Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Lựa chọn một số bài tập bổ trợ, và trò chơi nhằm phát triển thể lực và nâng cao thành tích nội dung nhảy cao nằm nghiêng cho học sinh khối 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.14 KB, 24 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
GV: Giáo viên.
HS: Học sinh.
PPDH: Phương pháp dạy học.
GDTC: Giáo dục thể chất.
TDTT: Thể dục thể thao.
HKPĐ: Hội khoẻ phù đổng.
TTTC: Thể thao tự chọn.
PPCT: Phân phối chương trình.
THPT: Trung học phổ thông.

1
MỤC LỤC


Mục
1.

Lời giới thiệu

Trang

2.

Tên sáng kiến

3

3.

Tác giả sáng kiến



5

4.

Chủ đầu tư sáng kiến

5

5.

Lĩnh vực áp dụng sáng kiến

5

6.
thử

Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng

5

7.

Mô tả bản chất của sáng kiến

5

7.1 Về nội dung sáng kiến


6
6

7.1.1 Phần mở đầu

6

7.1.2 Phần nội dung

6

7.1.2.1 Lí luận chung
7.1.2.2 Đề xuất một số bài tập và trò chơi nhằm phát triển thể
lực và nâng cao thành tích nội dung Nhảy cao kiểu nằm
nghiêng cho học sinh khối 11 trường THPT Tam Dương II
a. Một số bài tập
b. Một số trò chơi

6
9
9
13

7.2 Về khả năng áp dụng của sáng kiến
8. Những thông tin cần bảo mật
9.Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
Kết luận

16
17

17
17

Kiến nghị

18

10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do
áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ
chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp
dụng thử (nếu có).
10.1 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do
áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
10.2 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do
áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:

2

20

20
21


11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử
hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có):
Tài liệu tham khảo

3



BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG
KIẾN 1. Lời giới thiệu
Giáo dục và đào tạo là nhân tố quyết định để phát huy tiềm năng trí tuệ,
năng lực sáng tạo của mỗi người và cộng đồng dân tộc Việt Nam, là động lực
quan trọng để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội
nhập quốc tế thắng lợi, sánh vai cùng các nước tiên tiến trên thế giới.
Với tư cách là “chìa khóa cuối cùng mở cửa vào tương lai” Giáo dục Việt
Nam đang từng bước đổi mới cả về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức,
nhằm đào tạo những thế hệ trẻ Việt Nam được phát triển toàn diện, phát triển
cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần và trong sáng về
đạo đức. Có thể khẳng định đổi mới một cách toàn diện nền giáo dục và đào tạo
nước nhà là một trong những tiền đề để nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát
triển, đưa đất nước phát triển nhanh với chất lượng cao và bền vững, tiến kịp
thời đại trong kỉ nguyên thông tin, tri thức và sớm thực hiện thành công sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước những yêu cầu đổi mới toàn diện đó, để nâng cao chất lượng và
hiệu quả giáo dục phải tiến hành đổi mới giáo dục theo hướng tiên tiến và hiện
đại, hoạt động đầu tiên của quá trình đó chính là đổi mới chương trình đào tạo
và đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa. Nếu chương trình là
cốt lõi định hướng cho toàn bộ hoạt động giáo dục thì phương pháp dạy học theo
hướng tích cực hóa người học là yếu tố cơ bản đảm bảo cho mục tiêu chương
trình được thực hiện một cách toàn vẹn.
Học sinh là lực lượng lao động trí thức trong tương lai của Đất nước. Lực
lượng này đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi mới công nghiệp hoá,
hiện đại hoá Đất nước. Do đó, để góp phần phát triển nguồn nhân lực quan trọng
của đất nước có trí tuệ cao, cường tráng về thể chất, trong sáng về đạo đức, đáp
ứng được những đòi hỏi mới của nền kinh tế - xã hội thì việc quan tâm chú trọng
đến nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động học tập của học sinh là yêu cầu

cấp thiết và khách quan.
Trong quá trình giáo dục thể chất, nhiệm vụ giáo dục và phát triển toàn
diện các tố chất thể lực là hết sức quan trọng. Đây chính là một trong những
phương tiện giáo dục thế hệ trẻ trong nhà trường. Mục tiêu hàng đầu của giáo
dục thể chất là người tập phải không ngừng phát triển và hoàn thiện các tố chất
thể lực và cũng là một trong những nhiệm vụ chủ yếu. Trong quá trình giáo dục
các tố chất thể lực là nhằm phát triển một cách toàn diện và phải dựa trên cơ sở
các bài tập phát triển chung.
Việc dạy và học môn thể dục trong trường phổ thông có nhiệm vụ trang bị
cho học sinh những kiến thức và kỹ năng cơ bản để rèn luyện nâng cao sức
khoẻ, thể lực, góp phần giáo dục đạo đức, ý chí và xây dựng lối sống lành mạnh,
đồng thời giúp học sinh giải toả những căng thẳng do thiếu vận động tạo nên.
4


Ngoài ra việc dạy và học thể dục còn hướng tới thể thao thành tích giữa các
trường THPT trong tỉnh, thông qua các kỳ thi hội khỏe phủ đổng cấp tỉnh. Thành
tích của học sinh trong các môn thể thao nó thể hiện tố chất của học sinh và kinh
nghiệm huấn luyện của giáo viên bộ môn Thể dục.
Muốn đạt được hiệu quả cao trong quá trình giáo dục các tố chất thể lực
cần phải chọn các phương tiện và phương pháp tập luyện để tạo nên một lượng
vận động hợp lí với trình độ thể lực và tâm lí lứa tuổi người tập.
Trong chương trình giáo dục thể chất ở trường GDTC là một mặt của giáo
dục toàn diện cho học sinh, là phương tiện có hiệu quả nhất để phát triển hài
hòa, cân đối về thể hình, nâng cao năng lực thể chất của người học.
Với hệ thống GDTC thì môn Nhảy cao là môn học mà khi học sinh tập
luyện sẽ phát triển rất tốt các tố chất thể lực, nhất là tố chất sức mạnh tốc độ, sức
nhanh và sự khéo léo (ba tố chất rất thích hợp để phát triển ở lứa tuổi học sinh từ
16 - 18 tuổi).
Nhảy cao là môn thể thao không đòi hỏi nhiều về trang thiết bị, kỹ thuật

