Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 39 trang )

Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

.MỤC

LỤC
Trang

LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 2
Chương I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MÔ HÌNH CAMELS ........................................ 3
1. Mô hình CAMELS là gì?: ............................................................................................ 3
2. Nội dung mô hình CAMELS: ...................................................................................... 4
2.1. Mức độ an toàn vốn (Capital Adequacy): ............................................................ 4
2.2. Chất lượng tài sản có (Asset Quality): ................................................................. 6
2.3 Quản lý (Management):........................................................................................ 9
2.4 Lợi nhuận (Earnings):........................................................................................ 12
2.5. Thanh khoản (Liquidity): .................................................................................. 13
2.6. Mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường (Sensitivity to Market Risk):................ 16
3. Những ưu, nhược điểm của mô hình CAMELS: ...................................................... 17
Chương II: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG MÔ HÌNH CAMELS TẠI HỆ THỐNG
CÁC NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY........................................................................... 19
1. Thực trạng áp dụng mô hình CAMELS tại hệ thống các NHTM Việt Nam
hiện nay: ......................................................................................................................... 19
1.2. Mức độ an toàn vốn: .......................................................................................... 19
1.2. Chất lượng tài sản có:........................................................................................ 21
1.3. Quản Lý (Management): ................................................................................... 24
1.4. Lợi nhuận: ......................................................................................................... 25
1.5. Thanh khoản: .................................................................................................... 30
1.6. Mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường: ............................................................ 32
2. Đánh giá thực trạng áp dụng mô hình CAMELS tại hệ thống các NHTM Việt
Nam: ............................................................................................................................... 33
Chương III: GIẢI PHÁP HỖ TRỢ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG MÔ


HÌNH CAMELS TẠI HỆ THỐNG CÁC NHTM VIỆT NAM .................................... 35
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 39

Trang 1


Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

LỜI MỞ ĐẦU
Hệ thống tài chính có liên hệ mật thiết với tăng trưởng kinh tế. Trên thực tế, khi các
doanh nghiệp hoạt động hiệu quả với nhu cầu đầu tư phát triển của họ sẽ thúc đẩy sự phát
triển của hệ thống tài chính, và gián tiếp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Các cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra gần đây như ở Thái Lan năm 1997, ở Châu Âu
năm 1992, ở Mỹ La tinh năm 1994… đã làm ảnh hưởng tiêu cực tới phát triển kinh tế của
các nước. Gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã làm sụp đổ
hàng loạt ngân hàng trên thế giới đồng thời gây ra những tổn thất không hề nhỏ cho nền
kinh tế toàn cầu. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng xuất phát từ những lỏng lẻo trong việc
quản lý tín dụng tại các ngân hàng. Điều này đặt ra một câu hỏi lớn đối với hệ thống giám
sát tài chính cho mỗi quốc gia. Trên thế giới có rất nhiều các quốc gia đang quản lý hệ thống
tài chính của mình theo hệ thống các chỉ tiêu CAMELS.
CAMELS là những chữ cái viết tắt để chỉ các chỉ tiêu cấu thành hệ thống xếp hạng đối
với một ngân hàng gồm: Capital (vốn), Assets (tài sản) Management (quản lý), Earnings (lợi
nhuận), Liquidity (thanh khoản) và Sensitivity (độ nhạy cảm với các rủi ro thị trường). Đối
với nhiều ngân hàng, khái niệm này không phải là xa lạ. Nhưng việc xây dựng một hệ thống
chỉ số theo tiêu chuẩn CAMELS và sử dụng nó như một công cụ để giám sát và phòng ngừa
rủi ro trong hoạt động ngân hàng thì còn là vấn đề mới mẻ đối với các ngân hàng Việt Nam.
Mục đích của bài tiểu luận nhằm tìm hiểu cụ thể hơn về nội dung mô hình CAMELS
và đặc biệt là thực trạng áp dụng tại các NHTM Việt Nam hiện nay; qua đó, đưa ra những đề
xuất nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng mô hình cho các NHTM Việt Nam trong môi trường

kinh tế đầy biến động.
Trong quá trình thực hiện bài tiểu luận này do thời gian và nguồn tư liệu không nhiều
nên chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế. Chúng em rất mong nhận được những góp
ý của cô giáo để bài tiểu luận hoàn thiện hơn!

Trang 2


Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

Chương I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MÔ HÌNH CAMELS
1. Mô hình CAMELS là gì?:
Mô hình CAMELS là mô hình đánh giá tình trạng vững mạnh của các tổ chức tài
chính với 6 tiêu chí là: C = Capital (Vốn); A = Asset Quality (Chất lượng tài sản có); M =
Management (Quản lý); E = Earnings (Lợi nhuận); L = Liquidity (Thanh khoản); S =
Sensitivity to Market Risk (Độ nhạy cảm với rủi ro thị trường).

Vốn

Chất lượng
tài sản


Lợi nhuận

Mô Hình
CAMEL

Quản lý


Thanh khoản
Độ nhạy cảm
với rủi ro
thị trường

Mô hình này dựa trên báo cáo tài chính, nghĩa là thông qua thanh tra tại chỗ để đánh
giá xếp hạng theo bậc từ 1 (tốt nhất) tới 5 (kém nhất) và được tổng hợp lại để đưa ra xếp
hạng cuối cùng.
Hạng 1 (Rating 1): Tổ chức tài chính hoạt động tốt với mức cao hơn mức trung bình
chung.
Hạng 2 (Rating 2): Tổ chức tài chính hoạt động ở mức độ trung bình hoặc trên trung
bình không nhiều, vừa đủ đạt mức an toàn.
Hạng 3 (Rating 3): Tổ chức tài chính hoạt động dưới mức trung bình.
Hạng 4 (Rating 4): Tổ chức tài chính hoạt động không đảm bảo, thấp hơn mức trung
bình rất nhiều, cần phải giám sát để tránh nguy cơ mất năng lực hoạt động.
Hạng 5 (Rating 5): Tổ chức tài chính hoạt động rất kém và nguy cơ mất năng lực hoạt
động, cần phải được chú ý giám sát ngay.
Trang 3


Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

Kết quả phân loại không được công bố cho công chúng biết mà chỉ phục vụ riêng cho
các cơ quan quản lý, giám sát tổ chức tài chính nhằm đánh giá tình trạng yếu kém và đưa ra
biện pháp phòng ngừa phá sản.
2. Nội dung mô hình CAMELS:
2.1. Mức độ an toàn vốn (Capital Adequacy):
Trên thị trường tài chính luôn tồn tại nhiều rủi ro, ảnh hưởng đến hoạt động của các tổ
chức tín dụng nói chung cũng như các ngân hàng nói riêng, có thể kể đến rủi ro tín dụng, rủi
ro tỉ giá, rủi ro lãi suất, rủi ro hoạt động hay rủi ro đạo đức. Chính vì vậy, các ngân hang cần

phải đánh giá một cách đúng đắn về các rủi ro mà họ đang phải đối mặt, cũng như duy trì
một lượng vốn đủ lớn để trang trải cho các hoạt động của mình như: Bù đắp những tổn thất
không mong đợi; Đảm bảo sự an toàn cho người gửi tiền cũng như các chủ nợ; Đảm bảo
tuân thủ những quy định của cơ quan quản lý đặt ra nhằm bảo vệ người gửi tiền cũng như
ổn định toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Mức độ an toàn vốn thể hiện số vốn tự có để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Ngân hàng càng chấp nhận nhiều rủi ro thì càng đòi hỏi phải có nhiều vốn tự có
để hỗ trợ hoạt động của ngân hàng và bù đắp tổn thất tiềm năng liên quan đến mức độ rủi ro
cao hơn.
Mức độ an toàn vốn được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu sau:
 Tỷ lệ an toàn vốn (CAR – Capital Adequacy Ratio):
Tỷ lệ an toàn vốn là một chỉ tiêu quan trọng phản án năng lực tài chính của các ngân
hàng. Chỉ tiêu này được dùng để xác định khả năng của ngân hàng trong việc thanh toán các
khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các rủi ro khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành.
Hay nói cách khác khi ngân hàng đảm bảo được tỉ lệ này tức là ngân hàng đã tự tạo ra một
tấm đệm chống lại những cú sốc về tài chính, vừa bảo vệ mình, vừa bảo vệ những người gửi
tiền.
Công thức tính:

Trang 4


Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

Trong đó:
+ Vốn cấp 1 (Vốn cơ bản): bao gồm lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng
được công bố, như là cổ phần thường, cổ phần ưu đãi dài hạn, thặng dư vốn, lợi nhuận
không chia, dự phòng chung các khoản dự trữ vốn khác.
+ Vốn cấp 2 (Vốn bổ sung): bao gồm tất cả các vốn khác như vốn từ phát hành trái
phiếu, giấy nợ và các khoản dự phòng ẩn (như trợ cấp cho các khoản vay và trợ cấp cho các

khoản cho thuê).
Theo hiệp ước về vốn của Basel (Basel I) thì tỉ lệ tối thiểu để bù đắp cho rủi ro của hệ
số CAR là 8%, ở Việt Nam NHNN quy định là 9%.
 Hệ số đòn bẩy tài chính:
Còn gọi là tỷ số D/E, tỷ lệ này phản ánh năng lực quản lý nợ và quy mô tài chính của
Ngân hàng. Tỷ lệ này càng cao thì mức độ an toàn đối với người gửi tiền hoặc chủ nợ của
Ngân hàng giảm.

 Hệ số tự tài trợ:
Hệ số tự tài trợ là chỉ tiêu phản ánh khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính và mức độ
độc lập về mặt tài chính của ngân hàng. Chỉ tiêu này cho biết, trong tổng số nguồn vốn của
ngân hàng, nguồn vốn chủ sở hữu chiếm bao nhiêu phần. Trị số của chỉ tiêu càng lớn chứng
tỏ khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính càng cao, mức độ độc lập về mặt tài chính của ngân
hàng càng tăng và ngược lại, khi trị số của chỉ tiêu càng nhỏ, khả năng tự đảm bảo về mặt
tài chính của ngân hàng càng thấp, mức độ độc lập về tài chính của ngân hàng càng giảm.
Hệ số tự tài trợ được tính theo công thức:

 Trái phiếu/chứng khoán chính phủ trên tổng tài sản:

Trang 5


Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

Trái phiếu /chứng khoán chính phủ là một trong những khoản đầu tư có tính thanh
khoản và an toàn nhất. Tỷ lệ này đánh giá trái phiếu/ chứng khoán chính phủ trên tổng tài
sản

2.2. Chất lượng tài sản có (Asset Quality):
Chất lượng tài sản của NHTM là 1 chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền vững về tài

chính, năng lực quản lý của một tổ chức tín dụng. Hầu hết rủi ro trong kinh doanh tiền tệ
đều tập trung ở tài sản có. Chất lượng tài sản có là nguyên nhân cơ bản dẫn đến các vụ đổ
vỡ ngân hàng. Nếu thị trường biết rằng chất lượng tài sản kém thì sẽ tạo áp lực lên trạng thái
nguồn vốn ngắn hạn của ngân hàng, và điều này có thể dẫn đến khủng hoảng thanh khoản,
hoặc dẫn đến tình trạng đổ xô đi rút tiền ở ngân hàng. Vì vậy cùng với việc đảm bảo có đủ
vốn thì vấn đề nâng cao chất lượng tài sản có là yếu tố quan trọng đảm bảo cho ngân hàng
hoạt động an toàn.
Tài sản có bao gồm:
 Dự trữ (Reserves):
Hoạt động tín dụng của ngân hàng nhằm mục đích kiếm lời, song cần phải bảo đảm an
toàn để giữ vững được lòng tin của khách hàng. Muốn có được sự tin cậy về phía khách
hàng, trước hết phải bảo đảm khả năng thanh toán: đáp ứng được nhu cầu rút tiền của khách
hàng. Muốn vậy các ngân hàng phải để dành một phần nguồn vốn không sử dụng nó để sẵn
sàng đáp ứng nhu cầu thanh toán. Phần vốn để dành này gọi là dự trữ. Ngân hàng TW được
phép ấn định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo từng thời kỳ nhất định, việc trả lãi cho tiền gởi
dự trữ bắt buộc do chính phủ qui định. Dự trữ bao gồm:
+ Dự trữ sơ cấp (Primary Reserves): bao gồm tiền mặt, tiền gửi tại ngân hàng TW, tại
các ngân hàng khác
+ Dự trữ thứ cấp (Secondary Reserves): (cấp hai) là dự trữ không tồn tại bằng tiền mà
bằng chứng khoán, nghĩa là các chứng khoán ngắn hạn có thể bán để chuyển thành tiền một
cách thuận lợi.
Trang 6


Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

 Cấp tín dụng (Credits):
Số nguồn vốn còn lại sau khi để dành một phần dự trữ, các NHTM có thể dùng để cấp
tín dụng cho các tổ chức, cá nhân. Đây là tài sản có sinh lời quan trọng nhất của NHTM,
bao gồm:

+ Cho vay (Loans)
+ Chiết khấu (Discount)
+ Cho thuê tài chính (Financial leasing)
+ Bảo lãnh ngân hàng: (Bank Guarantee)
+ Các hình thức khác (Other)
 Đầu tư (Investment):
Khoản mục đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau khoản mục cho vay, nó mang lại
khoản thu nhập lớn và đáng kể của NHTM. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng sẽ dùng nguồn
vốn của mình và nguồn vốn ổn định khác để đầu tư dưới các hình thức như:
+ Góp vốn mua cổ phần, cổ phiếu của các Công ty; hùn vốn mua cổ phần chỉ được
phép thực hiện bằng vốn của ngân hàng
+ Mua trái phiếu chính phủ, chính quyền địa phương, trái phiếu công ty
Tất cả hoạt động đầu tư chứng khoán đều nhằm mục đích mang lại thu nhập, mặt khác
nhờ hoạt động đầu tư mà các rủi ro trong hoạt động ngân hàng sẽ được phân tán, mặt khác
đầu tư vào trái phiếu chính phủ thì mức độ rủi ro sẽ rất thấp.
 Tài sản Có khác:
Những khoản mục còn lại của tài sản Có trong đó chủ yếu là tài sản cố định nhằm: xây
dựng hoặc mua thêm nhà cửa để làm trụ sở văn phòng, trang thiết bị, máy móc, phương tiện
vận chuyển, xây dựng hệ thống kho quỹ ngoài ra còn các khoản phải thu, các khoản khác…
Tài sản có của ngân hàng bao gồm các tài sản sinh lời và tài sản không sinh lời, trong
đó tài sản sinh lời luôn chiếm phần chủ yếu. Tài sản có sinh lời là những tài sản đem lại
nguồn thu nhập chính cho ngân hàng đồng thời cũng là những tài sản chứa đựng nhiều rủi
ro. Những tài sản này bao gồm cấp tín dụng và đầu tư trong đó chiếm tỷ trọng cao nhất là
Trang 7


Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

các khoản cho vay. Nói đến chất lượng tài sản là nói đến chất lượng tài sản có sinh lời, mà
trước hết được phản ánh ở chất lượng của hoạt động tín dụng. Nếu một ngân hàng có chất

lượng hoạt động tín dụng cao, thể hiện qua việc thu nợ gốc và lãi đúng hạn, bảo toàn được
vốn cho vay, tỷ lệ nợ quá hạn thấp, vòng quay vốn tín dụng nhanh, thì ngân hàng đó được
đánh giá về cơ bản là hoạt động an toàn và hiệu quả.
Thông thường, chất lượng tín dụng của ngân hàng được đánh giá qua các chỉ số: Tỷ lệ
giữa nợ quá hạn so với tổng dư nợ; tỷ lệ giữa tổn thất nợ ròng so với tổng dư nợ; tỷ lệ giữa
dự phòng phải thu khó đòi so với tổng số nợ tổn thất ròng và so với tổng dư nợ. Tỷ lệ và
tính chất nợ quá hạn, nợ khê đọng, mức độ tổn thất trong cho vay cũng như mức trích lập dự
phòng về tổn thất cho vay là chỉ số quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng. Một ngân
hàng có mức độ tín dụng xấu, tỷ lệ nợ khê đọng cao sẽ gây ra những tổn thất về tài sản,
giảm khả năng sinh lời, trong khi mức dự phòng trích lập không đủ sẽ dẫn đến giảm sút vốn
tự có và cuối cùng sẽ mất khả năng thanh toán.
Bên cạnh chất lượng hoạt động tín dụng, chất lượng tài sản của ngân hàng còn thể hiện
ở các tài sản có khác như danh mục đầu tư chứng khoán, tài sản bằng ngoại tệ, vàng bạc, đá
quý. Chất lượng những tài sản này thường thể hiện ở cơ cấu và trạng thái ngoại hối, chất
lượng và trạng thái của danh mục đầu tư. Những khoản mục này cũng có ảnh hưởng rất lớn
đến khả năng sinh lời và tính thanh khoản của một ngân hàng. Do đó, để đánh giá chất
lượng tài sản và mức độ hoạt động của ngân hàng một cách đầy đủ và chính xác, một mặt
phải xem xét toàn diện cơ cấu, tính chất tài sản mà ngân hàng đang nắm giữ, mặt khác phải
nghiên cứu mối tương quan giữa cơ cấu tài sản có và tài sản nợ. Mối tương quan này giúp
đánh giá tính tối ưu trong cơ cấu tài sản, khả năng phản ứng của ngân hàng trước những
biến động của thị trường, khả năng đứng vững trước những hiện tượng bất thường của môi
trường kinh doanh và đáp ứng yêu cầu rút tiền của công chúng.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, chất lượng tài sản của ngân hàng
còn chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các yếu tố bên ngoài như biến động chính trị, sự thay đổi các
chính sách và luật pháp của nước ngoài, sự biến động của các đồng tiền quốc gia. Khi đánh
giá chất lượng tài sản của ngân hàng trong trường hợp này, cần tính đến tình hình sử dụng

Trang 8



Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

tài sản ở nước ngoài, mối tương quan giữa tài sản của nước ngoài và tài sản bằng ngoại tệ
trong tổng tài sản ngân hàng.
Các chỉ tiêu cơ bản:

2.3 Quản lý (Management):
Đây chính là thành phần quan trọng nhất ảnh hưởng đến thành công của các ngân
hàng. Quản lý phản ánh khả năng của ban lãnh đạo trong nhận dạng, đo lường, giám sát và
kiểm soát các rủi ro của ngân hàng và đảm bảo các ngân hàng an toàn, khỏe mạnh và hiệu
quả phù hợp với luật pháp. Các lãnh đạo cung cấp các hướng dẫn cụ thể để thiết lập các
mức rủi ro có thể chấp nhận được thông qua các thủ tục, chính sách phù hợp. Các quản lý
cấp cao chịu trách nhiệm cho phát triển và thực thi các chính sách, thủ tục đó.
Hoạt động quản lý cần giải quyết các rủi ro: tín dụng, tỉ lệ lãi suất, thanh khoản, giao
dịch, tuân thủ, uy tín, chiến lược và một số rủi ro khác tùy thuộc vào tính chất và phạm vi
của các ngân hàng. Khả năng và hiệu quả của ban lãnh đạo được đánh giá dựa trên đánh giá
các yếu tố thẩm định sau:
 Quản trị doanh nghiệp: Ban lãnh đạo có trách nhiệm ủy thác các thành viên duy trì
các tiêu chuẩn về hành vi chuyên nghiệp bao gồm, nhưng không giới hạn:
+ Sự phù hợp của các chính sách đền bù
+ Ngăn chặn xung đột lợi ích
+ Đạo đức và hành vi nghề nghiệp

Trang 9


Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

 Lập kế hoạch chiến lược: lập kế hoạch chiến lược bao gồm một quá trình có hệ
thống để phát triển tầm nhiền dài hạn cho các nghiệp đoàn tín dụng. Một kế hoạch chiến

lược sẽ nhận dạng các rủi ro và các nguy cơ đối với tổ chức và phác thảo các phương thức
để giải quyết chúng.
Trong quá trình lập kế hoạch chiến lược, các nghiệp đoàn tín dụng sẽ phát triển các kế
hoạch kinh doanh cho một hoặc hai năm tiếp theo. Ban lãnh đạo sẽ xem xét và phê duyệt kế
hoạch kinh doanh, bao gồm ngân sách, trong bối cảnh nhất quán của nó với kế hoạch chiến
lược của nghiệp đoàn tín dụng.Kế hoạch kinh doanh được đánh giá với kế hoạch chiến lược
để xác định xem chúng có nhất quán với nhau hay không. Ban lãnh đạo cũng đánh giá làm
thế nào kế hoạch được hiệu quả.Các kế hoạch là duy nhất với nghiệp đoàn tín dụng cụ thể.
 Kiểm soát nội bộ: kiểm soát nội bộ đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các
nguy cơ của nghiệp đoàn tín dụng. Kiểm soát nội bộ hiệu quả cung cấp các biện pháp bảo
vệ chống lại các trục trặc hệ thống. Nếu không có các kiểm soát nội bộ thích hợp, việc quản
lý sẽ không có khả năng nhận dạng và xác định các lỗ hổng dẫn tới rủi ro. Các kiểm soát
cũng cần thiết để đảm bảo các đơn vị hoạt động đang vận hành trong các thông số được thiết
lập bởi ban lãnh đạo và quản lý cấp cao.
Kiểm soát nội bộ quan tâm đặc biệt đến bẩy khía cạnh dưới đây:
+ Hệ thống thông tin: cần kiểm soát hiệu quả để đảm báo tính toàn vẹn, bảo mật và
riêng tư của thông tin được chứa trong các hệ thống máy tính của ngân hàng.
+ Sự tách biệt của các nhiệm vụ: Ngân hàng cần có sự phân biệt rõ ràng về các nhiệm
vụ trong mọi hoạt động.
+ Chương trình kiểm toán: các chức năng và quá trình kiểm toán cần tương xứng với
cỡ, phạm vi và rủi ro của ngân hàng. Chương trình cần độc lập, báo cáo tới ủy ban kiểm soát
mà không có xung đột hoặc can thiệp từ quản lý. Một kế hoạc kiểm toán thường niên rất cần
thiết để đảm bảo các phạm vi rủi ro được xem xét.
+ Lưu trữ hồ sơ: các hồ sơ và tài khoản ngân hàng sẽ phản ánh điều kiện tài chính
thực sự của chúng và kết quả chính xác của việc vận hành.
+ Bảo vệ tài sản vật chất: một trong những phương pháp chủ yếu của bảo vệ tài sản là
giới hạn truy cập tới những người có thảm quyền. Việc bảo vệ tài sản có thể được thiết lập
Trang 10



Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

bởi việc phát triển các chính sách hoạt động cho kiểm soát tiền mặt, kiểm soát kép, hoạt
động giao dịch, và bảo mật vật lý máy tính.
+ Giáo dục cán bộ (Education of Staff): nhân viên ngân hàng cần được huấn luyện
trong các hoạt động nghiệp vụ hàng ngày. Rủi ro được kiểm soát khi ngân hàng có khả năng
duy trì sự liên tục của hoạt động và dịch vụ tới các thành viên.
 Các vấn đề quản lý khác: ngoài các yếu tố chính ở trên, một số yếu tố quan trọng
khác cần xem xét khi đánh giá hoạt động quản lý của một ngân hàng là:
+ Ngân sách thực hiện so với kết quả hoạt động thực tế
+ Tính hiệu quả của các hệ thống đo lường và giám sát rủi ro
+ Sự tích hợp của quản lý rủi ro với lập kế hoạch và ra quyết định
+ Sự phù hợp với pháp luật và quy định
+ Sự thích hợp của các sản phẩm và dịch vụ được đưa ra liên quan tới cỡ và kịnh
nghiệm quản lý của ngân hàng.
 Xếp hạng:
+ Xếp hạng 1: biểu thị hoạt động quản lý bền vững của ban lãnh đạo và thực tiễn quản
lý rủi ro phù hớp với cỡ, tính phức tạp của ngân hàng. Tất cả các rủi ro quan trọng được
nhận dạng, đo lường, giám sát và kiểm soát một cách hiệu quả và nhất quán. Giải quyết
thành công các nguy cơ tồn tại và các vấn đề tiềm tàng.
+ Xếp hạng 2: biểu thị quản lý đạt yêu cầu với cỡ và độ phức tạp của ngân hàng. Một
cách chung nhất, các rủi ro quan trọng được nhận dạng, đo lường, giám sát và điều khiển
một cách hiệu quả. Hầu hết các nguy cơ được giải quyết. Có thể tồn tại một số điểm yếu
nhưng không đang kể.
+ Xếp hạng 3: biểu thị thực hiện quản lý và quản trị cần được cải thiện hoặc các giải
pháp quản lý rủi ro chưa thỏa mãn tính chất các hoạt động của ngân hàng. Các vấn đề và rủi
ro nghiêm trọng có thể được nhận dạng, đo lường, giám sát và kiểm soát không đầy đủ.
+ Xếp hạng 4: biểu thị khiếm khuyết quản lý và giải pháp quản lý rủi ro chưa được
xem xét đầy đủ. Các vấn đề và rủi ro nghiêm trọng có thể được nhận dạng, đo lường, giám
sát và kiểm soát chưa đầy đủ, yêu cầu các nhà quản lý có hoạt động lập tức để giảm thiểu

nguy cơ. Thay thế ban lãnh đạo là cần thiết.
Trang 11


Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

+ Xếp hạng 5: biểu thị quản lý kém hiệu quả nghiêm trọng. Các rủi ro đang đe dọa
khả năng tồn tại tiếp tục của tổ chức. Thay thể ban quản lý là cần thiết.
2.4 Lợi nhuận (Earnings):
Khả năng sinh lời chính là chỉ tiêu quan trọng nhất khi đánh giá hoạt động của một
ngân hàng, bởi tối đa hóa lợi nhuận là mục đích sống còn và luôn là mục đích cao nhất của
một doanh nghiệp. Lợi nhuận giúp các ngân hàng có thể duy trì hoạt động, cải thiện khả
năng cạnh tranh, mở rộng mạng lưới cũng như tăng cường vốn. Bốn nguồn thu nhập chính
của ngân hàng là:
+ Thu nhập từ chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay.
+ Thu nhập từ lệ phí, hoa hồng
+ Thu nhập từ kinh doanh mua bán
+ Thu nhập khác
Khi tiến hành đánh giá và xếp hạng về khả năng sinh lời, không nên chỉ nhìn vào
những con số của quá khứ và hiện tại. Thực tế chính những dự báo về tương lai của các
ngân hàng mới là yếu tố cần được xem xét hơn cả, trong đó cần phải kể đến khả năng hoạt
động dưới những điều kiện kinh tế vĩ mô khác nhau. Như vậy, mục đích chính của việc đánh
giá chỉ tiêu lợi nhuận chính là xem xét khả năng sinh lời về dài hạn của các ngân hàng. Điều
này làm giảm sự ảnh hưởng của các biến động ngắn hạn lên lợi nhuận.
Những yếu tố cơ bản thường được sử dụng khi đánh giá khả năng sinh lời của ngân
hàng bao gồm:
+ Mức độ, tốc độ tăng trưởng cũng như sự ổn định của lợi nhuận, lợi nhuận bình quân
trên tổng tài sản.
+ Chất lượng và cơ cấu của lợi nhuận.
+ Sự hợp lý trong việc trích lập dự phòng và ảnh hưởng của nó lên lợi nhuận

+ Mức độ đầy đủ của các hệ thống ngân sách, quy trình dự báo, và hệ thống thông tin
quản lý.
+ Khả năng sinh lời trong tương lai dưới nhiều viễn cảnh kinh tế vĩ mô khác nhau.

Trang 12


Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

+ Hệ số lợi nhuận ròng, doanh thu và chi phí cho các hoạt động khác ngoài hoạt động
sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng của chúng lên tổng lợi nhuận.
+ Chất lượng và cơ cấu của tài sản.
+ Khả năng cung cấp vốn tương ứng với rủi ro hiện tại và tương lai thông qua lợi
nhuận được giữ lại.
+ Các yếu tố khác có khả năng ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của tổ chức tín dụng
như tài sản cố định và các loại bất động sản khác.
 Các loại xếp hạng đối với khả năng sinh lời:
+ Xếp hạng 1: Ngân hàng có khả năng sinh lời bền vững trong dài hạn dưới nhiều
hoàn cảnh kinh tế khác nhau.
+ Xếp hạng 2: Khả năng sinh lời đạt yêu cầu. Ngân hàng có các biện pháp duy trì lợi
nhuận hiểu quả để đạt được các mức mốn và trợ cấp cần thiết sau khi xem xét tới các yếu tố
chất lượng tài sản, tăng trưởng và rủi ro đã cho.
+ Xếp hạng 3: Khả năng sinh lời cần được cải thiện. Lợi nhuận có thể không hỗ trợ
đầy đủ vốn, kinh phí và các trợ cấp tương ứng với các tác nhân điều kiện, sự phát triển và
rủi ro của ngân hàng.
+ Xếp hạng 4: Khả năng sinh lời thấp.
+ Xếp hạng 5: Các biện pháp đảm bảo lợi nhuận tỏ ra kém hiệu quả nghiêm trọng và
có biểu hiện đe dọa rõ rệt đến khả năng tồn tại của ngân hàng.
2.5. Thanh khoản (Liquidity):
Bên cạnh khả năng sinh lời, hiệu quả quản lý thanh khoản cũng là một yếu tố quan

trọng trong việc đánh giá hoạt động của một tổ chức tín dụng. Tính thanh khoản được xem
như khả năng tức thời để đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi và giải ngân các khoản tín dụng đã
cam kết. Ngân hàng cần dự trữ thanh khoản để chi trả những chi phí thường xuyên như lãi
tiền gửi, và những cú sốc thanh khoản không như mong đợi như một cuộc rút tiền hàng loạt
hay yêu cầu vay vốn lớn. Mặc dù khả năng dự trữ thanh khoản kém chưa hẳn sẽ dẫn đến sự
sụp đổ của môt ngân hàng, nhưng chắn chắc ngân hàng phải bỏ ra một khoản chi phí lớn để
ứng phó với những cú sốc về thanh khoản. Điều đó làm cho lợi nhuận của ngân hàng giảm
đáng kể và co thể dẫn đến khả năng sụp đổ hoàn toàn.
Trang 13


Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

Nguyên nhân dẫn dến rủi ro thanh khoản:
+ Cơ cấu khách hàng và chất lượng tín dụng kém: Ngân hàng tập trung tín dụng vào
một số khách hàng lớn hoặc tỷ trọng tín dụng trong một ngành, một địa phương nào đó
chiếm phần lớn trong tổng dự nợ hoặc trong tổng huy động của một khách hàng chiếm tỷ
trọng lớn. Đến lúc họ rút vốn một cách bất ngờ thì ngân hàng không thể đáp ứng kịp, dẫn
đến rui ro thanh khoản.
+ Chênh lệch quá lớn về cơ cấu tài sản có và tài sản nợ: Nguồn tiền của ngân hàng
phụ thuộc vào các khoản tiền gửi. Tuy nhiên khi phẩn bổ các loại tiền gửi này, ngân hàng
không chú ý đến kỳ hạn của các loại tiền gửi, điều này dẫn đến tình trạng một tỷ lệ lớn các
khoản vốn ngắn hạn lại được mang tài trợ cho các tài sản cố định hoặc các dự án dài hạn.
Kết quả là dòng tiền vào bên tài sản có thường không trùng khít với dòng tiền ra bên tài sản
nợ. Khi đáo hạn những khoản nợ ngắn hạn, ngân hàng phải đối mặt với rủi ro thanh khoản.
+ Mất cân đối trong cơ cấu tài sản: Vấn đề này hầu hết xuất phát từ áp lực lợi nhuận
ngắn hạn của cổ đông lên ban điều hành mà quên mất những nguyên tắc trong quản trị hệ
thống ngân hàng. Trong danh mục tài sản của NHTM luôn có phần đầu từ vào trái phiếu,
trong đó quan trọng nhất là đầu từ vào trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc. Hai loại tài
sản này tuy tỷ suất sinh lời thấp nhưng lại là một nguồn tài sản quan trọng vì khi cần,

NHTM có thể mang nó ra để chiết khấu với NHNN. Tuy nhiên, việc trái phiếu chính phủ và
tín phiếu kho bạc thường được phát hành dưới dạng đấu thầu nên rất khó cho những ngân
hàng có tiềm lực tài chính nhỏ có thể cạnh tranh với các ngân hang lớn trong việc tiếp cận
nguồn tài sản trên.
+ Quy mô vốn điều lệ còn hạn chế: Vốn điều lệ là khoản vốn thuộc sở hữu của ngân
hàng, ghi trong bản điều lệ của ngân hàng, được hình thanh khi NHTM mới thành lập. Nó
phản ánh quy mô hay thực lực tài chính của NHTM. Nếu vốn điều lệ cao, chứng tỏ NHTM
càng có tiềm lực tài chính mạnh, ngược lại, nếu vốn điều lệ càng nhỏ thì quy mô hoạt động
của ngân hàng càng nhỏ. Vốn điều lệ chính là một nguồn tiền của NHTM vì vậy quy mô
vốn điều lệ nhỏ cũng là một yếu tố khiến NHTM bị lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả
và phá sản khi nhu cầu thanh khoản tăng cao đột biến.
+ Chính sách tiền tệ của NHTW: Việc thực thi chính sách tiền về của NHTW cũng
gây ra ảnh hưởng không nhỏ đến thanh khoản của một NHTM. Khi NHTW công bố tỷ lệ dự
Trang 14


Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

trữ bắt buộc cao hoặc một mức lãi suất tái chiết khấu thấp, NHTM sẽ có được một nguồn
cung tiền lớn hơn từ khoản dự trữ bắt buộc đó cũng như chi phí rẻ hơn khi tái chiết khấu các
chứng từ có giá nhằm đảm bảo thanh khoản. Ngược lại, với tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp hoặc
lãi suất tài chiết khấu cao, ngân hàng dễ lâm vào tình trạng thiếu hụt tiền mặt do cung cấp
tín dụng quá nhiều cũng như khó tiếp cận nguồn tiền từ việc tái chiết khấu chứng từ có giá.
+ Biến động lãi suất: Lãi suất là một trong những yếu tố chính gây ảnh hưởng đến
cung và cầu tiền trên thị trường. Khi lãi suất trên thị trường biến đổi, khách hàng có xu
hướng rút tiền ở những NHTM có lãi suất thấp và đêm gửi vào những NHTM có lãi suất
huy động cao hơn. Trong khi đó, doanh nghiệp có nhu cầu đi vay sẽ tìm đến những ngân
hàng có lãi suất cho vay thấp hơn và tìm cách trì hoãn những khoản vay có lãi suất cao. Như
vậy, biến động lãi suât có thể ảnh hưởng tới cả dòng tiền vào và dòng tiền ra của doanh
nghiệp.

+ Chu kỳ kinh tế: Ngoài những nguyên nhân trên, chu kỳ kinh tế cũng là một yếu tố
cần được xem xét. Trên góc độ vi mô kỳ kinh doanh của doanh nghiệp thường được tập
trung vào những tháng cuối năm do lúc này doanh nghiệp phát sinh nhu cầu nguồn tiền lớn
để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, quyết toán công nợ cho những doanh nghiệp khác, chi
trả lương thưởng cho cán bộ nhân biên, thực hiện cam kết giải ngân cho đối tác, thanh toán
các khoản nghĩa vụ như thuế, phí,… Bên cạnh đó cuối năm cũng là thời điểm nhu cầu tiêu
dùng của các hộ gia đình tăng cao khiến cho nhu cầu tiền mặt tăng đột biến. Xét trên góc độ
vĩ mô, khi nền kinh tế tăng trưởng tốt, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô ổn định, nguồn tiền của
ngân hàng sẽ được đảm bảo. Tuy nhiên khi nền kinh tế đi vào khủng hoảng, lạm phát tăng
cao, sản xuất trì trệ khó khan, các NHTM cũng sẽ phải đối mặt mới nguy cơ thiếu hụt tiền
mặt dẫn đến mất khả năng thanh toán.
Quản lý thanh khoản là một quy trình bao gồm việc đánh giá, theo dõi và kiểm soát rủi
ro thanh khoản. Khi xem xét đến rủi ro thanh khoản, cần phải chú ý đến:
+ Tính sẵn có của các tài sản đảm bảo có khả năng chuyển đổi thành tiền với chi phí
chấp nhận được.

