Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận văn học trong đề thi THPT quốc gia tại trung tâm GDTX tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.8 KB, 39 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

I. LỜI GIỚI THIỆU
Xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi con người phải không ngừng nỗ lực
học tập, rèn luyện bản thân để đáp ứng nhu cầu đó. Để đào tạo ra những con
người hiện đại, hoàn thiện về mọi mặt thì giáo dục đóng vai trò quan trọng nhất,
góp phần đào tạo ra những “con người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo, có
năng lực giải quyết các vấn đề thực tế”. Hay nói cách khác, thời đại ngày nay
đòi hỏi giáo dục luôn luôn thay đổi để phù hợp với thực tế phát triển của thế
giới.
Hiện nay, trong lí luận dạy học nói nhiều đến vấn đề đổi mới toàn diện và
đồng bộ giáo dục, đổi mới từ khâu thiết kế bài học đến kiểm tra, đánh giá. Ngày
01/4/2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đã gửi Công văn số
1656/BGDĐT-KTKĐCLGD về việc Hướng dẫn tổ chức thi Trung học phổ
thông (THPT) năm 2014, trong đó có nội dung "Đề thi môn Ngữ văn có 2 phần:
đọc hiểu và làm văn" (trong phần làm văn thì có một câu là nghị luận xã hội và một
câu là nghị luận văn học). Bộ GD&ĐT đề nghị các Sở Giáo dục và đào tạo các
tỉnh, các trường THPT trong cả nước lưu ý việc thực hiện việc đổi mới kiểm tra
đánh giá chất lượng học tập môn Ngữ văn trong kì thi THPT Quốc gia thực
hiện theo hướng đánh giá năng lực học sinh nhưng ở mức độ phù hợp. Cụ thể
là tập trung đánh giá hai kĩ năng quan trọng: kĩ năng đọc hiểu văn bản và kĩ
năng viết văn bản. Đề thi gồm hai phần: đọc hiểu và viết (làm văn), trong đó tỷ
lệ điểm của phần viết nhiều hơn phần đọc hiểu. Như vậy, có thể thấy, kỹ năng
viết văn bản là một phần quan trọng trong việc giảng dạy cũng như đánh giá
chất lượng học tập môn Ngữ văn. Vì vậy, rèn kỹ năng viết bài văn nghị luận văn
học là điều cần thiết phải trang bị cho học sinh.
Chương trình Ngữ văn ở trường phổ thông, làm văn nghị luận luôn là phần
khó bởi đặc trưng là yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức tổng hợp để tạo văn bản
1



nghị luận. Đặc biệt là dạng bài: Nghị luận văn học. Hơn nữa, đối tượng học sinh của
Trung tâm Giáo dục thường xuyên (GDTX) nói chung và Trung tâm GDTX tỉnh
Vĩnh Phúc nói riêng, chất lượng đầu vào thấp, kĩ năng tạo lập văn bản hạn chế, thậm
chí không có khả năng viết được một văn bản hoàn chỉnh, bố cục hợp lí, cấu trúc rõ
ràng. Tóm lại, phần đa học sinh không biết viết bài văn nghị luận nói chung và bài
văn nghị luận văn học nói riêng. Học sinh hiểu biết và cảm nhận tác phẩm văn học
đã là khó, nhưng để vận dụng kiến thức văn học vào viết một bài văn nghị luận văn
học lại càng khó hơn. Bởi kĩ năng cảm thụ và phân tích tác phẩm văn học của các em
rất hạn chế.
Thực tế cho thấy, các kỳ thi THPT Quốc gia đã đưa vào đề thi phần nghị
luận văn học, thường chiếm khoảng 50% điểm toàn bài. Như vậy, có thể thấy,
phần nghị luận văn học chiếm phần điểm rất quan trọng, bởi nó quyết định nhiều
đến kết quả học tập. Vì vậy, để giúp học sinh đạt được mức điểm tối đa cho phần
này không phải là điều dễ đối với học sinh trung bình. Có thể nói, phần nghị
luận văn học chính là phần giúp các em "gỡ điểm" cho bài thi của mình. Vì vậy,
việc rèn luyện và chuẩn bị kỹ càng cho phần này càng trở nên cấp thiết hơn nữa.
Từ những lý do trên, với mong muốn nhằm hệ thống hóa kiến thức cũng
như rèn luyện kỹ năng làm bài nghị luận văn học cho học sinh. Từ đó, giúp các
em tự tin khi làm phần nghị luận văn học và đạt kết quả tốt nhất trong kỳ thi
quốc gia THPT Quốc gia sắp tới, tôi đã lựa chọn đề tài: “Rèn luyện kĩ năng
làm bài nghị luận văn học trong đề thi THPT Quốc gia tại Trung tâm GDTX
tỉnh Vĩnh Phúc”.
II. TÊN SÁNG KIẾN
“Rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận văn học trong đề thi THPT
Quốc gia tại Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc”.
III. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
- Họ và tên: Nguyễn Thị Loan
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trung tâm GDTX Tỉnh Vĩnh Phúc
2



