đất nớc và các biện
pháp, các chính sách hỗ trợ DNVVN phát triển. Chính phủ còn giao cho MPI
đứng lên làm đầu mối phối hợp các Bộ, các ngành và địa phơng tiếp tục
nghiên cứu hoàn chỉnh dự thảo Chiến lợc và chính sách phát triển DNVVN,
đề xuất giải pháp thực hiện để chính phủ xem xét và phê duyệt .
Nghị định cũng quy định việc thành lập Cục Phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ trực thuộc Bộ Kế hoạch - Đầu t, để giúp Bộ trởng Bộ Kế hoạch -
Đầu t thực hiện chức năng quản lý Nhà nớc về xúc tiến phát triển DNVVN;
thành lập Hội đồng khuyến khích phát triển DNVVN làm nhiệm vụ t vấn
cho Thủ tớng Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển
DNVVN; thành lập Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật DNVVN thuộc các cơ quan,
các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, nhằm thực hiện các
chơng trình trợ giúp một cách thiết thực và có hiệu quả; khuyến khích, tạo
điều kiện để các DNVVN tham gia các hiệp hội doanh nghiệp đã có và thành
lập các hiệp hội, câu lạc bộ doanh nghiệp, nhằm triển khai các hoạt động kể cả
thu hút các nguồn lực từ nớc ngoài để trợ giúp một cách thiết thực, trực tiếp
cho DNVVN , các dịch vụ về thông tin, tiếp thị mở rộng thị trờng, đào tạo,
công nghệ... nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNVVN.
Trong thời kỳ từ đổi mới đến hiện nay, số lợng doanh nghiệp của các

thành phần kinh tế có sự biến động rất lớn. Trong khi số lợng DNVVN trong
khu vực Nhà nớc giảm liên tục, thì số lợng DNVVN trong khu vực t nhân
trong công nghiệp (doanh nghiệp và công ty) tăng nhanh, số lợng lao động
trên tổng số, đóng góp cho GDP và tỷ trọng trong tổng đầu t xã hội cũng tăng
nhanh (Xem bảng 5). Quan niệm về kinh tế t nhân cũng có nhiều đổi mới,
không còn cái nhìn kỳ thị nh trong giai đoạn bao cấp, với t tởng giáo điều và
tả khuynh, coi kinh tế t nhân là một loại hình kinh tế tiêu cực, là tàn d của chế
độ cũ, là bóc lột, ăn bám, Đến nay, kinh tế t nhân thực sự đã đợc coi là một
bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế Việt nam .
Các DNVVN ở Việt nam, mà đại diện tiêu biểu là khu vực kinh tế t
nhân và hộ cá thể, đã trải qua 2 bớc ngoặt tính từ giai đoạn đổi mới. Bớc ngoặt
thứ nhất có thể xem nh cởi trói cho doanh nghiệp là vào cuối thập niên 80,
đầu thập niên 90 khi nhà nớc ban hành Luật Đầu t nớc ngoài(1989), Luật
khuyến khích đầu t trong nớc(1994), Luật doanh nghiệp t nhân, Luật công
ty(1990), tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của nhiều loại hình doanh nghiệp.
Theo VCCI thì trong giai đoạn 1991-1999, mỗi năm nền kinh tế Việt nam tăng
thêm 3.388 doanh nghiệp.
Có thể xem xét tình hình tổng hợp của khu vực kinh tế t nhân (đại diện
cho các DNVVN) qua một số các chỉ tiêu chính nh số lợng các doanh nghiệp
t nhân, số lợng và tỷ lệ lao động so với xã hội, mức đóng góp vào tổng sản
phẩm quốc nội (GPP), đầu t phát triển mức độ đóng góp vào đầu t phát triển
cả nớc trong vài năm gần đây theo bảng dới đây. Trong khi mà cha có một
nguồn nào cung cấp số liệu thống kê chính thức riêng cho khu vực DNVVN
thì các số liệu thống kê về khu vực kinh tế t nhân có thể xem nh đại diện cho
các DNVVN, vì nh nói từ phần đặc điểm các DNVVN tại Việt nam, khi nói
đến các DNVVN tại Việt nam là chủ yếu nói đến các doanh nghiệp thuộc
khu vực ngoài quốc doanh.
B¶ng : Sè liÖu kinh tÕ vÒ khu vùc kinh tÕ t nh©n
(®¹i diÖn cho c¸c DNVVN).
Sè liÖu vÒ khu vùc kinh tÕ t nh©n

