Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Mối quan hệ giữa Triết học và các khoa học dưới ánh sáng của khoa học hiện đại và thực tiễn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.8 KB, 10 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC
SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN
OF SAIGON UNIVERSITY
Số 70 (04/2020)
No. 70 (04/2020)
Email: ; Website: />
MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ CÁC KHOA HỌC DƯỚI
ÁNH SÁNG CỦA KHOA HỌC HIỆN ĐẠI VÀ THỰC TIỄN HIỆN NAY
The relationship between Philosophy and the sciences in the light of modern
sciences and current practice
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Khá
Trường Đại học Sư phạm TP.HCM
TÓM TẮT
Dưới ánh sáng của khoa học hiện đại và thực tiễn hiện nay, mối quan hệ giữa triết học và các khoa học
trở thành vấn đề hết sức quan trọng, chứa đựng nội dung phong phú và sâu sắc. Triết học đóng vai trò
thế giới quan và phương pháp luận phổ biến cho các khoa học, là cơ sở lý luận để đánh giá thành tựu
của các khoa học, vạch ra phương hướng phát triển và phương pháp nghiên cứu của các khoa học. Về
phần mình, các khoa học cụ thể cung cấp cho triết học các thành tựu để từ đó triết học khái quát thành
quan điểm chung nhất, đồng thời các thành tựu ấy còn có giá trị kiểm chứng những kết luận của
triết học.
Từ khóa: các khoa học, mối quan hệ, phương pháp luận, thế giới quan, triết học
ABSTRACT
In the light of modern science and current practice, the relationship between philosophy and the
sciences is of utmost importance and contains rich and profound content. Philosophy plays the role of
the worldview and popular methodology for the sciences, lays the theoretical basis for evaluating the
achievements of the sciences, outlining the development direction and research methods of the sciences.
For their part, the specific sciences provide philosophy with achievements from which it generalizes
into philosophical perspectives, and these achievements are meant to verify the conclusions of


philosophy.
Keywords: sciences, relationship, methodology, worldview, philosophy

hiện đại và thực tiễn xã hội đang đặt ra
những vấn đề mới mà triết học cần phải có
sự giải đáp thuyết phục nhất, cũng như đòi
hỏi các nhà khoa học cần có sự định hướng
đúng đắn về thế giới quan và phương pháp
luận trong hoạt động nghiên cứu, xác định
đối tượng, nội dung, mục đích nghiên cứu
khoa học của mình. Sự giải đáp này chỉ có
thể thực hiện được khi một mặt các nhà
khoa học cần phải nắm vững và vận dụng

1. Đặt vấn đề
Thời đại ngày nay gắn liền với cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với
những biến đổi hết sức đa dạng và phức tạp
trong bối cảnh toàn cầu hóa, quốc tế hóa
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đòi hỏi
các nhà triết học và các nhà khoa học cần
phải giải quyết đúng đắn, kịp thời những
yêu cầu lý luận và thực tiễn cấp bách. Đặc
biệt, những thành tựu mới của các khoa học
Email:

14


NGUYỄN NGỌC KHÁ


TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

đúng đắn, sáng tạo thế giới quan và phương
pháp luận của triết học Mác – Lênin, mặt
khác các nhà triết học kịp thời nắm bắt và
khái quát các thành tựu mới nhất của các
khoa học hiện đại để bổ sung, phát triển lý
luận triết học, vận dụng sáng tạo vào trong
nhận thức và thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên
cứu mối quan hệ giữa triết học và các khoa
học có ý nghĩa hết sức quan trọng.
2. Vị trí của mối quan hệ giữa triết
học và các khoa học trong nhận thức và
thực tiễn
Trải qua quá trình lịch sử phát triển lâu
dài của triết học và các khoa học, mối quan
hệ giữa triết học và các khoa học đã trở
thành một trong những “vấn đề triết học”
được bàn luận sâu rộng; xung quanh nó
luôn luôn tồn tại những quan điểm khác
nhau, thậm chí đối lập nhau. Có quan điểm
tuyệt đối hóa vai trò của triết học, hạ thấp
hay coi thường vai trò của các khoa học,
cho rằng chỉ cần nắm được triết học thì sẽ
giải quyết được tất cả các vấn đề cụ thể của
đời sống. Ngược lại, có quan điểm tuyệt
đối hóa vai trò của các khoa học, hạ thấp
hoặc gạt bỏ vai trò của triết học và cho
rằng: thứ nhất, triết học nghiên cứu và giải