Trang 15


Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

+ Sự cân đối trong các nguồn tài chính của ngân hàng nhằm đảm bảo nhu cầu tiền mặt
trong ngắn hạn và dài hạn, cũng như khả năng đáp ứng những nhu cầu tiền mặt bất thường
mà không làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của ngân hàng.
+ Khả năng tiếp cận thị trường tiện tệ và các nguồn lực tài chính khác.
+ Mức độ đa dạng hóa các nguồn lực tài chính.
+ Mức độ phụ thuộc vào những nguồn tiền ngắn hạn và không ổn định, ví dụ như sử
dụng nguồn tiền huy động tín dụng ngắn hạn để tài trợ cho tài sản dài hạn.
+ Xu hướng và sự ổn định của các khoản tiền gửi
+ Năng lực của hệ thống lãnh đạo nhằm phát hiện, đo lường, theo dõi và kiểm soát

tình trạng thanh khoản của doanh nghiệp.
2.6. Mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường (Sensitivity to Market Risk):
Do sự hoạt động vô cùng đa dạng của ngân hàng nên họ rất dễ bị tổn thương với các
loại rủi ro tài chính. Mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường là mức độ ảnh hưởng của thay
đổi về lãi suất và/hoặc tỷ giá đến giá trị của lợi nhuận hay vốn cổ phần của các ngân hàng.
Đối với tiêu chí này, người phân tích cần chú trọng quan tâm đến khả năng của ban lãnh đạo
ngân hàng trong việc xác định, giám sát, quản lý và kiểm soát rủi ro thị trường, đồng thời
đưa ra dấu hiệu chỉ dẫn định hướng rõ ràng và tập trung.
Trong nhóm các rủi ro thị trường, hai nhân tố chính có ảnh hưởng mạnh nhất lên hoạt
động của hệ thống ngân hàng chính là rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá.
 Rủi ro lãi suất:
Rủi ro lãi suất là loại rủi ro xuất hiện khi có sự thay đổi của lãi suất thị trường hoặc
của những yếu tố có liên quan đến lãi suất dẫn đến tổn thất về tài sản hoặc làm giảm thu
nhập của ngân hàng.
Rủi ro lãi suất xuất hiện khi có sự không cân xứng về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản
nợ. Do các ngân hàng áp dụng các loại lãi suất khác nhau trong quá trình huy động vốn và
cho vay: Ngân hàng thường huy động vốn với lãi suất cố định nhưng cho vay, đầu tư với lãi
suất biến đổi. Khi lãi suất giảm, rủi ro lãi suất sẽ xuất hiện vì chi phí lãi phải trả lớn hơn lãi
thu được, làm giảm lợi nhuận. Ngược lại, khi ngân hàng huy động vốn với lãi suất biến đổi
Trang 16


Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

nhưng cho vay, đầu tư với lãi suất cố định. Khi lãi suất tăng, rủi ro lãi suất sẽ xuất hiện vì
chi phí lãi phải trả lớn hơn lãi thu được. Sự không phù hợp về khối lượng, thời hạn giữa
nguồn vốn huy động với việc sử dụng nguồn vốn đó để cho vay còn dẫn đến tình trạng
nguồn vốn được huy động với chi phí cao lại được đầu tư cho dự án thu lợi nhuận thấp còn
nguồn vốn được huy động với chi phí rẻ lại được sử dụng cho dự án thu lợi lớn. Ngoài ra,
khi lãi suất thị trường thay đổi, ngân hàng còn có thể gặp rủi ro giảm giá trị tài sản.

Khi rủi ro lãi suất xuất hiện sẽ làm tăng chi phí nguồn vốn của ngân hàng, giảm thu
nhập từ tài sản của ngân hàng, làm giảm giá trị thị trường của TSC và vốn chủ sở hữu của
ngân hàng.
 Rủi ro tỷ giá:
Rủi ro tỷ giá là rủi ro phát sinh do sự biến động tỷ giá hối đoái lên hoạt động của hệ
thống ngân hàng. Rủi ro tỷ giá có thể phát sinh trong nhiều hoạt động khác nhau của ngân
hàng cũng như của doanh nghiệp, tuy nhiên nhìn chung bất cứ hoạt động nào mà dòng tiền
vào và dòng tiền ra được thể hiện bởi nhiều loại tiền tệ khác nhau thì đều phải chịu rủi ro tỷ
giá.
Có hai nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro tỷ giá hối đoái. Nguyên nhân chủ quan đến từ
sự không cân xứng trong trạng thái tài sản có và tài sản nợ về ngoại hối của các ngân hàng.
Nếu ngân hàng nắm giữ quá nhiều ngoại tệ, ngân hàng sẽ có lãi khi tỷ giá tăng và lỗ khi tỷ
giá giảm. Ngược lại, nếu ngân hàng đang ở trạng thái thiếu hụt ngoại tệ và phải đi vay, ngân
hàng sẽ chịu lỗ khi tỷ giá tăng nhưng có lãi khi tỷ giá giảm. Nguyên nhân khách quan của
rủi ro tỷ giá là do sự biến động của cung – cầu ngoại tệ trên thị trường, cán cân thanh toán
quốc tế, chính sách thuế quan, năng suất lao động, tình hình kinh tế chính trị của mỗi nước
cũng như lãi suất đồng nội tệ và ngoại tệ.
3. Những ưu, nhược điểm của mô hình CAMELS:
 Ưu điểm:
Là công cụ hiệu quả để đánh giá, xếp hạng ngân hàng trong giai đoạn kinh tế hội nhập
hiện tại, làm cơ sở để đánh giá mức độ cạnh tranh cũng như khả năng hoạt động hiệu quả
của các ngân hàng khi gia nhập vào môi trường toàn cầu. Dựa vào những chỉ tiêu của mô
Trang 17


Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

hình, ta có thể nhận ra được những điểm yếu kém trong tình hình tài chính của mỗi ngân
hàng để từ đó tìm cách khắc phục, cải thiện nó theo ý muốn chủ quan của người đều hành.
Việc áp dụng mô hình Camels trong giai đoạn hiện tại góp phần trích lọc ra được

những ngân hàng yếu kém, từ đó khoanh vùng quản lý, không gây tác động mạnh đến hệ
thống ngân hàng, giữ cho nó được an toàn, lành mạnh làm nền tảng vững chắc cho sự phát
triển của nền kinh tế Việt Nam.
Đây là một mô hình đã được áp dụng khá lâu đời tại những quốc gia có nền kinh tế
phát triển nên có tính ổn định khá cao và những chỉ tiêu đã được thay đổi linh hoạt dể phù
hợp qua các thời kì phát triển của nền kinh tế, từ đó có thể thấy được tính linh hoạt hoà
quyện trong tính ổn định, giúp mô hình ngày càng hoàn thiện hơn.
 Nhược điểm:
Nhược điểm lớn nhất của mô hình CAMELS là nặng về thống kê số liệu và việc phân
tích phần lớn dựa vào các yếu tố định lượng ngay cả yếu tố M ( năng lực quản lý) cũng
được định lượng hóa khi phân tích. Trong điều kiện nền kinh tế có nhiều biến động như hiện
nay thì rủi ro đối với ngành ngân hàng là tất yếu và do vậy nếu quản trị ngân hàng mà dựa
hoàn toàn vào các phân tích mang tính định lượng thì sẽ không mang lại kết quả như mong
muốn thậm chí có thể làm sai lệch những đánh giá chân thực vào từng thời điểm.
Hơn nữa việc chỉ sử dụng các chỉ tiêu tài chính dựa trên phân tích BCTC của mô
hình để đánh giá tình hình tài chính của ngân hàng có thể gặp một số rắc rối do sự khác
nhau, thủ thuật trong việc lựa chon chế độ kế toán, từ đó dẫn đến việc đánh giá không chính
xác, không phản ánh đúng bản chất thực tế, cái mà có thể ngân hàng đang cố tình che đậy.