tương đối đơn giản, dễ phổ cập, phù hợp với mọi lứa tuổi, giới tính, do đó nó là
một nội dung cơ bản trong chương trình giáo dục thể chất. Thông qua giảng dạy
và tập luyện môn học này sẽ phát triển sức nhanh và sức mạnh cơ chân góp phần
nâng cao thể chất cho học sinh, trang bị những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cần
thiết trong cuộc sống, không những có lợi cho sức khoẻ mà còn có lợi cho cả
học tập, lao động sản xuất và bảo vệ tổ quốc.
Cũng như các môn thể thao khác, nhảy cao đòi hỏi sự căng thẳng rất lớn
của hệ thần kinh, cơ bắp của con người.Thông qua tập luyện và thi đấu môn
nhảy cao, cơ thể con người sẽ ngày càng được hoàn thiện hơn.
Tập luyện nhảy cao có tác dụng rất lớn trong việc phát triển các tố chất
thể lực, nâng cao khả năng tập trung sức, tự chủ và rèn luyện lòng dũng cảm,
tính kiên trì và khắc phục khó khăn trong rèn luyện. Thông qua các bài tập kỹ
thuật của chạy đà và giậm nhảy, làm tăng cường và phát triển các tố chất sức
nhanh, sức mạnh và sức mạnh tốc độ của người tập. Thực hiện tốt các kỹ thuật
trên không và rơi xuống đất, đã rèn luyện được sự khéo léo, tính chính xác, nâng
cao khả năng phối hợp vận động, giúp cho người tập nâng cao sức khỏe cả về
thể chất lẫn tinh thần, phục vụ đắc lực cho lao động sản xuất và chiến đấu.
Song, ngoài những lợi ích khi tập luyện môn nhảy cao như trên thì nội
dung học nhảy cao nằm nghiêng ở chương trình phổ thông cũng là một trở ngại
lớn đối với các em học sinh bởi nội dung nhảy cao nằm nghiêng là nội dung khó
tiếp thu về kĩ thuật động tác dẫn tới thành tích của HS không cao. Các bài tập
trực tiếp đi vào tập luyện các giai đoạn thường lặp lại nhiều lần trong một tiết
học, sự khó khăn trong thực hiện làm mẫu động tác, sự thiếu thốn về cơ sở vật
chất sân tập dễ dẫn tới nhàm chán và mệt mỏi trong học sinh, cộng thêm đặc thù
của giảng dạy TDTT là ở ngoài trời nên học sinh dễ bị phân tán tư tưởng bởi các
sự việc xảy ra xung quanh.

5



Đặc thù của các bài tập bổ trợ và trò chơi là hình thành kĩ thuật động tác
thông qua các bài tập có các động tác tương tự như các động tác chính, chính vì
thế mà các kĩ thuật động tác nhanh chóng được hình thành và khắc sâu, ngoài ra
khi sử dụng các bài tập bổ trợ và trò chơi còn giúp học sinh phát triển thể lực,
giảm căng thẳng trong tập luyện, kích thích hứng thú, giáo dục ý chí đạo đức,
tinh thần tập thể và ý thức chấp hành nội quy.

lứa tuổi học sinh THPT, cơ thể các em đang dần hoàn thiện về tất cả
các chức năng, nhất là chức năng vận động, tâm sinh lý của các em cũng dần
được hoàn thiện.
Chính vì những lí do trên và tầm quan trọng của nó trong sự nghiệp giáo
dục toàn diện nên tôi chọn đề tài: Lựa chọn một số bài tập bổ trợ, và trò chơi
nhằm phát triển thể lực và nâng cao thành tích nội dung Nhảy cao nằm
nghiêng cho học sinh khối 11 Trường THPT Tam Dương II.
2. Tên sáng kiến
Lựa chọn một số bài tập bổ trợ, và trò chơi nhằm phát triển thể lực và
nâng cao thành tích nội dung Nhảy cao nằm nghiêng cho học sinh khối 11
Trường THPT Tam Dương II.
3. Tác giả sáng kiến
- Họ và tên: KIỀU THỊ HẢI YẾN
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: THPT Tam Dương II.
- Số điện thoại: 0972701287,
Email:
4. Chủ đầu tư sáng kiến
- Họ và tên: KIỀU THỊ HẢI YẾN.
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: THPT Tam Dương II.
- Số điện thoại: 0972701287.
Email:
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Có thể áp dụng sáng kiến vào giảng dạy nội dung nhảy cao nằm nghiêng,

đồng thời cũng có thể áp dụng để giảng dạy các nội dung khác của môn thể dục
(ví dụ nội dung nhảy xa) trong nhà trường phổ thông bởi tính thiết thực của nó
là tạo hứng thú học tập cho học sinh và nâng cao hiệu quả giờ dạy.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
Sáng kiến được áp dụng thử cho lớp 11A2 tại trường THPT Tam Dương
II bắt đầu từ ngày 29/10/2018 tại giáo án số 17 với nội dung nhảy cao – thể thao
tự chọn – chạy bền đến ngày 17/12/2018 tại giáo án số 28 với nội dung kiểm tra
15 phút nhảy cao.
7.
Mô tả bản chất của sáng kiến
6


7.1 Về nội dung của sáng kiến
7.1.1 Phần mở đầu
a. Nhiệm vụ của đề tài
Đề tài tập trung vào giải quyết các nhiệm vụ sau:
-Thực trạng hoạt động dạy và học môn thể dục tại trường THPT Tam
Dương II.
-Lựa chọn một số bài tập bổ trợ, và trò chơi nhằm phát triển thể lực và
nâng cao thành tích nội dung Nhảy cao nằm nghiêng.
b. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập thông tin.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp kết hợp thực tiễn giáo dục ở trường THPT,…
c. Kế hoạch nghiên cứu
- Các bước:
+) Tìm ra thực trạng của vấn đề nghiên cứu
+) Giải pháp thay thế. +) Vấn đề nghiên

cứu.
+) Đo lường
+) Phân tích dữ liệu và đưa ra kết quả
- Thời gian và địa điểm nghiên cứu:
+) Thời gian: Bắt đầu từ ngày 29/10/2018 tại giáo án số 17 với nội dung
nhảy cao – thể thao tự chọn – chạy bền đến ngày 17/12/2018 tại giáo án
số 28 với nội dung kiểm tra 15 phút nhảy cao. +) Địa điểm: Tại trường
THPT Tam Dương II
-Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh khối 11 của trường THPT Tam Dương II
7.1.2 Phần nội dung
7.1.2.1 Lý luận chung
Thực trạng hoạt động dạy và học môn thể dục tại trường THPT Tam
Dương II.
Công tác TDTT trường học có vai trò vô cùng quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển nền thể thao nước nhà. Thể dục thể thao trong
trường học được xác định là bộ phận quan trọng trong việc nâng cao sức khoẻ
và thể lực, bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, ý chí, giáo dục nhân cách cho học
sinh, sinh viên góp phần yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thể
7


dục thể thao trường học còn là môi trường giàu tiềm năng để phát hiện và bồi
dưỡng tài năng thể thao cho đất nước. Tuy nhiên trong tình hình chung hiện nay,
đa số giáo viên và học sinh chưa coi trọng chất lượng của tiết học thể dục:
Tất cả đều cho rằng đó là môn phụ, chỉ cần hằng năm huấn luyện đội
tuyển (một số em) để tham dự Đại hội TDTT hoặc HKPĐ có thành tích xếp
hạng là được. Như vậy vô hình chung giáo viên chỉ chú trọng đến một số em có
năng khiếu.
Do điều kiện cơ sở vật chất (sân bãi, đồ dùng học tập) còn nhiều hạn chế

không có đệm cho HS tập mà HS phải thực hiện kĩ thuật trên hố cát nên sự đánh
giá chất lượng tiết dạy đòi hỏi chưa cao.
Ý thức tự giác của một bộ phận học sinh là chưa cao.
Một bộ phận giáo viên giảng dạy không áp dụng các phương pháp giảng
dạy linh hoạt, sáng tạo do ngại thay đổi cũng dẫn đến việc tiếp thức của học sinh
bị hạn chế.
Giáo viên lựa chọn bài tập bổ trợ không phù hợp, trò chơi không mang
tính thách đố sẽ làm cho học sinh không hào hứng.
Chính vì những lý do trên mà các tiết dạy thể dục, giáo viên chưa đầu tư
tìm tòi sáng tạo để vận dụng nhiều phương pháp vào các tiết dạy. Một trong
những phương pháp đó là sử dụng bài tập bổ trợ và trò chơi.
Giáo viên chưa chú trọng việc lựa chọn bài tập bổ trợ và tổ chức trò chơi
phù hợp:
Nhiều tiết dạy trong PPCT có ghi “thể thao tự chọn”, giáo viên có chọn và
tổ chức trò chơi cho có lệ. Họ chưa chú ý đến mục đích của trò chơi đó có phù
hợp với bài dạy đó hay không? Hoặc là chỉ nghĩ chơi để thư giãn cho học sinh là
chủ yếu.
Với phần trò chơi nhiều tiết dạy giáo viên bỏ qua phần này với lý do là
“cũng không cần thiết” miễn rằng có đầy đủ kiến thức theo yêu cầu của chương
trình là được. Như vậy vô hình chung đã làm cho tiết dạy đó vừa khô khan, vừa
cứng nhắc làm cho các em hình thành ý thức tập luyện bắt buộc nên các em có
cảm giác mệt mỏi hơn là khoẻ khoắn.