quyết những vấn đề quá chung nên những
kết quả của nó không có tác dụng thiết
thực; thứ hai, triết học không có phương
pháp riêng và trang thiết bị nghiên cứu
riêng như các khoa học cụ thể nên tính
chân lý của các kết luận triết học không
được bảo đảm.
Có thể nói, cả hai quan điểm trên đây
về mối quan hệ giữa triết học và các khoa
học thực chất là cực đoan, sai lầm và đều
rơi vào một trong hai thái cực của cùng
một lối tư duy siêu hình. Bởi lẽ, để giải
quyết một cách có hiệu quả những vấn đề
cụ thể mà cuộc sống đặt ra, cần phải có sự
kết hợp chặt chẽ cả hai loại tri thức: một là,

tri thức lý luận (trong đó có tri thức triết
học và tri thức các khoa học chuyên ngành)
và hai là, tri thức thực tiễn (trong đó có sự
hiểu biết tình hình thực tiễn và trình độ tay
nghề, kinh nghiệm được biểu hiện, trải
nghiệm qua sự nhạy cảm với thực tiễn).
Sự ra đời chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã đem lại một quan điểm mới, tích
cực về mối quan hệ giữa triết học và các
khoa học. Trên lập trường của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, dưới ánh sáng của
khoa học hiện đại và thực tiễn xã hội, mối
quan hệ giữa triết học và các khoa học
được hiểu ở một tầm cao mới, sâu sắc hơn,

gắn liền với các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội. Giải quyết mối quan hệ này có
ý nghĩa sâu sắc đối với sự phát triển của
bản thân triết học, cũng như của các khoa
học, và có tầm quan trọng đặc biệt tác động
đến sự phát triển của đời sống xã hội trong
giai đoạn hiện nay.
Mối quan hệ giữa triết học và các khoa
học là mối quan hệ biện chứng, vừa có sự
thống nhất vừa có sự khác biệt, tác động
qua lại lẫn nhau. Triết học và các khoa học
đều là khoa học, thuộc về lĩnh vực tinh
thần của đời sống xã hội, là các hình thái ý
thức xã hội nên đều là sự phản ánh tồn tại
xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất
định. Cả triết học, cả các khoa học khác
đều có nguồn gốc sâu xa xuất phát từ thực
tiễn, là sản phẩm của thực tiễn, do nhu cầu
phát triển của sản xuất và đời sống, đều
hình thành và phát triển gắn liền với thực
tiễn, nhằm đáp ứng nhu cầu tất yếu của con
người. Chính điều này đã được Ph.
Ăngghen khẳng định trong tác phẩm bút
chiến “Chống Đuy-rinh”: “Cũng như tất cả
các khoa học khác, toán học sinh ra từ
những nhu cầu thực tiễn của con người”
(C. Mác và Ph. Ăng-ghen, tập 20, tr.59).
Cùng với sự phát triển của sản xuất và
15



SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 70 (04/2020)

thực tiễn, đối tượng nghiên cứu của triết
học và các khoa học ngày càng trở nên đa
dạng, phức tạp nên triết học cùng các khoa
học cũng không ngừng phát triển và đóng
vai trò ngày càng quan trọng đối với đời
sống xã hội. Mặt khác, triết học và các khoa
học khác có điểm chung là sử dụng các
công cụ của tư duy logic, của lý trí, trí tuệ
con người thông qua sự khái quát hóa, trừu
tượng hóa, hệ thống hóa để thiết lập nên
các mệnh đề, nguyên lý, phạm trù, quy luật.
Như vậy, cơ sở khách quan của mối
quan hệ giữa triết học và các khoa học, đó
là thực tiễn. Trên cơ sở thực tiễn mà triết
học và các khoa học, hình thành và phát
triển. Nhờ có thực tiễn mà các nguyên lý,
quy luật, phạm trù của triết học, các kết quả
của các khoa học mới thể hiện tính chân lý,
thể hiện sự phù hợp với hiện thực. Chính
thực tiễn là cơ sở thống nhất giữa triết học
và các khoa học. Thực tiễn đã gắn kết triết
học và các khoa học trong mối quan hệ biện
chứng và tạo thành một chỉnh thể – một hệ
thống các khoa học.
Tính đặc thù của mối quan hệ giữa