Ðvt 1996 1997 1998 1999 2000
1. Số lượng đơn vị
1.1.Doanh nghiệp của tư nhân
DN 20.272 21.032 20.578 22.767 29.519
- Công nghiệp
DN 5.832 6.073 5.927 6.049 6.979
- Thương nghiệp dịch vụ
DN 12.695 13.010 12.494 14.234 17.506
- Các ngành khác
DN 1.745 1.949 2.157 2.484 5.034
1.2. Hộ cá thể hộ
2.016.259
1.949.836
1.981.306 2.054.178 2.137.713
- Công nghiệp hộ
616.855 608.250 583.352 608.314 645.801
- Thương nghiệp dịch vụ hộ
1.102.619 1.022.385 1.058.542 1.088.606 1.109.293
- Các ngành khác hộ
296.785 319.201 339.412 357.258 382.619
2. Lao động
- Tổng số người
3.865.163 3.666.825 3.816.942 4.097.455 4.643.844
- Tỷ lệ so với tổng lao động xã
hội
% 11,2 10,3 10,3 10,9 12
2.1.Doanh nghiệp của tư nhân
DN 354.328 395.705 435.907 539.533 841.787
- Công nghiệp
DN 233.078 252.657 273.819 322.496 498.847

- Thương nghiệp dịch vụ
DN 60.936 63.050 62.470 96.720 151.433
- Các ngành khác
DN 60.314 79.998 99.618 120.317 191.507
2.2 Hộ cá thể
DN 3.510.835 3.271.120 3.381.035 3.557.922 3.802.057
- Công nghiệp
DN 1.524.708 1.403.205 1.350.152 1.464.013 1.622.381
- Thương nghiệp dịch vụ
DN 1.531.638 1.388.701 1.455.351 1.501.636 1.584.391
- Các ngành khác
DN 454.489 479.214 575.532 592.273 595.285
3. Tổng sản phẩm trong nước
(GDP)
- Tổng số toàn quốc
tỉ
đồng
272.036 313.623 361.017 399.943 444.140
Trong đó doanh nghiệp của tư tỉ
77.481 87.475 98.625 106.029 119.337
nhân và cá thể đồng
Tỷ lệ trong tổng GDP toàn quốc
% 28,48 27,89 27,32 26,51 26,87
3.1 Doanh nghiệp
tỉ
đồng
19.602 21.920 25.304 27.975 31.733
- Công nghiệp
tỉ
đồng

4.609 5.278 6.367 7.179 8.626
- Thương nghiệp dịch vụ
tỉ
đồng
7.565 8.564 10.238 11.203 12.397
- Các ngành khác
tỉ
đồng
7.428 8.078 8.699 9.593 10.710
- Tỷ lệ trong tổng GDP
% 7,21 6,44 7,01 6,99 7,14
3.2 Cá thể
tỉ
đồng
57.879 65.555 73.321 78.054 87.604
- Công nghiệp
tỉ
đồng
9.261 10.658 11.804 12.662 15.491
- Thương nghiệp dịch vụ
tỉ
đồng
17.381 19.728 22.878 24.865 27.393
- Các ngành khác
tỉ
đồng
31.237 35.169 38.639 40.527 44.720
- Tỷ lệ trong tổng GDP
% 21,28 20,90 20,31 19,52 19,72
4. Vốn đầu tư phát triển

- Tổng số toàn xã hội
tỉ
đồng
131.171 147.633
Trong đó: Doanh nghiệp của tư
nhân và cá thể
tỉ
đồng
31.542 35.894
Tỷ lệ trọng tổng số toàn xã hội
% 24,05 24,31
4.1 Doanh nghiệp của tư nhân
tỉ
đồng
5.628 6.627
% Trong tổng số toàn xã hội
% 4.29 4.49
4.2. Cá thể tỉ
25.914 29.267
ng
T l trong tng s ton xó hi
% 19,76 19,82
Ngun: Tng cc Thng kờ
Bớc ngoặt thứ hai bắt đầu kể từ khi Luật doanh nghiệp đợc ban hành
vào1/1/2000. Trong vòng một năm kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực có
14.417 doanh nghiệp mới đợc thành lập với tổng vốn đăng ký đến hơn 24.000
tỷ (tơng đơng với 1,65 tỷ USD, trong đó 17.000 là vốn đăng ký mới và 7000
là vốn đăng ký bổ sung của các doanh nghiệp đang hoạt động, tức là tăng hơn
ba lần nếu xét về số lợng doanh nghiệp và hộ kinh doanh, và tăng hơn năm lần
nếu xét về số vốn so với năm 1999. Năm 2001, có thêm hơn 21.000 doanh

nghiệp đăng ký hoạt động theo Luật doanh nghiệp, tăng 1,46 lần so với năm
2000, tổng số vốn huy động đợc của các doanh nghiệp đạt khoảng 35.000,
tăng gấp 1,78 lần so với cùng kỳ năm 2000. Có thể thấy tình hình năm 2001
nh sau:
Bảng : Tổng hợp số doanh nghiệp khu vực kinh tế t nhân dến
năm 2001
Loại DN 31/12/98 31/12/99
Đên 31/12/2000 Đến 30/9/2001
Tổng
số
đăng

Đang
hoạt
động
Báo
nghỉ
KD
Tổng
số
đăng

Đang
hoạt
động
Báo
nghỉ
KD
Cty TNHH
9.375 13.850 21.031 20.255 776 29.160 28.356 804