lứa tuổi này học sinh đang trong giai đoạn dậy thì, nên rất hiếu động, dễ
bị ảnh hưởng bởi các tác động bên ngoài. Mà giờ học thể dục là giờ học ngoài
trời với không gian rộng nhiều yếu tố xung quanh bên ngoài tác động. Do đó,
nếu giờ dạy mà cứng nhắc khô khan sẽ làm cho học sinh mất tập trung, học tập
với thái độ chống đối, mệt mỏi và hiệu quả giờ dạy đạt được chưa cao.
Một thực tế trong xã hội hiện đại, tình trạng học sinh thiếu vận động và
thừa chất dinh dưỡng ngày càng nhiều, hiện tượng học sinh có trọng lượng cơ

thể vượt quá mức bình thường hoặc mắc bệnh béo phì cũng ngày càng phổ biến.
Việc tập luyện thường xuyên liên tục đặc biệt là các bài tập bổ trợ và trò
chơi sẽ giúp các em thoát khỏi tình trạng nêu trên, tiêu hao năng lượng thừa,
8


không thể tích thành mỡ. Trò chơi vừa có lợi cho sức khoẻ vừa chống lại được
căn bệnh béo phì và làm hứng thú cho tiết học.
Phương pháp tổ chức trò chơi là giúp cho học sinh chống lại mệt mỏi
trong hoạt động TDTT . Trò chơi có ảnh hưởng đặc biệt đối với thành tích thi
đấu của nhiều môn thể thao và là yếu tố quyết định đối với khả năng chịu đựng
lượng vận động đối với học sinh. Phương pháp tổ chức trò chơi là tiền đề cần
thiết cho khả năng phục hồi nhanh chóng sau các lượng vận động lớn.
Nội dung nhảy cao nằm nghiêng là một nội dung đòi hỏi nhiều yếu tố đối
với giáo viên, học sinh cũng như điều kiện cơ sở vật chất trong chương trình
môn thể dục bậc THPT:
a. Thứ nhất
Yêu cầu đối với giáo viên: Giáo viên phải nắm vững lý luận chung về
Nhảy cao để phân tích làm rõ từng giai đoạn kĩ thuật động tác, toàn bộ kĩ thuật
thông qua phương pháp thuyết trình, thêm vào đó giáo viên phải thị phạm chính
xác toàn bộ kĩ thuật thể hiện sự phối hợp tốt bốn giai đoạn của kĩ thuật nhảy cao
nằm nghiêng và mang tính thẩm mỹ cao.
Khó khăn: Nội dung trong phân phối chương trình gồm ba nội dung
chính trong cùng một tiết học (thời lượng của một tiết học là 45 phút, trong đó
phần mở đầu chiếm 8 – 10 phút + phần kết thúc chiếm 3 – 5 phút. Như vậy phần
cơ bản chỉ còn 28 – 30 phút cho ba nội dung chính. Ví dụ: Nhảy cao – Thể thao
tự chọn – chạy bền) nên giáo viên khi soạn và giảng thường tập trung vào nội
dung chính để đảm bảo giáo án theo đúng phân phối chương trình và thời gian
cho phép của một tiết học.
Do đó, thời gian cho mỗi nội dung bị hạn chế. Thêm vào đó, việc tiến

hành làm mẫu bị hạn chế do tính chất của động tác một số giáo viên còn thực
hiện chưa tốt hoặc thực hiện chưa đúng, chưa đẹp kĩ thuật các giai đoạn của
nhảy cao nằm nghiêng (do tuổi cao, do không đủ thể lực, do lâu ngày không
thực hiện nên ngại thị phạm...) dẫn tới kết quả tiếp thu của học sinh không cao
do bị ức chế và nhàm chán, mất tập trung, không hứng thú.
b. Thứ hai
Yêu cầu đối với học sinh: Học sinh khi học nội dung Nhảy cao nằm
nghiêng phải có được nền tảng thể lực tốt, có sự tập trung cao độ cộng với óc
sáng tạo và ý thức tự giác tích cực tập luyện. Khả năng quan sát tốt để khi quan
sát giáo viên thị phạm động tác sẽ nhanh chóng hình thành khái niệm được kĩ
thuật động tác.
Khó khăn: Có rất ít các em có đủ thể lực để đáp ứng yêu cầu của nội
dung này, số tiết học trên lớp ít cộng với phải học ba nội dung chính trong cùng
một tiết học phải luân chuyển đội hình nhiều dẫn tới các em dễ mệt mỏi và chán
nản. Để đảm bảo tiết học theo đúng phân phối chương trình HS phải liên tục
chuyển đổi đội hình làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình hình thành khái
niệm kĩ thuật động tác.
9


Hơn nữa, ở lứa tuổi này HS dễ bị ảnh hưởng bởi các tác động bên ngoài,
HS không tập trung vào tiết học dẫn tới thành tích và thể lực đạt được chưa cao
khi kiểm tra.
c. Thứ ba
Điều kiện cơ sở vật chất: Để tập luyện tốt cho nội dung nhảy cao cần có
bộ cột, sào, đệm chuyên dụng phục vụ cho giảng dạy và tập luyện.
Khó khăn: Do điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn không có đệm chuyên
dụng cho nhảy cao (đệm hỏng) nên HS phải thực hiện kĩ thuật trên hố cát làm
cho HS có cảm giác sợ hãi (có thể bị ngã) khi thực hiện kĩ thuật.
Tóm lại: Ở lứa tuổi học sinh THPT hệ thống cơ đang phát triển, sức mạnh