triết học và các khoa học là ở chỗ, tùy vào
từng giai đoạn phát triển cụ thể mà cái này
hay cái kia nổi trội lên hàng đầu đóng vai
trò chi phối. Giữa triết học và các khoa
học có sự tác động qua lại lẫn nhau; trong
đó triết học đóng vai trò là cơ sở thế giới
quan và phương pháp luận cho sự phát
triển của các khoa học khác, còn các khoa
học cung cấp dữ liệu để từ đó triết học
khái quát thành các quan điểm chung nhất,
kiểm chứng các luận điểm của nó.
3. Vai trò của triết học đối với các
khoa học
Trong quá trình hình thành, phát triển
trên 2500 năm, triết học đóng vai trò là thế
giới quan và phương pháp luận phổ biến
cho các khoa học cụ thể, là cơ sở lý luận để

đánh giá các thành tựu của các khoa học,
vạch ra phương hướng phát triển và
phương pháp nghiên cứu của các khoa học.
a. Vai trò thế giới quan của triết học
đối với các khoa học
Theo nghĩa khoa học, thế giới quan là
toàn bộ những quan niệm của con người về
thế giới, về vị trí, vai trò của con người
trong thế giới ấy, về chính bản thân và
cuộc sống của con người và loài người”.
Như vậy, trong thế giới quan đã bao hàm
nhân sinh quan, tức là toàn bộ những quan

niệm về cuộc sống của con người và loài
người. Sự hình thành lý tưởng là trình độ
phát triển cao của thế giới quan.
Thế giới quan là nhân tố định hướng
cho quá trình hoạt động sống của con
người. Thế giới quan như một “thấu kính”
qua đó con người xác định mục đích, ý
nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức đạt
mục đích đó. Trình độ phát triển của thế
giới quan là tiêu chí quan trọng về sự
trưởng thành của mỗi cá nhân và cộng
đồng nhất định.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân
lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới
quan phát triển như một quá trình tự giác
dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
và tri thức do các khoa học đưa lại. Triết
học là hạt nhân lý luận, là bộ phận quan
trọng nhất trong thế giới quan, bởi vì triết
học mô tả những vấn đề của thế giới quan
bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù,
quy luật; nó chi phối các quan niệm khác
của thế giới quan, như quan niệm về đạo
đức, văn hóa, chính trị, pháp luật, thẩm mỹ,
tôn giáo.v.v. Triết học trang bị cho con
người những quan niệm về thế giới, về vị
trí, vai trò của con người trong thế giới ấy,
về chính bản thân và cuộc sống của con
người và loài người, và chính là chức năng
thế giới quan của triết học.

16


NGUYỄN NGỌC KHÁ

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm là cơ sở lý luận của hai thế giới quan
triết học cơ bản đối lập nhau. Vì vậy, chúng
đóng vai trò là hạt nhân, là nền tảng thế giới
quan của các hệ tư tưởng đối lập nhau.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm trong triết học biểu hiện
bằng cách này hay cách khác cuộc đấu
tranh giữa những giai cấp, những lực lượng
xã hội đối lập nhau. Do đó, thế giới quan
đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh
quan tích cực giúp cho con người sáng tạo
trong hoạt động; ngược lại, thế giới quan
sai lầm làm cho con người sống thụ động
hoặc sai lệch trong hoạt động nói chung,
hoạt động khoa học nói riêng.
Về vai trò của triết học đối với các
khoa học, trước hết là cơ sở để giải thích
và định hướng nhận thức và hoạt động của
các khoa học. A. Einstein (A. Anh-xtanh)
đã từng nhận xét vào năm 1954 rằng,
những khó khăn mà nhà vật lý hiện nay
đang vấp phải trong lĩnh vực của mình đã