Cty cổ phần
582 933 1.718 1.668 50 2.986 2.928 58
DNTN
18.751 22.794 28.719 27.277 1.442 33.925 32.459 1.466
Tổng số
28.708 37.577 51.468 49.200 2.268 66.071 63.743 2.328
Nguồn: Bộ Tài chính
Về cơ cấu của các DNVVN hiện nay, xuất phát từ điều kiện lịch sử kinh
tế xã hội, DNVVN ở Việt Nam có mặt ở hầu hết các ngành kinh tế, trong đó
phần lớn tập trung trong ba lĩnh vực chính: các DNVVN trong lĩnh vực công
nghiệp, các DNVVN trong thơng mại dịch vụ và các DNVVN hoạt động ở
khu vực nông thôn. Sau đây sẽ nghiên cứu cụ thể các doanh nghiệp trong từng
lĩnh vực kể trên.
1. DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp
Từ sau năm 1986, do các chính sách khuyến khích kinh tế ngoài quốc
doanh trong lĩnh vực công nghiệp ra đời, các DNVVN lúc này tồn tại dới
nhiều hình thức khác nhau nh công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp
t nhân, kinh tế hộ gia đình, kinh tế quốc doanh. Số lợng DNVVN cũng tăng
dần.
Về cơ cấu phân bố theo vùng: Các DNVVN chủ yếu tập trung ỏ Miền
Nam Việt nam (81%), Số DNVVN tập trung ở miền Bắc chỉ chiếm 12,6%
tổng số các DNVVN trong công nghiệp.
Về ngành nghề kinh doanh: Các DNVVN trong công nghiệp tồn tại ở
4 nhóm ngành chính sau là
+ Nhóm ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống: ngành này trong thời
gian qua đã có những thay đổi mạnh mẽ, các giá trị công nghiệp và văn hóa đã
hình thành, những mặt hàng của ngành này đã trở thành một trong các mặt
hàng có thế mạnh của Việt nam. Tuy nhiên do góc độ truyền thống và văn
hóa, sự hội nhập của nhóm ngành này hạn chế bởi tính chất manh mún, quy
mô nhỏ, khác biệt văn hóa, cho nên thị trờng xuất khẩu rất khó khăn đòi hỏi

phải tìm đợc những phân đoạn thị trờng ngách.
+ Nhóm ngành khai thác và sản xuất sản phẩm thô: nh khoáng sản,
hải sản, lâm sản. Trong những năm qua, sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam
nói chung, DNVVN nói riêng vẫn dựa rất lớn vào nhóm ngành này-đây là thực
trạng cần đợc đánh giá và điều chỉnh để hình thành chiến lợc cơ cấu ngành
bảo đảm hiệu quả cao của quá trình hội nhập. Việc tham gia hội nhập bằng tài
nguyên khai thác một mặt đạt hiệu quả kinh tế - xã hội thấp, mặt khác còn làm
cho nguồn tài nguyên, nhất là tài nguyên không tái tạo bị suy kiệt, ảnh hởng
nghiêm trọng cân bằng sinh thái.
+ Nhóm ngành chế biến, lắp ráp: mặc dù mang lại ý nghĩa xã hội
trong việc tạo ra nhiều chỗ làm việc song giá trị thụ hởng chủ yếu mới chỉ
dừng lại ở giá trị gia công (phải mua nhiều yếu tố đầu vào từ bên ngoài). Từ
đó, tác dụng tích lũy, thúc đẩy nền kinh tế hạn chế. Đặc biệt sẽ chịu nhiều rủi
ro của các biến động tiền tệ của khu vực và quốc tế.
+ Nhóm ngành chế tạo sản phẩm kỹ thuật cao: (máy móc, điện tử, hóa
chất, thiết bị đo lờng, động cơ...) có thể coi là mới bắt đầu. Hiện tại nhóm
ngành này còn phụ thuộc nhiều vào đầu t tài chính, công nghệ kỹ thuật và
trình độ quản lý của nớc ngoài. DNVVN thuộc lĩnh vực công nghiệp Việt
Nam còn thể hiện sự đuối sức ở nhóm ngành này, bởi không chỉ lý do tài
chính mà còn vì sự tụt hậu của năng lực nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng
dụng. Đây chính là nhóm ngành mà trong chiến lợc lâu dài của quá trình hội
nhập cần đợc đặc biệt quan tâm. Chúng cần đợc phân công và hợp tác một
cách khoa học và hiệu quả để tham gia nhiều nhất nguồn lực vào quá trình
cạnh tranh khu vực và quốc tế
Về lao động: Có quy mô khá nhỏ, phần lớn các DNVVN có số công
nhân< 100 ngời( chiếm hơn 90%). Theo con số của tổng cục thống kê thì
trong lĩnh vực sản xuất cơ bản các DNVVN chiếm 36% tổng số lao động.
Trong lĩnh vực xây dựng là 51%.
Về công nghệ: cũng không khác so với tình hình chung của các doanh
nghiệp Việt nam, nói chung là lạc hậu, lỗi thời, tỷ lệ đổi mới công nghệ thấp.