của các cơ tăng, khả năng hoạt động của các chức năng thực vật cao hơn và ức
chế có điều kiện cũng phát triển tương đối mạnh. Vì thế nội dung tập luyện của
các em phải gây được hứng thú, hào hứng, phấn khởi. Nhưng bài tập phải có tác
dụng hoàn thiện sự phối hợp động tác và phát triển các tố chất.
Nội dung nhảy cao nằm nghiêng đòi hỏi sự phối hợp nhịp nhàng giữa các
tố chất thể lực nhất là sức nhanh và sức mạnh bộc phát kết hợp với sự khéo léo,
đòi hỏi học sinh phải có thể lực phát triển tương đối toàn diện.
Muốn có thành tích cao trong nhảy cao cần có sự tập trung trong luyện tập
chính vì thế giáo viên cần chọn những bài tập vận động có tính chất động và có
sự cạnh tranh trong tập luyện nhằm gây hứng thú của học sinh, xen kẽ vào là các
trò chơi đơn giản có hình thức tương tự như các bài tập nhưng sẽ làm giảm sự
căng thẳng và mệt mỏi trong tập luyện đồng thời cũng làm tăng thể lực cho các
em.
Trong quá trình tìm tòi, nghiên cứu và đã được áp dụng vào thực tiễn dạy
học tại trường THPT Tam Dương II tôi đã lựa chọn được một số bài tập và trò
chơi sau, nhằm phát triển thể lực và nâng cao thành tích ở nội dung nhảy cao
nằm nghiêng cho học sinh.
7.1.2.2 Đề xuất một số bài tập bổ trợ và trò chơi nhằm phát triển thể
lực và nâng cao thành tích nội dung nhảy cao kiểu nằm nghiêng cho học
sinh khối 11 trường THPT Tam Dương II:
a. Một số bài tập
*
Bài tập 1: Tại chỗ bật nhảy đá chân lăng lên cao có vật chuẩn. Bổ trợ
cho giai đoạn giậm nhảy – đá chân lăng.
- Chuẩn bị:
Dùng một vật làm chuẩn (có thể là quả bóng, cành cây...) được treo ở độ
cao khoảng 1,5m – 1,7m đối với nam, 1,3m – 1,5m đối với nữ.
- Động tác:
Dùng sức của đùi và hông đá lăng chân về trước – lên cao sau đó thả lỏng,
hạ thấp chân xuống dưới – ra sau như quả lắc đồng hồ và lặp lại bài tập. Đội

10


hình tập luyện theo hàng dọc, lần lượt từng em một lên thực hiện động tác, sau
đó đi về cuối hàng. Mỗi lần thực hiện động tác cần tăng dần biên độ và thả lỏng.
Sau 5 – 10 lần tập, đổi chân. Khi đá chân lên cao, thân người thẳng, chân
trụ theo đà dướn lên cao không được co gối và hạ thấp trọng tâm.
Khi HS thực hiện được động tác tương đối thuần thục, GV có thể cho tập
chạy đà một bước, đà ba bước kết hợp giậm nhảy đá lăng.
- Yêu cầu:
Khi đá lăng chân phải thẳng, bàn chân và cẳng chân tạo thành hình lưỡi
cuốc, chân giậm bật duỗi thẳng, hai tay đánh lên tự nhiên, bật cao cố gắng bàn
chân chạm hoặc vượt qua vật chuẩn, rơi xuống bằng chân giậm.
- Mục đích:
Động tác đá chân lăng lên cao có vật chuẩn sẽ giúp cho học sinh khi thực
hiện động tác đá lăng sau giậm nhảy chân lăng sẽ được đá cao hơn giúp cho
trọng tâm của cơ thể sẽ được nâng cao hơn sau khi giậm nhảy.
Bài tập này được thực hiện vào phần đầu tiên của phần cơ bản.
* Bài tập 2: Đà một bước – giậm nhảy đá
lăng. - Chuẩn bị:
Đứng chân lăng phía trước, chân giậm nhảy phía sau hơi co, mũi bàn cân
chạm đất, hai tay buông tự nhiên.
- Động tác:
Hơi ngả thân trên ra sau lấy đà, sau đó lại chuyển về trước kết hợp với
bước chân giậm nhảy về trước một bước vừa phải. Tiếp theo chuyển trọng tâm
vào chân giậm nhảy, đồng thời chân giậm nhảy hơi khuỵu gối và hạ thấp trọng
tâm, sau đó kết hợp giậm nhảy với đá chân lăng về trước – lên cao. Tiếp theo
xoay mũi (gót) chân kết hợp với chân giậm nhảy rời khỏi mặt đất và co nhanh
lại, khi thân người đã xoay 180 o thì lại duỗi chân giậm nhảy ra để chủ động tiếp
đất.

Lúc đầu tập động tác này với nhịp độ chậm và biên độ hẹp, sau đó tăng
dần khả năng thực hiện động tác đến mức tối đa.
- Mục đích:
Giúp bổ trợ phát triển sức mạnh chân giậm, hình thành và tập luyện bổ trợ
hoàn thiện kỹ thuật thu chân giậm khi qua xà.
- Yêu cầu:
Sau khi giậm nhảy, lúc cơ thể đang bật bổng lên cao, không được ngả thân
trên ra sau, mà thân trên phải dướn thẳng lên cao. Khi xoay mũi (gót) chân mới
được ngả thân trên và xoay người, nếu không dễ bị ngã. Khi HS đã tập được
tương đối đúng, GV có thể cho đi hoặc chạy đà 3 – 5 bước – giậm nhảy đá lăng
chân.
11


Bài tập này có thể thực hiện xen kẽ trong tất cả các tiết học nhảy cao nằm
nghiêng.
* Bài tập 3: Chạy đà chính diện – giậm nhảy co chân qua
xà - Chuẩn bị:
Đứng cách xà 5 – 7 bước hoặc 4 – 8 bước đà mặt hướng vuông góc vào
xà. Tư thế trước chạy đà có thể đứng chân trước chân sau hoặc hai chân song
song trước vạch xuất phát hoặc đi tự do vài bước đến vạch xuất phát rồi mới tiến
hành chạy đà.
- Động tác:
Chạy đà chính diện với xà, sau đó đá lăng chân về trước rồi co chân giậm
nhảy qua xà theo tư thế ngồi xổm nhưng chân lăng duỗi thẳng, chân giậm nhảy
co
- Mục đích:
Giúp bổ trợ phát triển sức mạnh chân giậm, hình thành và tập luyện bổ trợ
hoàn thiện kỹ thuật thu chân giậm khi qua xà; kỹ thuật hoãn xung khi tiếp đất.
- Yêu cầu:

Mức xà được đặt từ thấp (80cm đối với nữ, 90cm đối với nam) đến cao
(khoảng 110cm đối với nữ, 120cm đối với nam), đồng thời cũng tăng dần số
bước chạy đà (từ 3 – 5 – 7 bước) . Khi thực hiện động tác phải thực hiện nghiêm
túc, khi giậm nhảy phải đúng kỹ thuật, đá chân lăng phải tương đối thẳng, chân
giậm sau khi rời đất phải nhanh chóng thu gọn và đưa qua xà.
Bài tập này có thể thực hiện xen kẽ trong tất cả các tiết học nhảy cao nằm
nghiêng.
* Bài tập 4: Mô phỏng động tác qua
xà - Chuẩn bị:
Đứng bên cạnh xà chếch một khoảng phù hợp với mình, chân giậm phía
trước, chân lăng phía sau hơi co, mũi chân chạm đất, hai tay tự nhiên.
- Động tác:
Đá chân lăng về trước – lên cao (trên đỉnh xà) xoay mũi gót chân lăng
đồng thời xoay thân người, bàn chân lăng sau khi xoay ở phía trên cao bên kia
xà.
- Mục đích:
Bổ trợ cho giai đoạn qua qua xà, hình thành và tập luyện bổ trợ hoàn thiện
kỹ thuật thu chân giậm khi qua xà; kỹ thuật hoãn xung khi tiếp đất.
- Yêu cầu:
Khi thực hiện động tác phải thực hiện nghiêm túc, khi giậm nhảy phải
đúng kỹ thuật, đá chân lăng phải tương đối thẳng, chân giậm sau khi rời đất phải
nhanh chóng thu gọn và đưa qua xà.
12