buộc ông ta phải đề cập đến những vấn đề
triết học nhiều hơn nhiều so với nhà vật lý
của các thế hệ trước. M. Plank - nhà vật lý,
cha đẻ của cơ học lượng tử khẳng định
rằng, thế giới quan của người nghiên cứu
luôn tham gia vào việc xác định hướng
nghiên cứu của người đó (Xem: Bộ Giáo
dục và Đào tạo, 2015, tr.168). Vì vậy,
nghiên cứu triết học giúp ta định hướng
hoàn thiện thế giới quan. M. Plank cũng có
nhận xét tương tự như A. Einstein: “Một
tập hợp những sự kiện mới càng rối rắm
bao nhiêu, các tư tưởng mới càng nhiều
hình nhiều vẻ bao nhiêu thì nhu cầu phải có
một thế giới quan liên kết lại càng cảm
thấy trở nên bức thiết bấy nhiêu. Xu hướng
tìm đến thế giới quan liên kết này có ý
nghĩa lớn lao không chỉ đối với vật lý học,
mà còn đối với toàn bộ khoa học tự nhiên”

(Dẫn theo: Lê Hữu Tầng, 2006, tr.21).
Như vậy, khi đi vào giải quyết những
vấn đề cụ thể của hoạt động nhận thức và
thực tiễn, người nghiên cứu sớm muộn sẽ
vấp phải những vấn đề chung, trong đó có
những vấn đề triết học mà việc giải quyết
chúng là cơ sở cho việc giải quyết các vấn
đề cụ thể của các khoa học.
Triết học có vai trò thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự phát triển của các khoa học. Vai trò

thúc đẩy hay kìm hãm của triết học đối với
các khoa học tùy thuộc vào nội dung và
bản chất của triết học ấy là tiến bộ hay lạc
hậu, cách mạng hay phản cách mạng, tích
cực hay tiêu cực.
Triết học sáng suốt dẫn đường cho các
khoa học phát minh, sáng chế. Lịch sử của
các khoa học cho thấy tất cả các phát minh
khoa học, nhất là những phát minh có ý
nghĩa vạch thời đại đều được định hướng
hay ảnh hưởng bởi những tư tưởng triết
học dẫn đường nào đó. Những hạn chế
trong tư tưởng triết học sẽ dẫn tới cản trở
sự phát triển của khoa học và thực tiễn.
Chính do ảnh hưởng của thế giới quan duy
tâm, tôn giáo nên đã xuất hiện thuyết “Địa
tâm” của Ptoleme (Ptô-lê-mê). Đặc biệt,
trong đêm trường trung cổ ở Tây Âu do sự
thống trị của tôn giáo và thần học, do ảnh
hưởng, chi phối của thế giới quan duy tâm
và chủ nghĩa kinh viện nên khoa học cũng
như thực tiễn trở nên trì trệ, không phát
triển trong suốt 11 thế kỷ.
Như vậy, các nhà khoa học không cần
phải nghi ngờ, dao động rằng triết học có
cần thiết hay không, mà cần phải tìm kiếm,
lựa chọn tư tưởng triết học nào dẫn đường,
chỉ lối, như Ph.Ăng-ghen đã nhấn mạnh:
“Vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi
một thứ triết học tồi tệ hợp mốt, hay họ

muốn được hướng dẫn bởi một hình thức
tư duy lý luận dựa trên sự hiểu biết về lịch
17


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 70 (04/2020)

sử tư tưởng và những thành tựu của nó”
(C.Mác và Ph.Ăng-ghen, tập 20, tr.693).
Triết học, dù là khác nhau trong các hệ
thống hay trường phái khác nhau nhưng
đều có cách lý giải nhất định về thế giới, từ
đó nội dung cốt lõi của nó bao giờ cũng
bao gồm những quan điểm lý luận chung
nhất về thế giới, về vị trí, vai trò của con
người trong thế giới đó. Trên cơ sở của sự
lý giải ấy, triết học trở thành cái định
hướng cho con người trong hành động,
củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi
cá nhân và cộng đồng.
Các quan điểm triết học giúp con
người nhận thức và hoạt động thực tiễn bao
giờ cũng xuất phát từ một lập trường nhất
định. Lập trường xuất phát ấy giúp con
người thấy trước được phương hướng vận
động chung của đối tượng, từ đó xác định
được con đường cần đi, phương hướng,
cách thức giải quyết vấn đề, tránh được