Trình độ công nghệ lạc hậu, yếu kém thể hiện ở năng lực vận hành, tiếp thu
công nghệ, đổi mới công nghệ thấp. Khả năng nghiên cứu triển khai tạo sản
phẩm mới cũng không tốt.
Về hiệu quả sản xuất kinh doanh: Toàn bộ các DNVVN ( cả Nhà nớc
cũng nh ngoài quốc doanh và kể các các doanh nghiệp có vốn đầu t nớ ngoài)
tạo ra khoảng 31% giá trị tổng sản lợng công nghiệp hàng năm. Trong đó, bộ
phận bộ phận DNVVN ngoài quốc doanh tạo ra 25% giá trị sản lợng công
nghiệp.
Bảng : Giá trị tổng sản lợng công nghiệp năm 1998
Doanh nghiệp trong công
nghiệp
Tổng số
(Tỷ đồng)
Ước tính phần của DNVVN trong
từng loại doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhà nớc
trong công nghiệp
69.588,4 20% 12.917,7
Doanh nghiệp ngoài quốc
doanh
33.148,2 60% 19.888,9
Doanh nghiệp có vốn nớc
ngoài
47.948,0 5% 2.397,4
Tổng 150.684,6 31% 46.712,04
Nguồn: Giải pháp phát triển các DNVVN tại Việt nam-GS-TS Nguyễn
Đình Hơng chủ biên-NXB chính trị quốc gia.
Trong 8 tháng đầu năm nay(năm 2002), tốc độ tăng trởng sản xuất công
nghiệp của khu vực ngoài quốc doanh đạt 19,2% so cùng kỳ năm trớc (tốc độ
tăng trởng công nghiệp chung đạt 14,5%) so với mức chung14%, khu vực nhà

nớc là 11,7%, khu vực nớc ngoài tăng 13,1%. Có thể thấy tình hình đóng góp
của các DNVVN qua tình hình đóng góp của các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh 8 tháng đầu năm 2002 nh sau:
Bảng : Đóng góp của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vào mức tăng sản
lợng công nghiệp 8 tháng đầu năm 2002
Thc hin (T ng) Thỏng
8/2002 so
vi thỏng
8/2001
8 thỏng u
nm 2002 so
vi cựng k
2001 (%)
7 thỏng u
nm 2002
c tớnh
thỏng 8/2002
Cng dn 8
thỏng u
nm 2002
Tng s
149219 23636 172855 114.2 114.0
Phõn theo khu vc v thnh phn kinh t
Khu vc doanh nghip
Nh nc
59798 9379 69177 111.1 111.7
Trung ng
a Phng
39634
20164

6212
3617
45846
23331
111.7
109.7
112.6
110.2
Khu vc ngoi quc
doanh
35846 5792 41638 119.6 119.2
Khu vc cú vn u t
nc ngoi
53575 8465 62040 114.2 113.1
Du m v khớ t
15402 2100 17502 87.7 96.1
Cỏc ngnh khỏc
38173 6365 44538 126.8 121.6
Nguồn
Về thị trờng: Một thị trờng nội địa đông dân với sức tiêu thụ lớn là cơ
hội rất tốt cho các DNVVN ở Việt nam. Tuy vậy, với tình hình nhập lậu tràn
lan nh hiện nay thì cơ hội cạnh tranh là rất khó cho các DNVVN nói chung và
các DNVVN trong công nghiệp nói riêng. Cạnh tranh xét cả theo nghĩa cạnh
tranh đối với hàng nhập lậu với giá rẻ, và cạnh tranh với cả doanh nghiệp lớn
trong nền kinh tế.Thêm vào đó là khả năng tiếp cận thị trờng cha cao, chất l-
ợng sản phẩm hạn chế .
Chính phủ cũng không ngừng có những bớc tiến tích cực trong việc tiếp
thu những kinh nghiệm quý báu từ bên ngoài nói chung và từ các quốc gia
đang phát triển nói riêng. Hoạt động hợp tác cùng phát triển, chia sẻ kinh
nghiệm giữa Việt nam và các nớc không ngừng đợc tăng cờng và củng cố.