* Bài tập 5: Chạy đà – giậm nhảy – đá lăng với xà cao (không qua
xà). - Chuẩn bị:
Đặt xà cao khoảng 170cm đối với nam, 160cm đối với nữ.
- Động tác:
Chạy đà chéo bật nhảy, đá chân lăng lên cao, không qua xà rơi xuống

bằng chân giậm nhảy.
- Mục đích:
Bổ trợ cho giai đoạn chạy đà, giậm nhảy, giúp học sinh xác định được góc
độ giậm nhảy, điểm giậm nhảy, có cảm giác tốt với xà trước khi nhảy. Ngoài ra
bài tập còn bổ trợ kỹ thuật đá chân lăng sau khi giậm nhảy, nâng cao trọng tâm
khi thực hiện kỹ thuật.
- Yêu cầu:
Chạy đà đúng nhịp độ, bật nhảy đưa người lên theo phương thẳng đứng,
đá chân lăng cao, thẳng, mũi bàn chân cao ngang với xà hoặc có thể cao hơn,
không qua xà, rơi xuống bằng chân giậm, chạy theo quán tính khoảng 2 – 3
bước.
Bài tập này được áp dụng vào đầu phần cơ bản.
* Bài tập 6: Gập duỗi cơ
bụng. - Động tác:
Người thực hiện ngồi duỗi hai chân thẳng ra trước, thân trên hơi ngửa ra
sau, hai tay chống ra sau rộng bằng vai. Khi có hiệu lệnh của giáo viên (đếm) thì
nhanh chóng gập hai chân lên sau đó hạ xuống. Thực hiện liên tục nữ 10 - 15
lượt, nam 20 - 25 lượt.
- Mục đích:
Phát triển cơ bụng, cơ đùi, luyện tập sức chịu đựng và cố gắng của cơ thể,
bổ trợ giai đoạn đá chân lăng, hóp bụng trên không khi qua xà.
- Yêu cầu:
Khi thực hiện bài tập đầu gối không được co (khi mới tập có thể co gối),
khi co chân lên hai đầu gối phải sát vào mặt, khi xuống không được chạm đất,
thực hiện theo nhịp đếm của giáo viên, khi tập phải nghiêm túc không được cười
đùa, không được bỏ giữa chừng, ban đầu tập ít lượt sau đó tăng dần.
Bài tập được thực hiện vào cuối phần cơ bản của các tiết học trước phần
thả lỏng, hồi tĩnh.
* Bài tập 7: Đứng lên ngồi xuống bằng chân
giậm. - Động tác:

Người tập đứng trên chân giậm, chân lăng đưa thẳng ra trước, hai tay
dang ngang. Khi có hiệu lệnh của giáo viên, học sinh hạ từ từ cơ thể xuống,
đồng thời đưa hai tay ra trước, chân lăng đưa ra trước thẳng, mông hạ xuống
13


ngồi trên chân giậm, sau đó nâng cơ thể lên về tư thế ban đầu. Thực hiện liên tục
nữ 5 lượt, nam 10 – 15 lượt (có thể tăng dần số lượt trong các buổi tập sau), mỗi
tiết học thực hiện hai lần.
- Mục đích:
Phát triển sức mạnh chân giậm, nâng cao sức chịu đựng, sự vượt khó
vươn lên trong tập luyện của học sinh.
- Yêu cầu:
Khi thực hiện chân lăng phải thẳng, khi ngồi xuống không được chạm
chân lăng xuống đất. Khi tập không được cười đùa, không bỏ giữa chừng.
Bài tập được thực hiện vào cuối phần cơ bản của các tiết học trước phần
thả lỏng, hồi tĩnh.
b. Một số trò chơi:
* Trò chơi: “ Cướp
cờ” - Mục đích:
Luyện cho các em phát triển tính nhanh nhẹn và tháo vát, bước đầu giáo
dục cho các em ý thức chơi tập thể giành phần thắng về cho đội mình.
- Chuẩn bị:
Trên sân trường hoặc một bãi rộng, các em tham gia chơi chia làm hai đội
với số người bằng nhau. Hai đội điểm số từ một đến hết. Các em nhớ số của
mình, hai đội xếp hàng ngang, mặt hướng vào nhau cách nhau 10-15m. Giữa hai
đội cắm một lá cờ.
- Cách chơi:
Người điều khiển gọi bất kỳ số nào, thì hai em ở hai đội mang số hiệu đó
nhanh chóng chạy lên và tìm cách chiếm lấy cờ mang về cho đội mình mà

không bị đối phương bắt được, thì coi như thắng và đội đó được một điểm.
Ngược lại nếu bị bắt thì đội bạn được một điểm. Sau đó cờ lại được đưa về giữa
sân và người điều khiển lại gọi các số khác. Qua một thời gian nhất định, đội
nào được nhiều điểm là đội đó thắng. Đội thua phải nằm sấp gập duỗi tay 10 lần.
- Yêu cầu:
Các em phải nhanh nhẹn, tháo vát, khéo léo lừa cho đối phương không
phán đoán được ý định của mình.
Chỉ được chạy trong khu vực sân chơi
* Trò chơi : “cắm cờ chiến
thắng” - Chuẩn bị:
Trên sân trường chọn nơi bằng phẳng sạch sẽ, kẻ hai vạch giới hạn song
song cách nhau 10-15m. Khoảng cách giữa hai vạch lệch sang hai bên một chút
so với, đường chạy, kẻ hai vòng tròn, mỗi vòng tròn có đường kính 0,50m, bên
trong để một miếng xốp làm đích cắm cờ. Chuẩn bị cho mỗi đội một cờ nhỏ.
14


Chia học sinh trong lớp làm hai đội A và B, số người bằng nhau tỷ lệ nam, nữ
tương đương.
- Cách chơi:
Khi có lệnh các em số 1 chạy nhanh sang vạch giới hạn thứ hai trao cờ
cho bạn đứng đầu của hàng đối diện, em này nhận cờ lại nhanh chóng chạy sang
vạch giới hạn đối diện trao cho bạn thứ hai. Trò chơi cứ tiếp tục như vậy đến em
cuối khi tiếp nhận được cờ chạy nhanh chóng lên cắm vào miếng xốp, đội nào
cắm cờ xong trước đội đó thắng.
- Mục đích:
Nhằm rèn luyện kỹ năng chạy, khả năng phối hợp nhanh nhẹn, khéo léo,
phát triển sức nhanh, giáo dục tính tập thể, tác phong nhanh nhẹn khẩn trương.
- Yêu cầu:
Không được chạy lên trước vạch giới hạn khi chưa nhận được cờ của bạn

chạy trước trao cho.
Không được ném cờ trong lúc chuyền, mà phải đưa tận tay cho đồng đội.
Trong quá trình chơi phải thực hiện nghiêm túc, tự giác, tích cực, thực
hiện đúng nội qui của trò chơi đề ra.
Hai trò chơi này thường được sử dụng trong tất cả các tiết học sau phần
cơ bản, tốt nhất là sử dụng trong các tiết có sử dụng các bài tập bổ trợ phát triển
thể lực, thời gian khoảng 5 - 7 phút.
* Trò chơi: “Lò cò tiếp sức”
- Chuẩn bị:
Kẻ 2 vạch song song với nhau cách nhau một khoảng 20m, ở mỗi vạch có
cắm 2 hoặc 4 lá cờ có màu khác nhau để đánh dấu vị trí và khu vực của mỗi đội.
Học sinh xếp thành 2 hoặc 4 hàng dọc (có số lượng người và giới tính
bằng nhau), đứng phía sau vạch xuất phát.
- Cách chơi:
Khi có lệnh (tiếng còi) các em đứng đầu mỗi hàng lập tức xuất phát chạy
lò cò bằng một chân đến hết cự li sau đó vòng qua lá cờ ở vạch giới hạn quay về
phía hàng của mình, khi về đến hàng rồi thì vỗ tay vào người kế tiếp, người kế
tiếp lại tiếp tục thực hiện như người trước, cứ như vậy cho đến hết số người
trong hàng, người thực hiện xong thì xếp thành hàng bên cạnh hàng của mình.
Chú ý: Chỉ khi người trước về đến vạch giới hạn và chạm vào tay người
kế tiếp thì người kế tiếp mới được thực hiện, đội nào vi phạm xem như thua
cuộc.
Đội thua cuộc phải nằm sấp chống đẩy 10 lần.
- Mục đích:

15


Phát triển sức mạnh của cơ chân, phát huy tinh thần đoàn kết, sự nỗ lực cố
gắng vươn lên hoàn thành nhiệm vụ của mỗi cá nhân.