những mò mẫm, mù quáng. Và như vậy,
xuất phát từ những lập trường triết học
khác nhau, con người sẽ đi đến chỗ lựa
chọn những phương hướng và cách thức
giải quyết vấn đề một cách khác nhau.
Điều đó có nghĩa là, việc chấp nhận
hay không chấp nhận một lập trường triết
học nào đó không chỉ đơn thuần là đối với
một thế giới quan nhất định hay một cách
lý giải nhất định về thế giới, mà còn là sự
chấp nhận hay không chấp nhận một
phương pháp luận nhất định chỉ đạo hành
động. Vậy là, khi trở thành cái định hướng
cho con người trong hành động, triết học
thực hiện một chức năng khác - chức năng
phương pháp luận.
b. Vai trò phương pháp luận của triết
học đối với các khoa học
Vai trò phương pháp luận của triết học
đối với nhận thức và thực tiễn thể hiện ở
chỗ, nó đóng vai trò định hướng trong việc

chỉ đạo tìm kiếm, xây dựng, lựa chọn và
vận dụng các phương pháp để thực hiện
hoạt động nhận thức và thực tiễn sao cho
có hiệu quả nhất. Triết học trang bị cho con
người những nguyên tắc phương pháp luận
để chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực
tiễn của con người; đó chính là chức năng
phương pháp luận của triết học.

Theo nghĩa khoa học, phương pháp
(methodos) là hệ thống những nguyên tắc
được rút ra từ tri thức về các quy luật
khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện
mục tiêu nhất định.
Trong đời sống xã hội, để đạt được
mục đích đề ra, con người có thể sử dụng
nhiều phương pháp khác nhau để giải quyết
một công việc nào đó, nên luôn có xu
hướng đi tìm tòi, tìm kiếm các phương
pháp tối ưu nhất, giản đơn nhất, tiện lợi
nhất, tiết kiệm thời gian nhất, nhưng lại đạt
hiệu quả cao nhất. Để thỏa mãn nhu cầu ấy,
trong lĩnh vực nhận thức đã xuất hiện một
khoa học chuyên nghiên cứu về phương
pháp, xác định phạm vi và khả năng áp
dụng các phương pháp. Khoa học ấy, chính
là phương pháp luận.
Phương pháp luận (methodologie) là lý
luận về phương pháp, là khoa học về
phương pháp, là hệ thống các quan điểm,
nguyên lý chỉ đạo để xác định các nguyên
tắc hợp thành phương pháp, cũng như xác
định phạm vi và khả năng áp dụng các
phương pháp. Mỗi luận điểm triết học đồng
thời là một nguyên tắc trong việc xác định
phương pháp, phạm vi và khả năng áp
dụng các phương pháp. Triết học trang bị
cho con người có được phương pháp luận

chung nhất, giúp con người trở nên năng
động sáng tạo, chủ động hơn trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn, phù hợp với
xu hướng phát triển nói chung.
18


NGUYỄN NGỌC KHÁ

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Khi triết học giúp cho con người có
được cái nhìn tổng quát, có cách lý giải
đúng đắn về chiều hướng và về những biến
động trên thế giới, về xã hội, về bản thân
mình thì chính triết học đã giúp con người
có được sự định hướng đúng đắn trong
hành động và củng cố sự quyết tâm hành
động để đạt được mục đích của mình.
Chính triết học sẽ giúp con người rèn luyện
khả năng tư duy mềm dẻo, nhạy bén, vừa
là để tự nhận thức bản thân mình, vừa là để
nhận thức đúng đắn và chính xác hoàn
cảnh khách quan và dự báo được những
biến động của xã hội.
Triết học không chỉ giúp con người có
được cách nhìn nhận đúng đắn thế giới, mà
còn giúp con người có được khả năng đánh
giá những biến động đang diễn ra, gợi mở
cách đi, hướng giải quyết các vấn đề mà