- Số điện thoại: 0979188136
- Email:
IV. CHỦ ĐẦU TƯ SÁNG KIẾN: Nguyễn Thị Loan
V. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN: Công tác giảng dạy và những
kinh nghiệm trong việc rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận văn học cho học
sinh Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc.
VI. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU: 10/09/2018
VII. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN
VII.1. Về nội dung của sáng kiến
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận
Trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển với tốc độ chóng mặt như hiện
nay thì giáo dục đóng vai trò vô cùng quan trọng. Mục tiêu giáo dục của tất cả
các quốc gia là đào tạo con người phát triển toàn diện. Tổ chức khoa học giáo
dục thế giới UNESCO cũng đã đề xướng mục đích học tập là: “Học để biết, học
để làm, học để chung sống và học để khẳng định mình”. Việc đưa mảng nghị
luận văn học vào chương trình Ngữ văn bậc trung học hoàn toàn phù hợp với xu
hướng giáo dục trên.
Nghị luận văn học là phương pháp nghị luận lấy vấn đề từ văn học như
tác phẩm, tác giả, thời đại văn học,.... làm nội dung bàn bạc, đưa ra một cách
hiểu thấu đáo về vấn đề nghị luận cũng như vận dụng nó vào đời sống và bản
thân. Những đề tài và nội dung này thường là những vấn đề có ý nghĩa thiết thực
trong cuộc sống, có tính giáo dục và tính thời sự cao. Đối với học sinh THPT,
các bài văn nghị luận xã hội thường mang đến cho các em những suy nghĩ và
nhận thức đúng đắn về cuộc sống; có ý nghĩa hướng đạo, đặc biệt là uốn nắn
3



nhận thức cho các em về những vấn đề có tính hai mặt của đời sống xã hội đang
tác động trực tiếp đến thế hệ trẻ.
Tháng 10/2013, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI đã thông qua Nghị quyết 29 – NQ/TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Xác
định được nhiệm vụ quan trọng đó nên những năm qua Bộ giáo dục đã không
ngừng đưa ra những giải pháp mang tính cải tiến như: chuẩn bị đổi mới chương
trình giáo khoa, đổi mới kiểm tra đánh giá, đổi mới phương pháp dạy học…
Những thay đổi đó nhằm phát triển năng lực người học, góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục, đáp ứng nhu cầu hội nhập Quốc tế.
Cụ thể là tập trung đánh giá hai kỹ năng quan trọng: kĩ năng đọc hiểu văn
bản và kĩ năng viết văn bản. Đề thi gồm hai phần: Đọc hiểu và tự luận (làm
văn), trong đó tỷ lệ điểm của phần viết nhiều hơn phần đọc hiểu.
Với đề thi môn Ngữ văn đã được Bộ GD & ĐT tổ chức vào các kì thi
trong những năm vừa qua cũng như đề thi minh họa được công bố vào ngày
06/12/2018 thì phần nghị luận văn học chiếm 5/10 điểm. Như vậy có thể thấy,
phần nghị luận văn học trong đề thi đóng vai trò rất quan trọng, quyết định nhiều
tới bài làm của học sinh. Với tầm quan trọng như vậy, bên cạnh việc ôn tập, rèn
kỹ năng làm phần đọc hiểu, viết bài nghị luận xã hội thì việc ôn tập và rèn kỹ
năng làm phần nghị luận văn học là điều cần thiết phải trang bị cho học sinh
nhằm giúp học sinh đạt kết quả cao trong kì thi THPT Quốc gia sắp tới.
2. Cơ sở thưc tiễn
Về chương trình: Trong những năm gần đây, đề thi THPT Quốc gia môn
Ngữ văn thường có 2 phần: phần Đọc hiểu và phần Làm văn. Ở phần Làm văn
thường có 2 câu: câu 1 là câu nghị luận xã hội, câu 2 là câu nghị luận văn học.
Câu nghị luận văn học, chiếm tỉ lệ 50% trong tổng số điểm đề ra. Nếu như năm
học 2017- 2018 đề thi THPT Quốc gia bao gồm cả chương trình Ngữ văn 11 thì
4



năm học này Bộ GD $ ĐT đã chủ trương kiến thức chủ yếu nằm ở chương trình
Ngữ văn 12. Những vấn đề nghị luận văn học được đưa ra cho học sinh bàn bạc
đều rất phong phú, đa dạng; đề cập đến tất cả các phương diện của văn học. Với
các dạng đề như nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ; Nghị luận về một tác phẩm,
một đoạn trích văn xuôi; Nghị luận về tình huống truyện; Nghị luận về so sánh,
đối chiếu hai nhân vật, hai chi tiết,...
Thế nhưng thời lượng chương trình dành cho việc giảng dạy và rèn luyện
kĩ năng làm bài nghị luận văn học trong phân phối chương trình THPT theo qui
định của Bộ Giáo dục là quá ít ỏi. Chỉ tính riêng lớp 12 chỉ có 3 tiết lí thuyết về
cách làm bài nghị luận văn học: một tiết nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ; một
tiết nghị luận về một ý kiến bàn về văn học; một tiết nghị luận về một tác phẩm,
một đoạn trích văn xuôi. Thực tế đó khiến học sinh không có điều kiện để rèn
luyện nghị luận xã hội một cách thường xuyên dẫn tới kết quả đạt được không
cao.
Về học sinh: Là một người trực tiếp giảng dạy ở một Trung tâm GDTX,
các em học sinh có nhiều lứa tuổi và trình độ khác nhau nên khả năng nắm bắt
kiến thức, đặc biệt là kiến thức về nghị luận văn học, cũng như kỹ năng xử ly đề
chậm, kĩ năng phân tích đề, lập dàn ý, viết đoạn văn của học sinh rất yếu, các em
không có thói quen phân tích đề, lập dàn ý trước khi viết bài, nên khi bắt tay tay
vào viết rất lúng túng, viết không đúng yêu cầu của đề bài và lạc đề. Thông
thường học sinh, đặc biệt là học sinh lớp 12 Trung tâm GDTX khi viết bài văn
nghị luận văn học thường mắc các lỗi cơ bản sau:
2.1. Học sinh không xác định được dạng bài, không xác định được
luận điểm, luận cứ của bài văn nghị luận văn học
Học sinh viết theo cảm tính, nghĩ gì viết đấy không cần biết có đúng yêu
cầu hay không. Có những bài văn, khi chấm giáo viên đọc mà không hiểu được
học sinh của mình viết gì, muốn nói điều gì.
Ví dụ:

5


Đề bài:
Anh( chị) hãy phân tích đoạn thơ sau:
"Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng"
(Trích “Việt Bắc” - Tố Hữu)
Ở phần thân bài học sinh không xác định được trọng tâm luận đề, không
xác định được luận điểm, luận cứ nên viết: "Bài thơ Việt Bắc được Tố Hữu viết
trong những năm kháng chiến chống Pháp, những chiến thắng ở Điện Biên Phủ
là chiến thắng ác liệt nhất làm cho quân giặc tan tành mây khói. Quân ta đi từ
chiến thắng này sang chiến thắng khác. Đội quân ngày càng hùng mạnh. Đọc
đoạn thơ chúng ta tự hào về lòng dũng cảm của cha anh chúng ta. Bài thơ Việt
Bắc đã ca ngợi chiến thắng của quân đội ta, nhân dân ta.diễn tả niềm vui của
nhân dân ta...."
(Bài viết của học sinh Nguyễn Thị Tâm - lớp 12A năm học 2018 - 2019)
2.2. Học sinh chưa biết phân tích làm sáng tỏ vấn đề cần nghị luận
6



Qua một số dạng đề nghị luận thì học sinh thường mắc các lỗi sau:
* Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ: Học sinh chủ yếu diễn xuôi đoạn
thơ.
Ví dụ:
Đề bài:
Anh (chị) hãy phân tích đoạn thơ sau:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm,
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
( Trích “Tây Tiến” - Quang Dũng)
Học sinh viết: "Đoàn quân Tây Tiến của Quang Dũng có hình dáng kì lạ,
bị sốt rét rụng hết tóc, da xanh như tàu lá chuối nhưng vẫn sáng ngời một vẻ
đẹp như dáng dữ dằn của những con hổ trong rừng sâu khiến kẻ thù phải khiếp
sợ. Mặc dù gian khổ nhưng họ vẫn lạc quan yêu đời vẫn mơ màng gửi giấc mơ
về Hà Nội, mơ về những cô gái đẹp ở Hà Nội. Mặc dù cái chết luôn đe dọa,rình
rập, những nấm mồ vô danh nơi biên giới xa xôi cũng không làm những người
lính Tây Tiến chùn bước. Họ vẫn đi không tiếc tuổi xuân,vẫn coi cái chết nhẹ
như lông hồng......"
(Bài viết của học sinh Nguyễn Văn Quý lớp 12A- Năm học 2018 - 2019)

7


* Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi: học sinh thường

sa vào kể lể tác phẩm.
Ví dụ: Anh (chị) hãy phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A
Phủ” của Tô Hoài?
Học sinh viết: " Vợ chồng A Phủ kể về số phận bất hạnh của cô Mị. Mị là
một cô gái Hmông trẻ trung xinh đẹp, Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ nhà
thống lí Pá Tra.Ở nhà thống lí Pá Tra đêm nào Mị cũng khóc rồi Mị cầm nắm lá
ngón về khóc lóc với cha định chết. Cha Mị nói "Mày về chào tao mà đi chết à?.
Không được đâu. Mày chết rồi ai trả nợ cho tao...." Thế là Mị không dám chết
nữa, Mị lại quay trở về nhà Thống lí. Mấy năm sau bố Mị chết Mị cũng không
buồn chết nữa, sống lâu trong cái khổ Mị cũng quen rồi. Mị lùi lũi như con rùa
nuôi trong xó cửa, đêm tình mùa xuân Mị cũng uống rượu, định đi chơi, nhưng
bị A Sử trói vào cột...."
(Bài viết của học sinh Nguyễn Văn Hùng lớp 12- Năm học 2018 - 2019)
* Dạng đề so sánh hai nhân vật, hai chi tiết,... trong tác phầm: học sinh
thường đi vào phân tích từng nhân vật, từng chi tiết trong tác phẩm mà không
biết cách so sánh làm nổi bật vấn đề.
Ví dụ: Cảm nhận của anh/chị về những vẻ đẹp của nhân vật người vợ
nhặt (“Vợ nhặt”- Kim Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài (“Chiếc thuyền
ngoài xa”- Nguyễn Minh Châu)?
Học sinh sẽ đi phân tích nhân vật người vợ nhặt, sau đó phân tích người
đàn bà hàng chài mà không biết cách so sánh đối chiếu hai nhân vật với nhau để
làm rõ nét đẹp của từng nhân vật. Từ đó làm sáng lên vẻ đẹp của người phụ nữ
Việt Nam nói chung.
Ngoài ra còn rất nhiều lỗi như: Lỗi diễn đạt, lỗi chính tả, không biết lựa
chon dẫn chứng phù hợp với nội dung luận điểm.... Song yêu cầu khuôn khổ,
dung luợng bài viết không cho phép nên tôi chỉ đề cập đến một số kinh nghiệm
rèn kĩ năng viết bài văn nghị luận văn học.
8