- Yêu cầu:
Các em phải nghiêm túc chấp hành đầy đủ qui ước của trò chơi, tự giác
khi mắc lỗi.
* Trò chơi: “Lò cò chọi gà”
- Chuẩn bị:
Tùy theo địa điểm và số lượng HS, có thể tổ chức cho HS chơi theo nhiều
đội hình khác nhau như hàng ngang, vòng tròn,… Chia số HS trong lớp thành
nhiều cặp tương ứng về thể lực và cùng giới tính. Cặp nọ cách cặp kia tối thiểu
2m.
- Cách chơi:
Các em co một chân lên, hai tay có thể để ở phía sau lưng hoặc một tay
nắm lấy cổ chân, hoặc buông tự nhiên. Khi có lệnh, từng cặp vừa nhảy lò cò vừa
dùng tay hay vai để “chọi” nhau. Ai để mất thăng bằng, để cả hai chân chạm đất
là thua một điểm. Trò chơi tiếp tục như vậy cho đến khi có lệnh dừng lại, ai
được nhiều điểm là thắng cuộc.
- Mục đích:
Phát triển sức mạnh của cơ chân, phát huy tinh thần đoàn kết, sự nỗ lực cố
gắng vươn lên hoàn thành nhiệm vụ của mỗi cá nhân.
- Yêu cầu:
Các em phải nghiêm túc chấp hành đầy đủ qui ước của trò chơi, tự giác
khi mắc lỗi.
Qua một thời gian nghiên cứu từng vấn đề, phương pháp sử dụng trong
quá trình nghiên cứu, với sự nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu của bản thân tôi và sự
ủng hộ nhiệt tình của đồng nghiệp, những người có kinh nghiệm…Đã giúp tôi
thu được kết quả sau:
Đã lựa chọn được một số bài tập và trò chơi nhằm phát triển thể lực và
thành tích của học sinh ở nội dung Nhảy cao kiểu nằm nghiêng cho học sinh
khối 11 trường THPT Tam Dương II. Do bài tập bổ trợ và trò chơi giúp học sinh
phát triển hứng thú học tập, khắc sâu kiến thức và có thành tích thể thao cao.
Đồng thời trò chơi có tác dụng rất lớn trong việc xây dựng, giáo dục con

người. Nó không chỉ thúc đẩy cho cơ thể của các em học sinh phát triển nhanh
chóng tới mức hoàn chỉnh mà nó còn nâng cao được thể lực và đạo đức của các
em.
Do vậy, tôi đã biết căn cứ vào yêu cầu, mục đích cụ thể để sắp xếp bài tập
và trò chơi cho phù hợp với lứa tuổi, trình độ sức khoẻ, văn hoá và giới tính của
học sinh, phù hợp với điều kiện sân bãi, dụng cụ sẵn có của cơ sở mình và phù
hợp với mục đích, yêu cầu của đề tài đặt ra.
16


Qua quá trình nghiên cứu tôi đã học hỏi được một số kinh nghiệm, biết
cách tổ chức bài tập và trò chơi sao cho khoa học, phù hợp với mục đích, yêu
cầu của từng nội dung của môn thể dục…. Phục vụ triệt để cho mục đích dạy
học. Qua đó tôi đã áp dụng có hiệu quả một số bài tập và trò chơi phục vụ cho
mục đích giảng dạy ở trường THPT Tam Dương II.
Để đạt được những thành tích cao trong các cuộc thi thể thao thì nên tổ
chức thành các đội, nhóm năng khiếu cho các môn thể thao khác nhau để từ đó
có thể tuyên chọn, tập luyện và bồi dưỡng cho các em được tốt hơn.
Trên đây là một số nghiên cứu ở mức độ cá nhân nên cần được những ý
kiến đóng góp bổ sung để hoàn chỉnh hơn. Tôi mong nhận được sự quan tâm
đóng góp ý kiến của các đồng sự cho bản nghiên cứu của tôi được hoàn thiện
hơn, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy. Qua đó hoàn thành mục tiêu
xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về tất cả các mặt trí tuệ, đạo
đức và thể chất.
7.2 Về khả năng áp dụng của sáng kiến
Kết quả khai thác một số bài tập và trò chơi trên cho giảng dạy. Trong quá
trình giảng dạy môn thể dục nói chung và nội dung nhảy cao kiểu nằm nghiêng
ở trường THPT Tam Dương II có sử dụng một số bài tập và trò chơi lựa chọn ở
trên ta thấy kết quả đạt được cần quan tâm.
Khi giảng dạy thực nghiệm kiểu bài cung cấp kiến thức mới, cũng như

củng cố, ôn luyện những phần nhỏ của kỹ thuật thể thao cho học sinh trong cùng
một nội dung “nhảy cao nằm nghiêng” ở một lớp không sử dụng các bài tập và
trò chơi hoặc sử dụng các bài tập, trò chơi không được lựa chọn, với một lớp có
sử dụng bài tập và trò chơi để khai thác hết khả năng của học sinh.
Ta thấy kết quả thu được ở lớp khi dạy có sử dụng bài tập và trò chơi làm
phương tiện truyền đạt kỹ năng và rèn luyện thể lực thì học sinh nắm kiến thức
một cách nhanh chóng, hiểu bài ngay tại lớp, thực hiện các kỹ thuật động tác
đúng có kết quả cao, khắc sâu được kiến thức đối với học sinh.
Đồng thời thông qua trò chơi, xây dựng cho học sinh tinh thần tự giác,
chấp hành nội qui của tập thể đề ra, lòng dũng cảm, trung thực trong học tập.
Khi mắc sai lầm giám nhận khuyết điểm và xây dựng cho các em tinh thần, tập
thể, đoàn kết giúp đỡ nhau hiệp đồng chiến đấu bảo vệ lợi ích, danh dự của tập
thể mình và tự hào về tập thể đó.
Cũng qua trò chơi xây dựng cho các em ý chí kiên cường chiến đấu quyết
tâm giành thắng lợi và sự sáng tạo tháo vát, nhanh nhẹn cần thiết cho lao động
và công tác sau này.
Còn khi giảng dạy mà không sử dụng bài tập bổ trợ và trò chơi thì học
sinh hiểu bài không sâu, tập luyện với tinh thần chống đối, kết quả của tiết dạy
chưa cao, không phát huy được tính tự giác, tích cực và sáng tạo của học sinh.
Bởi vì thể dục là môn học ở ngoài trời, do đó các em thường bị phân tán
tư tưởng bởi các hoạt động khác ở xung quanh, nên mức độ tập trung chú ý vào
17