cuộc sống đặt ra. Nó vừa thực hiện chức
năng giải thích thế giới và vừa góp phần
biến đổi thế giới.
Khẳng định trên đây cho thấy triết học
không phải là một cái gì xa xôi, viển vông;
ngược lại, nó gắn bó hết sức mật thiết với
cuộc sống, với thực tiễn và đặc biệt có giá
trị định hướng cho các khoa học. Sự phân
tích, lý giải triết học đối với các dữ liệu
khoa học cũng chính là sự nghiên cứu các
hiện tượng ở tầm khái quát. Triết học
không đi sâu giải quyết các vấn đề khoa
học cụ thể, mà đi sâu giải quyết các vấn đề
thuộc về lý luận phổ quát. Phát triển song
hành cùng các khoa học cụ thể, triết học
vạch ra logic của các quá trình nhận thức,
trở thành phương pháp luận phổ biến của
nhận thức khoa học.
Thực tiễn phát triển của triết học và
các khoa học đã chỉ ra rằng, triết học đi
trước các khoa học cụ thể trên nhiều lĩnh
vực, bằng những kết luận đúng đắn, bằng
những phỏng đoán và dự đoán mang tính

vượt thời đại, triết học đã vạch đường, cổ
vũ cho các khoa học tiến lên, định hướng
cho các khoa học phát triển, trang bị những
công cụ nhận thức để các khoa học khắc
phục những khó khăn, trở ngại trên con
đường phát triển của mình. Chẳng hạn: tư

tưởng về tính quy luật của sự phát triển đã
được nêu lên trong triết học sớm hơn nhiều
thế kỷ trước khi nó được chứng minh trong
các khoa học cụ thể; thuyết nguyên tử ra
đời sớm hơn hàng nghìn năm trước khi
nguyên tử được các khoa học phát hiện ra
trong thực tế; tư tưởng của V. I. Lênin về
tính vô tận, vô hạn trong cấu trúc vật chất
và tính đa dạng về chất của nó là cơ sở lý
luận phổ biến cho các khoa học xây dựng
bức tranh chung về thế giới.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại với sự phát triển nhanh chóng của
khoa học, cũng như những ứng dụng rộng
rãi của nó trong thực tiễn đã và đang làm
thay đổi sâu sắc đời sống con người. Con
đường duy nhất để khắc phục những giáo
điều, khuôn sáo, trì trệ là nắm chắc và vận
dụng đúng phép biện chứng duy vật, vì
phép biện chứng duy vật là phương pháp
luận phổ biến của nhận thức khoa học và
thực tiễn. Không phải ngẫu nhiên, Hồ Chí
Minh khẳng định: “Chủ nghĩa Mác có ưu
điểm là phương pháp làm việc biện chứng”
(Dẫn theo: Võ Nguyên Giáp (chủ biên),
2003, tr.43).
Như vậy, với vai trò thế giới quan và
phương pháp luận của mình, triết học đã
trở thành công cụ đắc lực cho sự phát triển
của các khoa học.

4. Vai trò của các khoa học đối với
triết học
a. Các khoa học cung cấp dữ liệu cho
triết học
Trong quá trình phát triển của mình,
triết học tự bản thân nó không trực tiếp
19


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 70 (04/2020)

nghiên cứu các sự vật, hiện tượng cụ thể,
mà nó sử dụng các kết quả đã đạt được
trong các khoa học khác, trong các tác
phẩm văn học, nghệ thuật, các chuẩn mực
đạo đức, thẩm mỹ… và bằng tư duy lý
luận khái quát hóa thành các luận điểm
triết học, hình thành các nguyên lý, phạm
trù, quy luật trong hệ thống lý luận của nó.
Tất cả những dữ liệu của các khoa học tạo
thành “tài liệu thực nghiệm” mà xuất phát
từ đó các kết luận triết học được rút ra và
quay trở lại phục vụ hoạt động nhận thức
và thực tiễn của con người.
Không phải ngẫu nhiên, từ kinh
nghiệm nghiên cứu của mình, N. Bohr cho
rằng, “vật lý học cần có triết học khái quát”
(Lê Hữu Tầng, 2006, tr.22), còn A.