Từ cơ sở lí luận và thực trạng viết bài văn nghị luận văn học của học sinh, với
mong muốn trang bị cho các em những kiến thức cũng như kỹ năng về phần này
một cách hệ thống, bài bản giúp các em đạt kết quả tốt, tôi mạnh dạn đưa ra sáng
kiến “Rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận văn học trong đề thi THPT Quốc
gia tại Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc”.
CHƯƠNG II:
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
1. Quan niệm về nghị luận văn học trong dạy học môn Ngữ văn
Nghị luận văn học lấy tác phẩm văn học, nhà văn, đời sống văn học làm
đối tượng. Bên cạnh việc cung cấp các kiến thức công cụ nhằm bồi dưỡng năng
lực chung về cảm nhận và tạo lập văn bản, nghị luận văn học còn giúp học sinh
biết cách bộc lộ, bày tỏ được những cảm nhận của mình về các phương diện
khác nhau của tác phẩm văn học. Mỗi tác phẩm văn học thường có rất nhiều đề
khác nhau, có thể quy về một số dạng đề như: Nghị luận về bài thơ, đoạn thơ;
Phân tích cảm nhận về đoạn trích văn xuôi; Nghị luận về tình huống truyện;
Phân tích, cảm nhận nhân vật trong tác phẩm; Đề so sánh, đối chiếu hai nhân
vật, hai chi tiết, hai tư tưởng, hai đoạn thơ, hai hay nhiều bài thơ…; Đề bình
luận một ý kiến bàn về văn học; Đề nghị luận hai ý kiến bàn về văn học; Dạng
đề tích hợp nghị luận xã hội: Phân tích, cảm nhận về tác phẩm, sau đó liên hệ
thực tế. Đây là kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn
học.
Từ kỳ thi THPT Quốc gia 2017, Bộ đã có những đổi mới về cấu trúc và
nội dung của đề thi môn Ngữ văn, đặc biệt ở phần Nghị luận văn học (câu 2
phần làm văn). Đề thi đã bao gồm cả kiến thức trong chương trình Ngữ văn 11.
Nhưng đến kì thi THPT Quốc gia năm 2018 theo cấu trúc đề minh họa môn Ngữ
văn thì kiến thức chủ yếu tập trung trong chương trình lớp 12.
Vì vậy, để giúp các em chuẩn bị kiến thức, kĩ năng và tâm thế thật tốt cho
kỳ thi sắp tới, tôi hướng dẫn các em làm bài nghị luận văn học.
9



2. Các dạng đề nghị luận văn học thường gặp trong dạy học môn

Ngữ văn
Trước khi đi vào hướng dẫn học sinh rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận
văn học đối với từng dạng đề cụ thể thì yếu tố đầu tiên mà cần quan tâm đó là
đối tượng học sinh. Học sinh ở các trung tâm GDTX nói chung và học sinh
Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng phần đa là con em nông dân, ở nhiều
lứa tuổi và trình độ khác nhau, đời sống còn khó khăn, năng lực học tập còn
nhiều hạn chế, đặc biệt là năng lực cảm thụ văn học kém. Tâm lí chung của các
em là lười suy nghĩ, ít hiểu biết các tác phẩm văn học, không thích đọc các tác
phẩm văn học. Mà muốn học sinh làm tốt các bài nghị luận văn học đòi hỏi học
sinh phải có kiến thức văn học. Nên bước đầu tiên tôi hướng dẫn các em phải
biết tích lũy kiến thức.
2.1. Hướng dẫn học sinh tích lũy kiến thức:
- Kiến thức phải đảm bảo lấy trong tác phẩm văn học, kiến thức phải
chính xác, chọn lọc.
Nghị luận văn học là kiểu bài văn hướng tới các vấn đề đặt ra trong các
tác phẩm văn học: nội dung, nghệ thuật, hoặc các khía cạnh khác như tình
huống, diễn biến tâm lí của nhân vật.... Cho nên người viết phải hiểu biết kĩ về
tác phẩm văn học: từ tác giả, hoàn cảnh sáng tác, đặc trưng thể loại đến nội
dung, nghệ thuật của tác phẩm.
2.2.

Nguồn hình thành kiến thức:

- Đối với các tác phẩm văn học được học trong chương trình:
Giáo viên hướng dẫn các em cách đọc - hiểu văn bản. Hình thành kĩ năng
đọc cho học sinh, tạo cho các em có thói quen đọc sách, hướng dẫn các em đọc
theo quy trình: Đọc chậm để hiểu thông suốt toàn văn bản → Đọc hiểu hình

tượng nghệ thuật → đọc hiểu tư tưởng tình cảm của tác giả → đọc hiểu để
thưởng thức văn học.
10


- Bên cạnh việc tìm đọc các tác phẩm văn học để tích lũy kiến thức, tôi
khuyến khích học sinh khi đọc phải có thói quen ghi chép.
Ví dụ: Sau khi đọc xong một tác phẩm văn học, học sinh có thể ghi chép:
+ Tóm tắt tác phẩm.
+ Những chi tiết, hình ảnh chọn lọc.
+ Những câu văn, thơ hay; những hình ảnh đẹp
+ Có những nhận xét,đánh giá ban đầu về tác phẩm văn học đó.
2.3. Các bước rèn kỹ năng làm bài nghị luận văn học:
* Bước 1: Rèn kỹ năng tìm hiểu đề
Đây là thao tác được thực hiện đầu tiên khi làm bài văn nghị luận. Để thực
hiện tốt được thao tác này học sinh cần đọc kỹ đề, tìm và gạch chân các cụm từ quan
trọng (cụm từ chứa thông tin căn bản của vấn đề: vấn đề cần nghị luận, thao tác nghị
luận,...). Học sinh phải xác định đầy đủ, chính xác các yêu cầu sau :
- Yêu cầu về hình thức: Thuộc kiểu bài nào? Nghị luận về một bài thơ,
đoạn thơ; hay nghị luận về một ý kiến bàn về văn học ?.....
- Yêu cầu về nội dung: Vấn đề cần nghị luận là gì?
- Yêu cầu về phạm vi dẫn chứng: Có thể lấy dẫn chứng từ những tác phẩm
văn học nào?
Ví dụ: Anh (chị) hãy phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A
Phủ” của Tô Hoài?
Với đề bài này hướng dẫn học sinh thực hiện các bước xác định đề như
sau:
- Kiểu bài nghị luận : Nghị luận về một vấn đề trong tác phẩm văn xuôi
(Phân tích nhân vật).
- Xác định trọng tâm bài viết: Hình tượng nhân vật Mị .