Việt nam hiện đã có nhiều quan hệ với các nớc về phát triển lĩnh vực
DNVVN, đáng kể trong số đó là Italia, Đức, NhậtNgày 22/5/2000, tại Hà
nội đã diễn ra Hội thảo DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp - kinh nghiệm
của Italia và Việt nam do Bộ Công nghiệp, Văn phòng đại diện của UNIDO
và Đại sứ quán Italia tổ chức, qua đó phía Italia cũng chia sẽ với Việt nam
những kinh nghiệm quý báu của mình trong việc phát triển DNVVN. Ngày
6/12/2000 cũng tại Hà Nội, Phòng thơng mại và công nghiệp Việt Nam phối
hợp với Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (ZDH) của Cộng hòa Liên bang Đức tổ
chức hội thảo" Hợp tác giữa Chính phủ và doanh nghiệp nhằm hỗ trợ phát
triển DNVVN"
Bên cạnh đó có dự án hỗ trợ kỹ thuật cho các DNVVN trong lĩnh vực
công nghiệp sản xuất đá ốp lát đã triển khai ngày 4/12/2000 do Trung tâm xúc
tiến hợp tác quốc tế (ICPC), Liên minh các hợp tác xã Việt nam, Liên minh
Châu Âu và Liên đoàn thủ công nghiệp và dịch vụ Italia (Confartigianato)
cùng phối hợp thực hiện. Dự án có nguồn vốn 140.000 EURO trong đó phía
EU tài trợ 80%, mục tiêu của dự án này là nhằm tạo ra một liên hiệp xuất
khẩu cho các DNVVN trong lĩnh vực đá ốp lát của Việt nam.Qua dự án này,
các DNVVN sẽ nắm bắt đợc những thông tin cần thiết về hoạt động xuất nhập
khẩu, kỹ năng sản xuất và cung cách làm ăn của các nớc EU, mở ra hớng mới
cho xuất khẩu của Việt nam sang EU.
2. DNVVN trong lĩnh vực thơng mại dịch vụ.
Ngành thơng mại dịch vụ, với những lợi thế riêng của nó nh vốn đầu t
ít, khả năng thu hồi vốn nhanh, mức lợi nhuận hấp dẫn, thị trờng đa dạng...đã
và đang thu hút đợc một số lợng không nhỏ các DNVVN.
Về vốn: Với đặc trng là thị trờng cung ứng vốn chủ yếu là thị trờng tài
chính phi chính thức, các chủ doanh nghiệp sử dụng vốn tự có, hoặc vay mợn
của ban bè, ngời thân...nên các DNVVN gặp khó khăn rất nhiều trong vấn đề
vốn. Các DNVVN trong dịch vụ cũng nằm trong tình trạng chung của các
DNVVN là khó có khả năng tiếp cận đến nguồn vốn của ngân hàng.
Về lao động: Nếu nh một trong những đặc điểm nổi bật của các

DNVVN nói chung là thu hút nhiều lao động thì các DNVVN trong lĩnh vực
thơng mại dịch vụ lại không hoàn toàn nh vậy. Xuất phát từ tính đặc thù của
ngành thơng mại dịch vụ là ngành ít đòi hỏi lao động. Các DNVVN cha thực
sự góp phần quan trọng vào việc giải quyết lực lợng lao động d thừa nhiều ở n-
ớc ta hiện nay.
Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của các DNVVN trong lĩnh vực thơng mại dịch vụ tuy cha phải là
cao nhng lại cao hơn hiệu quả hoạt động của các DNVVN trong lĩnh vực công
nghiệp. Theo thống kê của Tổng cục thống kê năm 1998 thì trong khi bình
quân một lao động trong các DNVVN công nghiệp tạo ra doanh thu 14,6 triệu
VND với mức lãi 0,4 triệu VND thì con số này tại các DNVVN thơng mại
dịch vụ là 75,8 triệu và 1,3 triệu tiền lãi, tức là bằng 407% và 125% so với
cách DNVVN công nghiệp. Hạn chế ỏ đây là mặc dù doanh thu rất cao nhng
lãi thì không hơn bao nhiêu so với các DNVVN công nghiệp.
Về cơ cấu: Các DNVVN thơng mại dịch vụ tập trung quá đông ở các
thành phố, đô thị và kinh doanh một số ngành nh nhau. Một số các công ty đi
sâu chuyên doanh mặt hàng ngành hàng nhng vẫn còn trùng lặp. Một số các
công ty thực hiện chuyên doanh ổn định, còn tuyệt đại đa số thì kinh doanh
tổng hợp.
Về kinh doanh:Thiếu sự hợp tác kinh doanh giữa các DNVVN, quản lí
chồng chéo không có sự đồng nhất theo đầu mối ngành nghề nên hiệu quả
kinh doanh thấp. Hoạt động của các DNVVN không mang tính bổ sung, hợp
tác mà mang tính cạnh tranh gay gắt do sự tập trung quá đông các DNVVN tại
cùng một địa điểm, cùng một lĩnh vực kinh doanh.
3. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn.
Với đặc trng là một nền kinh tế nông nghiệp đi lên thì hiển nhiên là
trong chiến lợc phát triển DNVVN để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc
thì vai trò của các DNVVN ở khu vực nông thôn có ý nghĩa rất quan trọng. Bộ
mặt của các DNVVN đã thay đổi phần nào qua dự án VIE/816 do UNDP tài
trợ trong vòng 4 năm từ 11/1997 đến 2001.Hiện nay, các ngành nghề nông