bài học không cao. Do đó chúng ta cần phải có hình thức tổ chức dạy học phù
hợp để thu hút sự tập trung chú ý cao độ của học sinh.
Cụ thể như đã thực nghiệm ở 2 lớp khác nhau đó là lớp 11A2 và 11A4
trường THPT Tam Dương II năm học 2018 - 2019, có số lượng học sinh bằng
nhau (42 học sinh)….Nội dung “Nhảy cao nằm nghiêng” lớp 11A4 chưa áp
dụng hoặc áp dụng các bài tập và trò chơi khác các bài tập và trò chơi được lựa

chọn ở trên, lúc này kỹ thuật giậm nhảy, chân đá lăng thấp, kỹ thuật qua xà chưa
tốt nên kết quả đạt được chưa cao.
- Loại đạt: 32 HS bằng 76,19%
- Loại chưa đạt: 10 HS bằng 23,81%
Còn đối với lớp 11A2 có áp dụng bài tập và trò chơi đã lựa chọn ở trên
vào bài học, lực giậm nhảy tốt, góc độ giậm nhảy hợp lý, chân đá lăng cao, kỹ
thuật qua xà đúng tiếp đất an toàn…thì kết quả đạt được là:
- Loại đạt : 39 em bằng 92,85%
- Loại chưa đạt : 3 em bằng 7,15%
Từ kết quả trên ta thấy rằng thông qua các bài tập bổ trợ và trò chơi đã lôi
cuốn được học sinh tham gia tích cực, tự giác, quên mệt mỏi, thành tích của học
sinh ở nội dung Nhảy cao kiểu nằm nghiêng đã được nâng cao đáng kể.
Do đó, nếu giáo viên biết vận dụng các bài tập bổ trợ và trò chơi thích hợp
với từng môn thể dục trong quá trình giáo dục thể chất sẽ giúp học sinh hình
thành khái niệm động tác nhanh, đúng kĩ thuật, kích thích hứng thú học tập cho
học sinh và bài dạy đạt hiệu quả.
8.
Những thông tin cần bảo mật (nếu có):
………………………………………………………………………….
9.

Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến

KẾT LUẬN
Thực trạng hoạt động dạy và học môn thể dục tại trường THPT Tam
Dương II
Trong tình hình chung hiện nay, đa số giáo viên và học sinh chưa coi
trọng chất lượng của tiết học thể dục, giáo viên chỉ chú trọng đến một số em có
năng khiếu, không có sự quan tâm đồng bộ đến tất cả HS trong khối lớp mình
giảng dạy dẫn đến chất lượng giờ dạy thấp.

Do điều kiện cơ sở vật chất (sân bãi, đồ dùng học tập) còn nhiều hạn chế
không có đệm chuyên dụng cho học sinh tập mà học sinh phải thực hiện kĩ thuật
trên hố cát nên sự đánh giá chất lượng tiết dạy đòi hỏi chưa cao.
Ý thức tự giác của một bộ phận học sinh là chưa cao.

18


Một bộ phận giáo viên giảng dạy không áp dụng các phương pháp giảng
dạy linh hoạt, sáng tạo do ngại thay đổi cũng dẫn đến việc tiếp thức của học sinh
bị hạn chế.
Giáo viên lựa chọn bài tập bổ trợ không phù hợp, trò chơi không mang
tính thách đố sẽ làm cho học sinh không hào hứng.
Từ thực trạng trên đề tài đã đề xuất một số bài tập bổ trợ, và trò chơi
nhằm phát triển thể lực và nâng cao thành tích nội dung Nhảy cao nằm nghiêng
cho học sinh khối 11 Trường THPT Tam Dương II.
Phương pháp tổ chức trò chơi là giúp cho học sinh chống lại mệt mỏi
trong hoạt động TDTT . Trò chơi có ảnh hưởng đặc biệt đối với thành tích thi
đấu của nhiều môn thể thao và là yếu tố quyết định đối với khả năng chịu đựng
lượng vận động đối với học sinh. Phương pháp tổ chức trò chơi là tiền đề cần
thiết cho khả năng phục hồi nhanh chóng sau các lượng vận động lớn.

lứa tuổi học sinh THPT hệ thống cơ đang phát triển, sức mạnh của các
cơ tăng, khả năng hoạt động của các chức năng thực vật cao hơn và ức chế có
điều kiện cũng phát triển tương đối mạnh. Vì thế nội dung tập luyện của các em
phải gây được hứng thú, hào hứng, phấn khởi. Nhưng bài tập phải có tác dụng
hoàn thiện sự phối hợp động tác và phát triển các tố chất.
KIẾN NGHỊ
- Đối với Nhà trường:
Nhà trường có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc trang bị kiến thức,

hình thành nhân cách sống đồng thời cũng có tầm ảnh hưởng rất lớn đến tập
luyện TDTT, phát triển thể chất cho học sinh.
Nhà trường cần đa dạng hóa các hình tổ chức giáo dục trong và ngoài lớp
học, trong và ngoài nhà trường, cân đối giữa dạy học và hoạt động giáo dục,
giữa hoạt động tập thể, nhóm nhỏ và cá nhân, giữa dạy học bắt buộc và dạy học
tự chọn,...
Cần thay đổi nhận thức, hành vi, giữ vai trò chủ động trong việc tạo
niềm tin cho giáo viên về những thay đổi tích cực của bản thân họ.
Thường xuyên chỉ đạo, tạo điều kiện về thời gian, cơ sở vật chất để
triển khai công việc.
Thực sự coi thể dục thể thao trong trường học là bộ phận quan trọng
trong việc nâng cao sức khoẻ và thể lực, bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, ý chí,
giáo dục nhân cách cho học sinh, để thay đổi chất lượng học tập của học sinh và
văn hóa nhà trường.
Có cơ chế động viên khen thưởng kịp thời đối với các giáo viên tích cực
đổi mới, khuyến khích giáo viên vận dụng những điều đã học được vào thực tế.

19


Chính vì vậy để áp dụng sáng kiến đạt kết quả, Nhà trường cần tạo điều
kiện về thời gian, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy và học
môn thể dục nói chung và nội dung nhảy cao nằm nghiêng nói riêng tại trường.
- Đối với giáo viên
Đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, sử dụng hợp lí các
phương pháp giáo dục phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của
học sinh như giải quyết vấn đề, dạy học kiến tạo, dạy học khám phá, dạy học
theo dự án,…
Chú trọng bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng hợp tác, kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, nhằm hình thành và phát triển năng lực cho HS.