11


- Phạm vi dẫn chứng: Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” (phần 1 Mị và A Phủ
khi ở Hồng Ngài).
- Xác định các thao tác chính cho bài viết: Phân tích kết hợp lập luận,
chứng minh bình luận…
* Bước 2: Rèn kĩ năng lập dàn ý
Lập dàn ý là một khâu quan trọng. Dàn ý giúp người viết không bỏ sót
những ý cơ bản, trọng tâm, đồng thời loại bỏ được những ý không cần thiết. Lập
dàn ý tốt, có thể sẽ viết dễ dàng hơn, nhanh hơn và hay hơn.
Trước khi hướng dẫn học sinh lập dàn ý từng kiểu bài, đưa ra mô hình
tổng quát của một bài văn nghị luận cho học sinh tham khảo:
Mô hình tổng quát một bài văn nghị luận
Mở bài: Dẫn dắt từ vấn đề rộng hơn thu

Mở bài

hẹp dần đến việc giới thiệu luận đề.

Luận điểm 1

Thân bài:
Bao gồm nhiều đoạn văn, mỗi đoạn

Luận điểm 2

văn là một luận điểm. Các luận điểm

Luận điểm 3


đều tập trung làm nổi bật luận đề ở

Thân bài

Kết bài

phần mở bài.
Kết bài:
Tổng hợp lại từ các luận điểm đã
trình bày, đánh giá và gợi mở.

Từ mô hình tổng quát đó, hướng dẫn các em lập dàn ý một số dạng đề
thường gặp trong các đề thi THPT Quốc gia những năm gần đây như: Dạng đề
nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ; Dạng đề nghị luận về một tác phẩm, một
đoạn trích văn xuôi; Dạng đề phân tích, cảm nhận nhân vật trong tác phẩm;
Dạng đề so sánh, đối chiếu hai nhân vật, hai chi tiết, hai tư tưởng, hai đoạn thơ,
hai hay nhiều bài thơ....
12


Để lập được dàn ý yêu cầu học sinh:
- Nắm vững cách làm bài của từng dạng đề.
- Xác định được các luận điểm, luận cứ. Sắp xếp các luận điểm, luận cứ
theo một trật tự lôgic, chặt chẽ.
2.3.1. Dạng đề nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ
2.3.1.1. Các dạng đề nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ:
Đối với dạng đề này thường có các kiểu đề ra như:
- Phân tích toàn bộ bài thơ.
- Phân tích một đoạn thơ.

- Phân tích một khía cạnh trong đoạn thơ, bài thơ.
- Phân tích một hình ảnh, một chi tiết trong bài thơ.
- So sánh giữa hai bài thơ, hai đoạn thơ.
- Nghị luận ý kiến bàn về bài thơ, đoạn thơ.
2.3.1.2. Cách làm dạng đề nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ:
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề, học sinh cần lập dàn ý cho đề.
Bước lập dàn ý rất quan trọng đối với việc làm bài. Đây là một dàn ý chi tiết cho
dạng đề này:
a. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả.
- Giới thiệu bài thơ, đoạn thơ (Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ).
- Trích dẫn đoạn thơ.
b. Thân bài:
* Luận điểm 1: Cảm nhận chung về bài thơ, đoạn thơ.
+ Cấu tứ.
13


+ Thể thơ.
+ Giọng điệu.
* Luận điểm 2: Phân tích những nét chính về nội dung, nghệ thuật trong
đoạn thơ, bài thơ.
- Nghệ thuật:
+ Thể thơ.
+ Nhịp thơ, vần => Giọng điệu.
+ Các biện pháp tu từ - hiệu quả thẩm mĩ của các phép tu từ đó.
+ Hình ảnh thơ.
- Nội dung:
+ Triển khai các luận điểm theo yêu cầu của đề bài.
+ Có thể phân tích theo bố cục của văn bản (từng khổ thơ).

* Luận điểm 3: Đánh giá chung về đoạn thơ. Về nội dung, nghệ thuật, so
sánh với các tác phẩm cùng đề tài, cùng tác giả.
c. Kết bài:
- Khái quát chung về bài thơ, đoạn thơ.
- Đóng góp của tác giả cho văn học dân tộc.
2.3.1.3. Hướng dẫn thực nghiệm:
Ví dụ:
Cảm nhận của em về đoạn thơ sau:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
14


Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
(Trích “Mặt đường khát vọng” – Nguyễn Khoa Điềm)
a. Hướng dẫn tìm hiểu đề:
- Yêu cầu về hình thức: Nghị luận về một đoạn thơ.
- Yêu cầu về nội dung: Hình tượng đất nước trong cảm nhận của nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm.
- Yêu cầu về phạm vi dẫn chứng: Có thể lấy dẫn chứng từ đoạn trích “Đất
nước” (Trích “Trường ca khát vọng”- Nguyễn Khoa Điềm) và những tác phẩm
viết về đất nước.
b. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý:
* Mở bài:

- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Khoa Điềm và chương Đất nước
(trích Trường ca “Mặt đường khát vọng”).
- Khái quát nội dung, nghệ thuật và vị trí của đoạn trích ở đề bài.
* Thân bài:
- Luận điểm 1 :Hình tượng đất nước được thể hiện qua đoạn thơ.
+ Nguồn gốc và sự hình thành của đất nước: Đất nước có từ rất xa xưa và
là một giá trị bền vững, vĩnh hằng, được tạo dựng, bồi đắp qua nhiều thế hệ và
truyền nối từ đời này sang đời khác (Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi, Đất
Nước có …..ngày xửa, ngày xưa….).
- Luận điểm 2 : Sự cảm nhận của nhà thơ về Đất Nước
15


+ Đất nước được cảm nhận rất cụ thể, bình dị, gần gũi, thân thiết với cuộc
sống hằng ngày của mỗi người (câu chuyện cổ tích mẹ kể, miếng trầu bà ăn,
ngôi nhà mình ở, tình nghĩa vợ chồng hạt lúa ta trồng…).
+ Đất nước lớn lên trong đau thương vất vả: Những cuộc kháng chiến
chống giặc ngoại xâm (dân mình biết trồng tre mà đánh giặc). Gian nan vất vả
trong lao động để tồn tại và phát triển (một nắng hai sương).
+ Đất nước gắn với những con người sống ân tình, thủy chung trong tình
nghĩa vợ chồng (thương nhau bằng gừng cay muối mặn).
- Luận điểm 3: Nhận xét, đánh giá chung về nghệ thuật biểu hiện
+ Đất nước: hiện lên vừa thiêng liêng vừa thân thương gần gũi. Cách cảm
nhận độc đáo, mới mẻ dưới chiều sâu văn hóa và giàu giá trị nhân văn.
+ Ngôn ngữ bình dị, dân dã nhưng giàu sức gợi.
+ Giọng thơ tâm tình thiết tha, suy tư trầm lắng.
+ Sức truyền cảm lớn từ sự hòa quyện của chất chính luận và chất trữ
tình.
* Kết luận:
- Sử dụng phong phú các chất liệu văn hóa dân gian.

=>Cái riêng biệt, độc đáo của đoạn thơ này là sự cảm nhận, phát hiện về
Đất nước trong một cái nhìn tổng hợp, toàn vẹn, mang đậm tư tưởng nhân dân,
sử dụng phong phú các yếu tố của văn hóa, văn học dân gian một cách sáng tạo.
2.3.2. Dạng đề nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi
2.3.2.1. Các dạng đề nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn
xuôi:
Dạng đề này có nhiều kiểu bài khác nhau, chủ yếu là phân tích khía cạnh
của tác phẩm và đoạn trích văn xuôi như:
- Phân tích nhân vật.
16


- Phân tích giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực của tác phẩm.
- Phân tích tình huống truyện.
- Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm hay đoạn trích,...
2.3.2.2. Cách làm dạng đề nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn
xuôi:
Để làm tốt đề thuộc dạng này, trước tiên cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu
đề, sau đó lập dàn ý chi tiết cho từng kiểu bài. Lập dàn ý cho từng kiểu bài phải
đảm bảo các yêu cầu sau:
a. Kiểu bài nghị luận về một giá trị nội dung hoặc giá trị nghệ thuật
của tác phẩm của tác phẩm văn xuôi:
*Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm cần phân tích.
- Nêu khái quát nội dung vấn đề đề bài cần nghị luận.
* Thân bài:
- Bước 1: Nêu khái niệm vấn đề cần nghị luận.
- Bước 2: Lần lượt phân tích, chứng minh, bình luận những biểu hiện cụ
thể về giá trị nội dung hay giá trị nghệ thuật của tác phẩm mà đề yêu cầu nghị
luận.

(Mỗi luận điểm được trình bày bằng một đoạn văn bằng cách diễn dịch
hoặc quy nạp và được liên kết bằng các câu từ chuyển ý).
* Kết bài:
- Tóm lược và khẳng định nội dung đã phân tích.
- Đánh giá chung những thành công và hạn chế về nội dung và nghệ
thuật tác phẩm.
b. Kiểu bài nghị luận về đoạn trích văn xuôi:
17


* Mở bài :
- Giới thiệu tác giả -> tác phẩm -> vị trí đoạn trích cần phân tích.
- Nêu khái quát nội dung, nghệ thuật của đoạn trích mà đề yêu cầu phân
tích.
*Thân bài:
- Bước 1: Tóm tắt nội dung đoạn trích.
- Bước 2: Lần lượt triển khai phân tích các biểu hiện cụ thể về nội dung và
nghệ thuật của đoạn trích.
(Mỗi luận điểm được trình bày bằng một đoạn văn bằng cách diễn dịch
hoặc quy nạp và được liên kết bằng các câu từ chuyển ý).
* Kết bài:
- Khẳng định và đánh giá những thành công và hạn chế về nội dung,
nghệ thuật của đoạn trích.
- Vai trò của đoạn trích trong việc thể hiện ý nghĩa tác phẩm.
2.3.2.3. Hướng dẫn thực nghiệm:
a. Ví dụ 1:
Đề bài:
Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, khi Mị bị A Sử trói vào cột, Tô
Hoài viết: “Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói.
Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi,

những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt
pao nào…”. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không
nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn
đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.
(“Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài)