Einstein và L. In-phen-đơ thì khẳng định:
“Các khái quát hóa triết học cần phải dựa
trên các kết quả khoa học. Tuy nhiên, một
khi đã xuất hiện và được truyền bá rộng
rãi, chúng thường rất ảnh hưởng đến sự
phát triển tiếp tục của tư tưởng khoa học
khi chúng chỉ ra một trong rất nhiều
phương hướng phát triển có thể có” (Lê
Hữu Tầng, 2006, tr.22).
Sự khái quát triết học có thể hình
thành nên những luận điểm triết học hoàn
toàn mới, có thể bổ sung thêm nội dung
mới cho những kết luận cũ, và cũng có thể
hình thành nên những phạm trù triết học
mới bổ sung vào hệ thống triết học của
mình. Sự tác động của các khoa học đối
với sự phát triển của triết học có thể tạo
nên phong cách tư duy triết học mới đáp
ứng nội dung của các khoa học và yêu cầu
của thực tiễn. Chẳng hạn:
Thuyết “Nhật tâm” của N. Copernic
(N. Cô-péc-ních) khẳng định trái đất không
phải là trung tâm của vũ trụ, mà chính mặt
trời mới là trung tâm của vũ trụ đã giáng
một đòn mạnh mẽ vào thế giới quan duy

tâm, tôn giáo, thần học ở thời kỳ Phục
hưng thế kỷ XV - XVI, mở đầu một thời kỳ
mới khoa học tách khỏi tôn giáo và thần
học.

Thuyết tiến hóa của Darwin (Đác-uyn)
cho rằng, các giống loài thực vật, động vật
không phải được sáng tạo bởi Thượng đế
hay “Đấng siêu nhiên”, mà là kết quả của
quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên
đã đánh đổ quan điểm duy tâm, thần luận,
mở ra một thời đại mới cho triết học và
nhận thức khoa học.
A. Einstein - một trong những nhà
khoa học xuất sắc nhất của thế kỷ XX
không ít lần chỉ rõ các khái quát triết học
cần dựa trên các kết quả khoa học. Thuyết
tương đối của ông - một phát minh vạch
thời đại, theo đó, tư tưởng về sự thống nhất
giữa vật chất với vận động, không gian và
thời gian mang ý nghĩa thế giới quan,
phương pháp luận khoa học sâu sắc và làm
tiền đề cho sự phát triển của triết học duy
vật biện chứng và các khoa học từ thế kỷ
XX trở đi.
Những phát minh vạch thời đại trong
khoa học tự nhiên cùng với những biến đổi
trong các khoa học lịch sử đã góp phần đưa
đến sự cáo chung hình thức cũ của chủ nghĩa
duy vật, tức chủ nghĩa duy vật siêu hình; nó
cần được thay thế bằng hình thức hiện đại
của chủ nghĩa duy vật, tức chủ nghĩa duy vật
biện chứng. Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ: “Mỗi
lần có một phát minh mang ý nghĩa thời đại
ngay cả trong lĩnh vực khoa học lịch sử – tự

nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại không tránh
khỏi thay đổi hình thức của nó” (C. Mác và
Ph. Ăng-ghen, 1995, tr.409).
Nếu trước đây “hệ thống” được coi chỉ
là khái niệm của các khoa học cụ thể,
phương pháp hệ thống chỉ là phương pháp
chung, thì giờ đây - với sự phát triển của
khoa học hiện đại, “hệ thống” đã trở thành
20