thôn thu hút hơn 5 triệu lao động nông nhàn và 11 triệu lao động phi nông
nghiệp. Năm 2000, đã tạo ra hơn 4000 tỷ đồng giá trị sản lợng, 90% tiêu thụ
nội địa và 10% xuất khẩu.
Các DNVVN ở khu vực nông thôn với đại diện phổ biến là các doanh
nghiệp hộ gia đình và các doanh nghiệp t nhân
Về vốn: Vốn bình quân rất thấp cả về tơng đối và tuyệt đối so với các
DNVVN nói chung.Theo báo cáo của Viện bảo hộ lao động và các vấn đề xã
hội - NXB Khoa học và Kỹ thuật , Hà nội , 1998 thì :Với doanh nghiệp hộ gia
đình vốn bình quân là 921 USD, với doanh nghiệp t nhân thì là 2.153 USD,
vốn thấp không chỉ hiểu là nh cầu về vốn ở các DNVVN khu vực nông thôn
thấp mà còn hiểu ở sự thiếu hỗ trợ tín dụng.
Về thị trờng và tiêu thụ sản phẩm: Thị trờng chủ yếu đợc phân làm hai
loại là thị trờng địa phơng và thị trờng ở các thành phố lớn.
Một điểm sáng trong quá trình phát triển các DNVVN ở nông thôn,
nhằm bắt tay vào tìm tiếng nói chung cho các DNVVN khu vực này, ngày
16/8/2002 tại Hà nội, Đại hội thành lập Hiệp hội các DNVVN khu vực nông
thôn Việt nam do VCCI tổ chức đã khai mạc với sự tham gia của hơn 100
DNVVN khu vực nông thôn. Hiệp hội các DNVVN khu vực nông thôn ra
đời nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, phát triển ngành nghề nông thôn, hỗ
trợ bảo vệ lẫn nhau, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, nghiên cứu khoa học,
thông tin kinh tế, thị trờng, xúc tiến thơng mại, đầu t, thúc đẩy quan hệ hợp
tác thơng mại trong nớc và quốc tế, giữ gìn và phát triển các làng nghề truyền
thống, đầu t thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ nâng cao năng suất cây trồng,
vật nuôi, góp phần xoá đói giảm nghèo, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông thôn. Hiệp hội cũng đã thông qua nhiệm kỳ 2002-2007, tập trung
vào một số lĩnh vực phổ biến nh thông tin kinh tế, trao đổi góp ý về các cơ
chế, chính sách, đào tạo và t vấn, tổ chức phát triển DNVVN ở các địa phơng,
tạo nhịp cầu giao thơng phát triển.
II. Tác động của các chính sách vĩ mô đến sự phát triển của các DNVVN
Một trong những yếu tố quan trọng nhất tác động đến sự tồn tại và phát

triển của các DNVVN là vấn đề cơ chế chính sách, môi trờng hành lang pháp
lý cho hoạt động của các DNVVN. Dới đây là những nét chính khái quát về
ảnh hởng của một số chính sách vĩ mô đến hoạt động và phát triển của
DNVVN Việt nam.
1. Tác động của chính sách thơng mại
Trớc hết, về vấn đề khởi sự tiến hành sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, các DNVVN cũng đã đợc cởi trói qua quy định mới về việc tiến
hành đăng ký kinh doanh thành lập doanh nghiệp đợc quy định tại Luật doanh
nghiệp. Luật doanh nghiệp đợc Quốc hội thông qua ngày 20/6/1999, có hiệu
lực từ 1/1/2000 đã luật hoá các quy định thành lập doanh nghiệp theo hớng bãi
bỏ cơ chế xin phép thành lập, chủ đầu t chỉ đăng ký kinh doanh với hồ sơ hết
sức đơn giản, xoá bỏ mọi kiểm tra kiểm soát trớc khi thành lập, tạo điều kiện
cho phép chủ đầu t nhanh chóng tiếp cận thị trờng, việc giám sát kiểm tra của
nhà nớc chuyển sang giai đoạn sau đăng ký kinh doanh. Luật doanh nghiệp
cũng xoá bỏ vốn pháp định ở hầu hết các ngành nghề ( chỉ còn áp dụng đối
với một số ngành nghề nh Ngân hàng, Bảo hiểm..) đã tạo điều kiện cho các
DNVVN ra đời thuận lợi, giảm tối thiểu các chi phí cho việc thành lập doanh
nghiệp.
Kế đó, sự đổi mới chính sách thơng mại theo hớng mở cửa, không
ngừng đa phơng hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, tăng cờng thu hút vốn
đầu t nớc ngoài với chiến lợc vốn đầu t trong nớc có vai trò quyết định, vốn
đầu t nớc ngoài có vai trò quan trọng đã là một trong những nhân tố quyết
định trong đổi mới kinh tế, đóng góp đáng kể vào tình hình đổi mới kinh tế ở
Việt nam trong những năm gần đây.
Chính sách thơng mại của Việt nam đã đạt đợc những tiến bộ đáng kể
trong suốt giai đoạn vừa qua, đặc biệt với sự ra đời của Luật Thơng mại có
hiệu lực từ 1-1-1998 và nghị định số 57/CP hớng dẫn thi hành Luật Thơng mại
ngày 31/7/1998 đã cải thiện đáng kể các điều kiện tiếp cận thơng mại quốc tế
của các DNVVN. Thêm vào đó là việc tham gia vào hàng loạt các tổ chức hợp
tác kinh tế khu vực và thế giới nh ASEAN(1995), APEC(1998)và đặc biệt là