18


Từ đoạn văn trên, anh/ chị hãy làm rõ hình ảnh nhân vật Mị và nghệ thuật
miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn.
a. Hướng dẫn tìm hiểu đề:
- Yêu cầu về hình thức: Nghị luận về một đoạn văn.
- Yêu cầu về nội dung: Hình tượng nhân vật Mị và nghệ thuật miêu tả tâm
lí nhân vật của nhà văn Tô Hoài.
- Yêu cầu về phạm vi dẫn chứng: Có thể lấy dẫn chứng từ tác phẩm “Vợ
chồng A Phủ” và các tác phẩm khác của nhà văn.
b. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý:
Đề bài đặt ra hai yêu cầu : hình ảnh nhân vật Mị và nghệ thuật miêu tả
tâm lí nhân vật của nhà văn. Học sinh có thể triển khai theo các ý sau đây:
* Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: có thể chọn lọc các ý sau đây để đưa vào
mở bài: Năm 1952 Tô Hoài đi cùng với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc . Trong
chuyến đi này nhà văn đã có dịp sống găn bó với đồng bào các dân tộc thiểu số
(Thái , Mường, Mông , Dao ..) nên đã để lại nhiều kỉ niệm, hiểu biết về cuộc
sống con người miền núi đã thôi thúc Tô Hoài viết “Truyện Tây Bắc” trong đó
có “Vợ chồng A Phủ”. “Vợ chồng A Phủ” (1952) in trong tập truyện “Tây
Bắc”. Truyện được giải nhất Truyện và kí Việt Nam năm 1954- 1955. Tác
phẩm gồm hai phần , đoạn trích trong sách giáo khoa là phần một.
- Giới thiệu đoạn trích cần nghị luận(Không cần chép hết đoạn trích vào

bài thi).
- Vấn đề nghị luận : hình ảnh nhân vật Mị và nghệ thuật miêu tả tâm lí
nhân vật của nhà văn.
* Thân bài:
- Hình ảnh nhân vật Mị:
19


+ Mị có khát vọng sống mãnh liệt (Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như
không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo
đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “ Em không yêu, quả pao rơi
rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”).
Mị vốn là một cô gái yêu đời, có khát vọng sống mãnh liệt. Dù bị trà đạp
nghiệt ngã nhưng khát vọng ấy đã trỗi dậy trong đêm tình mùa xuân.
Nếu ban đầu, tiếng sáo còn là yếu tố ngoại cảnh, giờ đây tiếng sáo đã
nhập hẳn vào tâm hồn Mị. Mị đang sống trọn với nó. Tiếng sáo là tiếng gọi của
tình yêu, tình đời; tiếng sáo vẫn tha thiết, giục giã; tiếng sáo đã đánh thức khát
vọng sống nơi Mị.
+ Số phận của Mị (Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa
được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào
vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không
bằng con ngựa).
Mị bừng tỉnh, dây trói của A Sử làm Mị nhận ra hiện thực nghiệt ngã.
Khát vọng sống của Mị đã bị chặn đứng.
Mị nghĩ mình không bằng con ngựa và thực tế cuộc đời Mị không bằng
con ngựa (Mị là con dâu gạt nợ, là thân phận nô lệ, bị giam hãm…).
-> Tấm lòng của nhà văn.
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn:
+ Nhà văn như đã nhập thân vào nhân vật Mị và miêu tả diễn biến tâm lí
theo một trình tự hợp lí:

Để đánh thức sức sống đang tiềm tàng trong Mị, nhà văn trả lại cho Mị kí
ức đẹp.
Đang sống trong quá khứ mà quên cả hiện tại đang bị trói nên Mị vùng
bước đi.
20


Khi nỗi đau thể xác ập đến, thế giới mông tưởng bị dập tắt, Mị không
nghe tiếng sáo nữa mà nghe tiếng chân ngựa.
– Sử dụng yếu tố ngoại cảnh có hiệu quả: hơi rượu, tiếng sáo, bài hát quen
thuộc.
-> Tài năng của nhà văn.
* Kết bài: đánh giá chung.
b. Ví dụ 2:
Đề bài: Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút “Người lái đò
sông Đà” của Nguyễn Tuân.
a. Hướng dẫn tìm hiểu đề:
- Yêu cầu về hình thức: Nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm văn
xuôi.
- Yêu cầu về nội dung: Phân tích hình tượng người lái đò Sông Đà.
- Yêu cầu về phạm vi dẫn chứng: Có thể lấy dẫn chứng từ tùy bút “Người
lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân.
b. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý:
* Mở bài:
- Nguyễn Tuân là một tác giả tài hoa, uyên bác, luôn kiếm tìm cái đẹp.
Trước cách mạng ông tìm kiếm vẻ đẹp trong quá khứ, khi cách mạng thành
công ông tìm kiếm vẻ đẹp ngay trong cuộc sống hiện tại. “Người lái đò sông
Đà” là tùy bút tiêu biểu cho những sáng tác sau cách mạng của ông.
- Ông lái đò chính là chất vàng mười đã được thử lửa mà Nguyễn Tuân
tìm kiếm, người anh hùng trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liên hệ hình

ảnh người anh hùng trong thơ ca Nguyễn Tuân trước cách mạng (Huấn Cao
– “Chữ người tử tù”)
* Thân bài:
21


- Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với thiên nhiên hung
bạo.
- Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình để
ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến: “tay lêu nghêu như cái
sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, ... chất mun”, đó là ngoại hình
khỏe khoắn của con người lao động luôn gắn bó với nghề.
- Là người có lòng dũng cảm, tình yêu nghề: “giữ mái chèo, nén vết
thương, hai chân kẹp chặt lấy cuống lái”. (Có thể liên hệ đến hình ảnh Huấn
Cao – người anh hùng trong quan niệm của Nguyễn Tuân trước cách mạng để
dẫn dắt sang hình tượng ông lái đò).
- Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông
Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ ... những luồng nước”,
“sông Đà đối với ông lái đò ấy như một thiên anh hùng mà ông đã thuộc ...
xuống dòng”, ...
- Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba:
+ Ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ
huy bạn chèo ...” để phá trùng vi thạch trận thứ nhất.
+ Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai
và đổi chiến thuật, ông ”“nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã
thuộc quy luận phục kích của lũ đá nơi ải nước”, động tác điêu luyện “cưỡi
đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác ...”
+ Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác,
không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy
quái” là chuyện thường: sau khi vượt thác nhà đò đốt lửa nướng cơm lam và

toàn bàn về chuyện cá anh vũ, cá dầm xanh, ...