Trang 18


Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

Chương II: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG MÔ HÌNH CAMELS TẠI HỆ THỐNG
CÁC NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Thực trạng áp dụng mô hình CAMELS tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay:
1.2. Mức độ an toàn vốn:
Thông tư 13/2010/TT-NHNN và các điểm sửa đổi được ban hành trong Thông tư
19/2010/TT-NHNN năm 2010 của Thống đốc NHNN đã quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn

trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, trong đó tập trung về việc nâng tỷ lệ an toàn vốn
tối thiều và tỷ lệ dư nợ trên tổng huy động. Nhằm đảm bảo một nguồn vốn chất lượng tốt
hơn để chống đỡ lại các cú sốc tài chính trong tương lai, đồng thời nhằm phù hợp với tình
hình thực tế hiện nay nhiều NHTM hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con và
nhằm tiến thêm một bước trong việc tuân thủ 25 nguyên tắc thanh tra cơ bản của Uỷ ban
Basel, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) được nâng lên mức 9% từ mức cũ 8% (quy định tại
quyết định 457/2005/QĐ-NHNN). Các ngân hàng có thể tăng tỷ lệ CAR bằng cách tăng vốn
điều lệ hoặc cắt giảm các tài sản có tính rủi ro cao.
Nhằm tăng tỉ lệ CAR, các ngân hàng cũng rất trú trọng trong việc tăng vốn điều lệ. Tại
thời điểm quý III năm 2013 tổng số vốn đăng ký của 39 ngân hàng thương mại Việt Nam là
298.383 tỷ VND, với quy mô trung bình là 7.651 tỷ VND một ngân hàng. Bốn ngân hàng có
số vốn điều lệ lớn nhất đều là NHTM nhà nước, trong đó Vietinbank giữ vị trí thứ nhất với
số vốn điều lệ trị giá 32.661 tỷ VND. Tất cả các ngân hàng đều đáp ứng yêu cầu vốn điều lệ
tối thiều 3 000 tỉ VND của NHNN. Tuy nhiên so với các ngân hàng của các nước trong khu
vực thì ngay cả vốn điều lệ của Vietinbank cũng thấp hơn rất nhiều.
Bảng 1: Vốn điều lệ của Vietinbank và một số ngân hàng trong khu vực
Ngân hàng

Quốc gia

Vốn điều lệ (tỉ USD)

ICBC

Trung Quốc

237,3

China Construction Bank


Trung Quốc

202

Trang 19


Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

DBS Group

Singapore

30,7

UOB (United Overseas Bank)

Singapore

25,1

Maybank

Malaysia

24,3

Sieam Commercial Bank

Thái Lan


21,5

Vietinbank

Việt Nam

2,4

Nguồn: Forbes 2012 (xuất bản tháng 05/2013)
Mặc dù vậy tỷ lệ an toàn vốn CAR đến 31/12/2013 của toàn hệ thống ngân hàng đạt
12,83% giảm so với mức 13,58% của cuối năm 2012. Trong đó, CAR của khối NHTM Nhà
nước đạt 10,91%, khối NHTM cổ phần đạt 12,56% thấp hơn so với tỉ lệ chung.
Bảng 2: Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hệ thống ngân hàng giai đoạn 2010 – 2013

Nguồn: Báo cáo tổng quan thị trường tài chính của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia.

Bảng 3: Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (thời điểm 31/12/2013) của một số ngân hàng
STT
1

Ngân hàng
Vietcombank

2013
13,13%

Trang 20



Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

2

Vietinbank

13,17%

3

BIDV

10,23%

4

MBBank

11,00%

5

Sacombank

10,02%

6

ACB


14,70%

7

Techcombank

14,03%

8

VPBank

12,50%

9

VIBank

18,00%

10

MaritimeBank

10,56%

Nguồn: Báo cáo thường niên, Báo cáo tài chính hàng năm của các ngân hàng, VPBS tổng hợp.

Nếu xét theo tiêu chí hệ số CAR 9%, các NHTM kể trên đã đạt được (Bảng 2); Đây là
các 10 ngân hàng mà NHNN đã chọn để thí điểm áp dụng Basel II theo lộ trình từ 20152018. Tuy nhiên với những quan ngại về tình hình nợ xấu và mức độ minh bạch trong việc

báo cáo thực trạng nợ xấu của các ngân hàng có thể làm sai lệch tỷ lệ CAR thì con số thực
tế có thể còn thấp hơn.
Hơn nữa, trên thế giới, việc áp dụng hệ số an toàn vốn tối thiểu hiện phổ biến theo tiêu
chuẩn của Basel II đã ở mức 12%. Một số thống kê gần đây cho thấy hệ số CAR tại các
NHTM của khu vực châu Á - Thái Bình Dương bình quân hiện nay là 13,1%, của khu vực
Đông Á là 12,3%/. Trong bối cảnh gia nhập WTO, quy mô về vốn của các NHTM Việt Nam
chắc chắn phải tăng hơn nữa, nhằm vừa đảm bảo hệ số hoạt động an toàn và đảm bảo khả
năng mở rộng kinh doanh, đáp ứng các yêu cầu mới từ thị trường. Nhằm nâng cao chất
lượng vốn của TCTD, NHNN đang hoàn thiện dự thảo Thông tư với các quy định chặt chẽ
hơn để thay thế Thông tư 13/2010/TT-NHNN.
1.2. Chất lượng tài sản có:
Trang 21


Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

Chất lượng nghiệp vụ tín dụng là yếu tố chủ yếu và quan trọng của các NHTM, nó
thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản Có của ngân hàng và là thành phần tài sản sinh
lời nhiều nhất cho NHTM. Nghiệp vụ tín dụng giúp ngân hàng cung ứng vốn cho nền kinh
tế thúc đẩy mở rộng sản xuất kinh doanh. Các NHTM luôn phấn đấu để đạt mức dư nợ cao
nhất bởi thu lãi cho vay là nguồn thu chính, tuy nhiên bên cạnh đó nghiệp vụ này cũng chứa
đựng nhiều rủi ro.
Theo Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia và NHNN (NHNN), trong năm 2013, tín
dụng toàn bộ hệ thống ngân hàng tăng 13,17% so với năm 2012, đạt mục tiêu đề ra. Tuy
nhiên, lợi nhuận của các ngân hàng đã sụt giảm đáng kể. Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở
hữu (ROE) trung bình đã giảm từ 15% năm 2009 xuống 5% vào năm 2013. Đây là kết quả
tất yếu của việc tăng trưởng tín dụng thấp, ứ đọng vốn, chi phí trích lập dự phòng cao, giảm
chênh lệch lãi suất cho vay và huy động. Xu hướng này được dự đoán sẽ còn tiếp diễn, ít
nhất là trong năm 2014.
NHNN đã ban hành Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN vào tháng 04/2005, quy định