ký đợc Hiệp định thơng mại song phơng với Hoa kỳ vào 20/7/2001 và mở đ-
ờng cho việc gia nhập WTO đã đợc cụ thể hoá bằng nhiều biện pháp cải tổ th-
ơng mại theo hớng tự do hơn, hội nhập hơn cũng là những thuận lợi và cũng là
chứa đựng những thách thức không nhỏ đối với doanh nghiệp nói chung và
DNVVN nói riêng.
a. Điều kiện tham gia xuất nhập khẩu của các DNVVN đợc cải thiện
theo cơ chế thông thoáng hơn.
Điều kiện tham gia hoạt động xuât nhập khẩu đã thực sự đợc mở ra cho
tất cả các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng. Nghị định
57/CP đã cho phép tất cả các doanh nghiệp đợc tham gia hoạt động xuất nhập
khẩu trong phạm vi kinh doanh đã đăng ký mà không cần phải có giấy phép
xuất nhập khẩu. Có thể xem đây là một bớc tiến tích cực của Việt nam trong
quá trình tự do hoá thơng mại.
Trớc đó, Theo quy định của Nghị định 33/TTG của Thủ tớng chính phủ
về quản lí nhà nớc đối với hoạt động xuất nhập khẩu ban hành ngày
19/4/1994, các DNVVN muốn tham gia hoạt động xuất nhập khẩu thì phải có
giấy phép mà muốn có giấy phép thì phải đáp ứng các điều kiện nh:
Thứ nhất, phải là một pháp nhân có đăng ký kinh doanh theo pháp luật
hiện hành và hoạt động đúng theo phạm vi hoạt động kinh doanh đã đăng ký.
Thứ hai, mức vốn lu động không đợc dới 200.000 USD vào thời điểm
đăng ký kinh doanh, trừ những doanh nghiệp ở miền núi và ở những vùng kinh
tế khó khăn khác, hoặc những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất
khẩu đợc khuyến khích đòi hỏi mức vốn thấp. Trong những trờng hợp đó, số
vốn lu động phải tơng đơng 100.000 USD.
Thứ ba, có bằng chứng xác nhận rằng doanh nghiệp có đội ngũ nhân
viên có đủ khả năng thích hợp để ký kết và thực hiện hợp đồng ngoại thơng.
Thêm vào đó, trớc khi Nghị định 57/CP đợc ban hành thì các doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế t nhân muốn đợc thành lập nh tổ chức xuất nhập
khẩu thì phải có giấy phép của Thủ tớng Chính phủ theo Điều 11 của Luật
công ty.

Rất nhiều các DNVVN không đáp ứng đợc các điều kiện kể trên và chỉ
có thể xuất khẩu các sản phẩm cuả mình thông qua một công ty đợc phép kinh
doanh xuất nhập khẩu. Bên cạnh việc phải trả cho công ty xuất nhập khẩu
trung gian này một khoản phí thông thờng là từ 0,5% đến 1% giá trị hợp đông
xuất nhập khẩu, Các DNVVN còn phải chịu thêm rủi ro khi tiết lộ thông tin
quan trọng và bí mật về các hợp đồng ngoại thơng và họ thậm chí còn bị các
công ty chuyên doanh xuất nhập khẩu đó chiếm mất đối tác nớc ngoài.
Nghị định 57/CP chỉ yêu cầu các DNVVN phải tiến hành hoạt động
kinh doanh xuất nhập khẩu trong phạm vi hoạt động kinh doanh đã đăng
ký.Với một số lợng lớn các công ty có khả năng tham gia trực tiếp vào thơng
mại quốc tế thì những chi phí và khó khăn trong giao dịch sẽ đợc giảm đáng
kể. Đến ngày 2/8/2001 thì tất cả mọi pháp nhân ( doanh nghiệp và cá nhân) đã
đợc xuất khẩu hầu hết mọi hàng hoá mà không phải xin phép qua việc Chính
phủ ban hành sửa đổi nghị định thực hiện Luật thơng mại theo Nghị định
44/2001/ND-CP, ngày 2-8-2001.
Bên cạnh đó, cũng trong năm 2001 Chính phủ đã tiếp tục tăng cờng hỗ
trợ xuất khẩu cho các DNVVN qua Quyết định 133/2001/QD-TTg ngày
10/9/2001 về việc thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển nhằm hỗ trợ các tổ chức
kinh tế, các doanh nghiệp và các cá nhân tham gia xuất khẩu.
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ đáng kể, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động ngoại thơng của các DNVVN. Nhng nó cũng có những thiếu sót, những
tồn tại mà cha thực sự hỗ trợ các DNVVN. Điển hình là việc Bộ Thơng mại và
Tổng cục Hải quan đã ban hành ngay sau nghị định 57/CP thông t hớng dẫn
quy định các doanh nghiệp muốn tham gia hoạt động xuất nhập khẩu thì phải
có mã số hải quan, muốn có mã số hải quan thì phải nộp đơn đăng ký cho Bộ
Tài chính, từ đó phát sinh thêm nhiều thủ tục khó khăn.
b. Cơ chế tự do hoá thơng mại qua việc nới lỏng kiểm soát phi thuế
quan.
Bên cạnh những giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN thể
hiện trong điều kiện tham gia, Nhà nớc cũng quản lí xuất nhập khẩu bằng