Tăng cường, nâng cao hiệu quả của các phương tiện dạy học, tạo điều
kiện cho HS tiếp cận các nguồn học liệu đa dạng, xây dựng các chủ đề học tập
theo sở thích và phát triển năng lực tự học tùy theo nhịp độ, khả năng, cách học
của cá nhân HS.
Tích cực suy nghĩ, tìm tòi sáng tạo để xây dựng ý tưởng, nội dung,
phương pháp mới để thiết kế bài học.
Học cách lắng nghe và phản hồi mang tính xây dựng, tích cực tham gia
thảo luận sau khi dự giờ về những khó khan, nguyên nhân và hướng giải quyết.
Tự rút kinh nghiệm cho bản thân mình sau dự giờ để điều chỉnh nội
dung cách dạy cho phù hợp với học sinh của mình. Thay đổi cách quan sát và
suy nghĩ về việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh.
Hình thành thói quen lắng nghe và chia sẻ ý kiến, xây dựng mối quan hệ
đồng nghiệp thân thiện, cộng tác và học tập lẫn nhau.
Cùng nhau phân tích các nguyên nhân, các mối quan hệ trong giờ học và
tìm biện pháp cải thiện, nâng cao chất lượng dạy – học.
Đi sâu nghiên cứu, phân tích các phương án dạy – học hiệu quả đáp ứng
được nhu cầu và khả năng học của học sinh; tìm hiểu các mối quan hệ của học
sinh với học sinh trong lớp, các kĩ năng cần thiết của giáo viên để nâng cao chất
lượng học tập của học sinh.
Tăng cường khả năng độc lập, sáng tạo, thử nghiệm những ý tưởng mới,
những hiểu biết về phương pháp dạy học tích cực để rút kinh nghiệm và áp dụng
trong các bài học hàng ngày.
Vậy để áp dụng sáng kiến đạt kết quả giáo viên giảng dạy môn thể dục
cần thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn, trau dồi kiến thức có trình độ lí luận
tốt, đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục và trong khi thị phạm kĩ
thuật cần đúng biên độ động tác, chính xác về kĩ thuật, đẹp mắt giúp học sinh
hình thành khái niệm động tác đúng, tự giác tích cực tập luyện để có thể phân
tích, làm mẫu và hướng dẫn học sinh thực hiện kĩ thuật.

20



Đồng thời, giáo viên phải luôn tư duy, sáng tạo thay đổi phương pháp dạy
học theo hướng tích cực hoá người học nhằm phát triển năng lực học sinh thông
qua các tiết học tạo hứng thú cho người học và hiệu quả bài dạy.
- Đối với học sinh
Cần có một thái độ học tập với tinh thần tập trung, tự giác tích cực cao.
Tư duy, sáng tạo, có khả năng quan sát tốt , khả năng phối hợp nhanh nhẹn, khéo
léo, phát triển sức nhanh, giáo dục tính tập thể, tác phong nhanh nhẹn khẩn
trương.
Cần nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của môn học, sau khi được
hướng dẫn trên lớp học sinh cần có một kế hoạch tập luyện ngoài giờ lên lớp
một cách khoa học nhằm nâng cao thể lực và bổ trợ cho các kĩ thuật đã học trên
lớp.
Tích cực tham gia các hoạt động như: Làm việc cá nhân, làm việc theo
cặp, làm việc nhóm và hoạt động cả lớp để chủ động tiếp thu kiến thức.
- Đối với nội dung chương trình
Có thể giảm tải nội dung trong phân phối chương trình từ ba nội dung
chính xuống còn hai hay chỉ một nội dung chính trong cùng một tiết học sẽ tạo
điều kiện được về thời gian cho giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học đạt
hiệu quả mà vẫn đảm bảo lượng vận động phù hợp cho học sinh, và giúp cho
học sinh hứng thú hơn và chịu đựng được lượng vận động lớn, khắc phục khó
khăn, chống lại mệt mỏi hồi phục nhanh chóng sau một giờ tập, buổi tập.
- Đối với gia đình:
Gia đình là tế bào của xã hội, đóng vai trò tiên phong trong việc định
hướng, khuyến khích học sinh, tham gia luyện TDTT nhằm rèn luyện sức khỏe,
phát triển nhân cách và tài năng thể thao. Gia đình kết hợp chặt chẽ cùng nhà
trường sẽ tạo hiệu ứng mạnh mẽ đối với việc xây dựng, ý thức và thói quen tập
luyện TDTT của học sinh. Vai trò của gia đình, thể hiện trước hết ở việc tạo điều
kiện tốt nhất cho con em mình về chế độ dinh dưỡng, học tập, rèn luyện và theo

dõi đôn đốc, hướng dẫn con em sắp xếp thời gian học tập và tập luyện TDTT và
nghỉ ngơi hợp lí. Chính vì vậy, gia đình cần chăm sóc, nâng cao sức khỏe, phát
triển thể chất cho các con, khuyến khích các con tham gia tập luyện TDTT, định
hướng cho các con tập như thế nào và tập môn nào cho hợp lí, thực hiện nếp
sống vệ sinh, lành mạnh, trong sạch.
10.
Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giảm và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân
đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có):
10.1 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Như ở trên đã đề cập tới thì kết quả thu được do áp dụng sáng kiến theo ý
kiến của cá nhân tôi là rất đáng quan tâm.

21


Cụ thể đối với lớp 11A2 áp dụng các bài tập và trò chơi vào tiết học đã tạo
hứng thú, tinh thần tự giác tích cực học tập cho học sinh đồng thời nâng cao chất
lượng dạy học (39/42 học sinh xếp loại đạt chiếm 92,85%), còn đối với lớp
11A4 không áp dụng các bài tập và trò chơi đã lựa chọn thì học sinh học tập với
tinh thần chống đối, chất lượng giờ dạy thấp hơn một chút (32/42 học sinh xếp
loại đạt chiếm 76,19%).
Kết quả đạt được sau một thời gian áp dụng sáng kiến:
- Tiết thể dục sôi nổi hơn, học sinh nhiệt tình tham gia tập luyện.
- Các vấn đề về giáo dục thể chất cơ bản được giải quyết.
Tiết học không nhàm chán, học sinh mong chờ đến tiết học sau để tiếp
tục được học.
Áp dụng sáng kiến này tôi thấy mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc sử
dụng các bài tập bổ trợ và phát triển trò chơi trong tiết dạy cho học sinh, giáo

dục cho các em tinh thần đoàn kết gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau cùng học tập.
Giúp cho học sinh hứng thú hơn và chịu đựng được lượng vận động lớn,
khắc phục khó khăn, chống lại mệt mỏi hồi phục nhanh chóng sau một giờ tập,
buổi tập.
Làm cho các em luôn tích cực hăng say và hiểu rõ được kỹ năng vận
động, phương pháp tập luyện của một giờ học, một buổi học. Nâng cao hiệu quả
phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ trong nhà trường phổ thông.
10.2 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp
dụng sáng kiến lần đầu (nếu có):
Số TT Tên tổ chức/cá nhân

1
2

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật giáo dục 2005. Bộ giáo dục và đào tạo – Nhà xuất bản Giáo dục
2006.
2. Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng, Giáo dục Việt Nam hướng tới
tương lai vẫn đề và giải pháp, Nhà Xuất Bản Chính trị Quốc Gia, Hà Nội,
2004.
3. Lí luận và phương pháp thể dục thể thao. Nhà xuất bản Thể dục thể
thao.
4. Sách Giáo viên – Thể dục 11. Nhà xuất bản Giáo dục.

5. Sách Giáo viên – Thể dục 10. Nhà xuất bản Giáo dục.
6. Tài liệu tập huấn sinh hoạt chuyên môn về phương pháp và kĩ thuật tổ
chức hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thong – môn Thể dục.
(tài liệu lưu hành trong khóa tập huấn). Năm 2017.


23


............., ngày.....tháng......năm......

............., ngày.....tháng......năm......

Thủ trưởng đơn vị/

Tác giả sáng kiến

Chính quyền địa phương

(Ký, ghi rõ họ tên)

(Ký tên, đóng dấu)
Kiều Thị Hải Yến

24


×