phương pháp đánh giá rủi ro tín dụng. Điều 6 của Quyết định này (phương pháp định
lượng), nhất quán với các nguyên tắc của Basel I, đã hướng dẫn các ngân hàng phân loại các
khoản nợ thành năm nhóm, từ Thông thường đến Có khả năng mất vốn, dựa trên các chỉ tiêu
đánh giá định lượng như số ngày quá hạn hoặc có hay không việc gia hạn nợ. Theo điều 7
(phương pháp định tính), phù hợp với hiệp ước Basel II, rủi ro tín dụng cần được đánh giá
dựa trên tình hình tài chính của từng khách hàng. Việc phân loại nợ theo điều 7 dường như
chặt chẽ hơn điều 6, tuy nhiên việc áp dụng điều 7 vẫn chưa là bắt buộc đối với các ngân
hàng. Mặc dù tuân theo phương pháp chặt chẽ hơn, những ngân hàng này vẫn có cách để
che giấu mức độ nợ xấu thực sự. Theo một nghiên cứu của Ủy ban Giám sát Tài chính quốc
gia, một phần lớn các khoản cho vay cần chú ý (nợ nhóm 2) thực chất là nợ xấu. Nếu phân
loại lại các khoản cho vay cần chú ý này thành nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng
sẽ còn cao hơn rất nhiều.
Bảng 4: Tỷ lệ nợ xấu và nợ nhóm 2 (thời điểm 30/06/2013) của một số ngân hàng

Trang 22


Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

Nguồn: Báo cáo tài chính của các ngân hàng, VPBS tổng hợp.

Bảng 5: Tình hình nợ xấu của hệ thống ngân hàng từ 2009 đến 2013

Nguồn: Báo cáo tổng quan thị trường tài chính của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia.

Trang 23


Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay


NHNN đã chính thức công bố tỷ lệ nợ xấu của ngành ngân hàng ở mức 3,6% vào cuối
tháng 12/2013, vẫn tiếp tục xu hướng tăng lên kể từ năm 2009, nhưng có phần hạ bớt so với
tháng 12/2012. Vấn đề là con số báo cáo chính thống này được đa số cho rằng thấp hơn thực
tế rất nhiều. NHNN cũng công nhận rằng tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng thực sự lớn
gấp hai con số được báo cáo. Tệ hơn, NHNN công bố nếu như NHNN đã không cho phép
cơ cấu lại nợ (theo Quyết định 780/QĐ-NHNN), và nếu như các ngân hàng không sử dụng
phần trích lập dự phòng của năm 2012 để xử lý các khoản nợ xấu trong năm 2013 thì nợ xấu
của toàn hệ thống có thể sẽ lên tới mức 12,7%. Theo báo cáo của NHNN trình lên Quốc hội
vào tháng 04/2013, 284,4 nghìn tỷ VND nợ quá hạn đã được tái cấu trúc và được giữ
nguyên ở nhóm nợ ban đầu theo Quyết định 780/QĐ-NHNN.
Trước tình hình trên hệ thống TCTD đang tích cực xử lý nợ xấu. Theo báo cáo của
NHNN thì từ năm 2012 đến cuối tháng 12/2013, tổng số nợ xấu của hệ thống TCTD Việt
Nam đã được xử lý là 105,9 nghìn tỷ đồng. Trong đó, VAMC cũng là nhân tố góp phần giải
quyết xấp xỉ 40 nghìn tỷ đồng nợ xấu từ các TCTD tính đến hết năm 2013.
Đồng thời với việc ban hành thông tư 02/2013/TT-NHNN về việc phân loại tài sản,
trích lập dự phòng và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro được áp dụng từ tháng 6/2014 và
nửa đẩu năm 2015 với các tiêu chí đánh giá nợ xấu theo thông lệ quốc tế sẽ làm con số nợ
xấu chính xác và cụ thể hơn, góp phần minh bạch hóa thị trường tài chính Việt Nam.
1.3. Quản Lý (Management):
Các tiêu chí đánh giá khả năng quản trị các NHTM Việt Nam gồm mô hình và chất
lượng quản lý, phát triển nguồn lực, kiểm soát nội bộ.
 Mô hình và chất lượng quản lý:
Mô hình quản lý các NHTM được quy định rõ trong Luật các tổ chức tín dụng năm
2010, nhờ đó hệ thống quản trị được thực hiện tương đối rõ ràng, lành mạnh giúp cho hệ
thống có thể vận hành trơn tru, các thành viên trong ban quản trị đều là những người có kinh
nghiệm, kiến thức và khả năng trong ngành. Vì vậy bộ máy quản trị là tương đối tốt.
Mặc dù vậy những năm gần đây các ngân hàng ở Việt Nam có tình trạng sở hữu chéo.
Sở hữu chéo tạo điều kiện cho các ngân hàng cho vay thiếu thận trọng, đầu tư vốn vào
Trang 24



Mô hình CAMELS và thực trạng áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam hiện nay

những dự án rủi ro và thiếu minh bạch mà chủ sở hữu của những dự án này chính là cổ đông
lớn của ngân hàng và các tổ chức sân sau của họ. Thêm vào đó, có một số cổ đông lớn đã
vay tiền từ ngân hàng để mua cổ phần của chính ngân hàng đó. Nói cách khác, những cổ
đông này đã dùng đòn bẩy tài chính để góp vốn ảo, che dấu mức vốn thực, phóng đại các
chỉ tiêu an toàn vốn của ngân hàng. Chính vì vậy có tình trạng quản lý mập mờ, đây là một
trong những nhược điểm quan trọng của hệ thống NHTM Việt Nam.
 Phát triển nguồn lực:
NHNN đã xây dựng và triển khai Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn
2011-2015. Trong quá trình thực hiện các ngân hàng không chỉ tái cơ cấu về vốn mà nhân
sự trong ngành ngân hàng cũng có sự xáo trộn lớn. Song nếu nhìn từ góc độ khoa học thì
đây là động thái cần thiết để sàng lọc lại đội ngũ nhân sự ngành ngân hàng vốn được tuyển
dụng quá nhiều tại thời điểm “ra ngõ gặp ngân hàng” cách đây 6-7 năm. Hơn nữa, môi
trường kinh doanh càng khó khăn thì những yêu cầu, đòi hỏi đối với đội ngũ nhân sự sẽ
càng cao hơn, không chỉ về trình độ chuyên môn nghiệp vụ mà cả về kỹ năng và đạo đức
nghề nghiệp, và chỉ qua sàng lọc, ngành ngân hàng sẽ có được đội ngũ lao động tinh hơn để
có thể phát triển một cách bền vững
 Kiểm soát nội bộ:
Mặc dù các NHTM Việt Nam đều có ban kiểm soát, kiểm soát hoạt động minh bạch
của quản lý và nhân viên của ngân hàng. Qua thực tiễn về những rủi ro, tổn thất mà các
NHTM gặp phải trong những năm gần đây cho thấy hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân
hàng nhìn chung còn bộc lộ nhiều yếu kém, hoạt động chưa thật hiệu quả.
1.4. Lợi nhuận:
Theo mô hình CAMELS của Việt Nam, kết quả kinh doanh của ngân hàng được đánh
giá dựa trên 3 tiêu chí với mức điểm tổng tối đa là 20 điểm:
+ Lợi nhuận trước thuế so với vốn chủ sở hữu (tối đa 15 điểm)
+ Tỷ lệ thu dịch vụ trong tổng thu nhập (tối đa 3 điểm)
+ Tỷ lệ thu nhập ròng từ hoạt động dịch vụ trong lợi nhuận trước thuế (tối đa 2 điểm)

 Lợi nhuận trước thuế so với vốn chủ sở hữu (ROE):
Trang 25


×