cách ban hành các danh mục hàng hoá thơng mại bị cấm, hoặc hạn chế nhập
khẩu theo hạn ngạch, hoặc ban hành các danh mục hàng hoá bị tạm ngừng
xuất nhập khẩu, quy định mới nhất về các loại hàng hoá xuất nhập khẩu đợc
nêu rõ tại Nghị định 73/2002/NDCP ngày 20/8/2002 của Chính phủ về danh
mục các loại hàng hoá trong kinh doanh xuất nhập khẩu phfu hợp với tinh
thần nêu rõ trong Nghị định 57/CP về danh mục hàng hoá cấm xuất nhập
khẩu, danh mục các hàng hoá xuất nhập khẩu quản lí bằng hạn ngạch, danh
mục các hàng hoá xuất nhập khẩu cần có giấy phép đặc biệt( danh mục sẽ đợc
điều chỉnh theo từng năm). Bên ngoài những loại hàng hoá nêu trên là các
hàng hoá đợc phép xuất nhập khẩu. Nh vậy, nguyên tắc ở đây là nguyên tắc
không cấm( ngoài những mặt hàng cấm thì đợc tự do xuất nhập khẩu) chứ
không nh trớc kia, chỉ ban hành các mặt hàng đợc phép kinh doanh xuất nhập
khẩu. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN trong việc tìm hiểu
nguồn hàng, mặt hàng để kinh doanh xuất nhập khẩu thành công. Qua đó càng
thấy rằng Nghị định 57/CP thực sự là một bớc tiến quan trọng của chính phủ
trong việc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói
riêng trong việc tiếp cận thị trờng quốc tế.
Điều nổi bật gần đây nhất là vào năm 2001, Chính phủ đã công bố kế
hoạch quản lí xuất nhập khẩu trong 5 năm thay vì kế hoạch xuất nhập khẩu
trong từng năm nh các năm trớc đó, điều này tạo điều kiện ổn định và thuận
lợi hơn cho hoạt động kinh doanh nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng của
các DNVVN. Quy định mới nhất đó là Quyết định 46/2001 ngày 4/4/2001 của
Chính phủ về kế hoạch xuất nhập khẩu trong giai đoạn 2001-2005.
Thủ tục kiểm tra Hải quan đã có một số cải tiến, lúc này doanh nghiệp
tự kê khai tính thuế xuất nhập khẩu, tự chịu trách nhiệm, thời gian giải phóng
hàng đã đợc rút ngắn, đã thực hiện hệ thống hành lang xanh với các nớc
ASEAN qua việc Tổng cục Hải quan hớng dẫn áp dụng tại Thông báo số
1184/TCHQ-GSQL ngày 20/1/1996 và 1599/TCHQ-KTTT ngày 13/8/1996).
Để phù hợp với tiến trình tự do hoá thơng mại, hội nhập kinh tế quốc tế
nói chung và tiến trình hội nhập CEPT/AFTA nói riêng. Chính phủ đã phê

chuẩn lộ trình tham gia giảm thuế AFTA trong giai đoạn 2001-2006, theo đó
hầu hết các dòng thuế sẽ đợc giảm xuống còn 20% vào cuối 2003 và xuống
còn 5% vào 2006.
Ngày 4/9/2002, Bộ Thơng mại đã ban hành Quyết định số
1062/2002/QĐ-BTM về việc bổ sung Phụ lục 3 quy chế cấp C/O hàng hoá
ASEAN của Việt namForm D để hởng các u đãi của Hiệp định về chơng
trình u đãi thuế quan có hiệu lực chung( CEPT). Đây thực sự là một bớc tiến
đáng kể vì nh vậy hàng hoá của các doanh nghiệp Việt nam trong đó phần lớn
là các DNVVN sẽ đợc hởng thêm những u đãi để tăng tính cạnh tranh trên th-
ơng trờng khu vực. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đang tiến hành xây dựng lại
Biểu thuế xuất nhập khẩu để áp dụng cho tất cả hàng hoá xuất nhập khẩu vào
Việt nam, chuẩn bị áp dụng Danh mục thế quan áp dụng trong ASEAN -
AHTA (ASEAN Hamornised Tariff Nomenclature).
Hai mặt hàng chủ chốt là gạo và phân bón trong hoạt động xuất nhập
khẩu đã đợc Chính phủ công khai cho phép tự do hoá xuất nhập khẩu vào năm
2001. Trớc đó, việc xuất nhập khẩu hai mặt hàng này chủ yếu đợc thực hiện
qua các doanh nghiệp nhà nớc đợc uỷ quyền. Đến năm 1998, Bộ Thơng mại
đã cho phép các doanh nghiệp thuộc khu vực t nhân tham gia xuất nhập khẩu
phân bòn, và đến năm 1999, Bộ Thơng mại đã công khai việc lựa chọn các

×