22


- Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: là nhà văn tài hoa
uyên bác, suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa,
thẩm mĩ, luôn miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.
* Kết bài:
- Nêu cảm nhận về hình tượng nhân vật ông lái đò: là đại diện cho con
người lao động Tây Bắc trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, là con
người vừa có phẩm chất anh hùng vừa tài hoa nghệ sĩ, chứa đựng chất vàng
mười đã qua thử lửa.
- “Người lái đò sông Đà” là tùy bút xuất sắc miêu tả chân thực vẻ đẹp
vừa hung bạo vừa trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc, giữa nền thiên nhiên nổi bật
lên là vẻ đẹp của những người lao động bình dị.
2.3.3. Dạng đề nghị luận so sánh văn học
2.3.3.1. Các dạng đề so sánh văn học:
Thực tế cho thấy dạng đề so sánh văn học có rất nhiều loại nhỏ. Bằng sự
trải nghiệm của bản thân và dựa vào tổng kết các đề thi của những năm gần đây,
có thể khái quát lại thành những cấp bậc đề so sánh văn học cơ bản và đưa ra
một vài ví dụ mang tính chất minh họa cho mỗi loại nhỏ. Đây là xu thế mới
trong ra đề thi THPT Quốc gia những năm gần đây.
-

So sánh hai chi tiết trong hai tác phẩm văn học:

Ví dụ: Cảm nhận của anh/chị về chi tiết “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ
quá!” mà nhân vật Chí Phèo cảm nhận được sau đêm gặp thị Nở (“Chí Phèo”Nam Cao, Ngữ văn 11) và chi tiết “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi”
mà nhân vật Mị nghe được trong đêm tình mùa xuân (“Vợ chồng A Phủ” - Tô

Hoài, Ngữ văn 12).
-

So sánh hai đoạn thơ:

Ví dụ:
Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau:
23


“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”.
(“Vội vàng”– Xuân Diệu, Ngữ văn 11, Tập 2, NXB Giáo dục 2011)
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”.
(“Từ ấy”– Tố Hữu, Ngữ văn 11, Tập2, NXB Giáo dục 2011)
- So sánh hai đoạn văn:
Ví dụ:
Cảm nhận về hai đoạn văn sau:
“Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mị nén lấy hũ rượu cứ uống ừng ựng từng
bát. Rồi say,Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng
lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu
làng...” (“Vợ chồng APhủ” - Tô Hoài)
“Phải uống thêm chai nữa. Và hắn uống. Nhưng tức quá, càng uống lại
càng tỉnh ra. Tỉnh ra chao ôi buồn! Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang
thoảng thấy hơi cháo hành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức...” (“Chí Phèo” –Nam

Cao)
- So sánh hai nhân vật:
Ví dụ: Vẻ đẹp khuất lấp của: người vợ nhặt trong “Vợ nhặt” của Kim
Lân và người đàn bà hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn
Minh Châu. (Đề thi đại hoc –khối C 2009)
24


- So sánh cách kết thúc hai tác phẩm:
Ví dụ: So sánh kết thúc tác phẩm truyện ngắn “Chí Phèo” của NamCao
và kết thúc tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân. (Đề thi đại học 2012)
-

So sánh phong cách tác giả:

Ví dụ: So sánh “Chữ người tử tù” (Ngữ văn 11, tập một) với “Người lái
đò Sông Đà”, nhận xét những điểm thống nhất và khác biệt của phong cách
nghệ thuật Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
-

So sánh, đánh giá hai lời nhận định về một tác phẩm:

Ví dụ: Về hình tượng người lính trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang
Dũng có ý kiến cho rằng: người lính ở đây có dáng dấp của tráng sĩ thuở trước;
ý kiến khác thì nhấn mạnh: hình tượng người lính mang đậm vẻ đẹp của người
lính thời kì kháng chiến chống Pháp.Từ cảm nhận của mình về hình tượng này,
anh chị hãy bình luận những ý kiến trên. (Đề thi đại học khối C năm 2013)
2.3.3.2. Cách làm bài dạng đề so sánh văn học:
- Đứng trước một đề văn thường có rất nhiều cách triển khai, giải
quyếtvấn đề, song đối với kiểu đề so sánh văn học dù là ở dạng so sánh hai chi

tiết, hai đoạn thơ, hai đoạnh văn, hay hai nhân vật .... Phương pháp làm bài văn
dạng này thông thường có hai cách:
+ Nối tiếp: Lần lượt phân tích hai vănbản rồi chỉ ra điểm giống và khác
nhau.
+ Song song: Tìm ra các luận điểm giống và khác nhau rồi lầnlượt phân
tích từng luận điểm kết hợpvới việc lấy song song dẫn chứng của cả hai văn bản
minh họa.
a. Cách 1: Phân tích theo kiểu nối tiếp. Đây là cách làm bài phổ biến của
học sinh khi tiếp cận với dạng đề này, cũng là cách mà Bộ giáo dục và Đào tạo
định hướng trong đáp án đềthi đại học - cao đẳng. Bước một lần lượt phân tích
từng đối tượng so sánh cả về phương diện nội dung và nghệ thuật, sau đó chỉ ra
25


×