NGUYỄN NGỌC KHÁ

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

một phạm trù triết học, cặp phạm trù “hệ
thống – yếu tố” đã trở thành một trong các
cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng,
phương pháp hệ thống đã trở thành phương
pháp phổ biến của nhận thức và thực tiễn.
Ảnh hưởng của các khoa học đến sự
phát triển của triết học có thể diễn ra theo
hai xu hướng tích cực hoặc tiêu cực tùy
thuộc vào lập trường thế giới quan, phương
pháp luận của từng học thuyết triết học.
Nghĩa là, một học thuyết triết học với thế
giới quan, phương pháp luận mang tính
khoa học sẽ tiếp nhận các thành tựu khoa
học theo hướng tích cực; ngược lại, một
học thuyết triết học với thế giới quan,

phương pháp luận mang tính phản khoa
học sẽ tiếp nhận các thành tựu khoa học
theo hướng tiêu cực. Chẳng hạn, các thành
tựu khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX –
đầu thế kỷ XX đã làm bộc lộ những hạn
chế của bức tranh cũ về thế giới, tạo nên
“cuộc khủng hoảng vật lý học”. Các thành
tựu ấy đã bị các nhà triết học duy tâm, kể
cả một số nhà khoa học tự nhiên “giỏi về
khoa học nhưng kém cỏi về triết học” lợi
dụng, hoài nghi về phạm trù “vật chất”,
khẳng định “vật chất bị tiêu tan”, cho rằng
chủ nghĩa duy vật không còn cơ sở để tồn
tại. Chính vì không nắm vững bản chất của
tư duy biện chứng nên các nhà tư tưởng ấy
đã tìm đến chủ nghĩa hoài nghi rồi cho rằng
cần từ bỏ chủ nghĩa duy vật và thay thế
bằng “chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”.
Nhưng cũng với chính các phát minh
khoa học ấy, V. I. Lênin khẳng định rằng,
chỉ có nắm vững phép biện chứng duy vật
mới có thể thoát ra khỏi “cuộc khủng
hoảng vật lý học”. Từ lập trường của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, V. I. Lênin đã
phân tích một cách sâu sắc các thành tựu
của khoa học tự nhiên, phê phán quan điểm
duy tâm, siêu hình, nêu lên một định nghĩa

khoa học về vật chất. Trên cơ sở đó, ông đã
bảo vệ thành công, bổ sung, phát triển sáng

tạo chủ nghĩa duy vật biện chứng của C.
Mác trong thời đại của cuộc cách mạng
khoa học – công nghệ hiện đại.
Trong sự phát triển của các khoa học
hiện đại, cùng với xu hướng xuất hiện các
ngành khoa học mới, chuyên sâu, đồng thời
còn có xu hướng liên ngành, kết hợp nhiều
ngành với nhau thành một chỉnh thể thống
nhất. Tính chất tổng hợp, liên ngành của
khoa học hiện đại không chỉ thể hiện ở sự
kết hợp các ngành truyền thống thành các
khoa học mới như lý - hóa, hóa - lý, sinh hóa, hóa - sinh, sinh - tâm lý, sinh - vật lý,
địa - vật lý… mà còn là sự xích lại gần nhau
giữa các ngành khoa học tự nhiên và công
nghệ với các ngành khoa học xã hội và nhân
văn. Xu hướng liên kết này xuất phát từ
nguyên lý tính thống nhất vật chất của thế
giới, tính đa dạng, phức tạp của các hình
thức vận động của vật chất (thực chất các
khoa học là nghiên cứu các hình thức vận
động của vật chất). Chính sự liên kết giữa
các khoa học với nhau cho phép triết học
đưa ra một bức tranh chung nhất về thế giới,
khắc phục tính chất phân tán, manh mún
của các khoa học chuyên ngành, xác lập cơ
sở cho sự hợp tác trong nghiên cứu khoa
học. Ở phương diện này, từ các thành tựu
của các khoa học mà triết học thể hiện vai
trò “hạt nhân lý luận” kết nối các ngành
khoa học với nhau, là trung tâm phương

pháp luận khoa học, đem lại khả năng chủ
động và tích cực trong nghiên cứu khoa học.
Như vậy, từ các thành tựu mà các khoa
học đạt được, triết học có nhiệm vụ tổng
kết và khái quát thành các quan điểm lý
luận chung nhất về thế giới, về vị trí, vai
trò của con người trong thế giới đó. Tất
nhiên, trong mỗi khoa học cụ thể đều có sự
tổng kết, khái quát các tri thức khoa học
21


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 70 (04/2020)

thành các nguyên lý, quy luật nhất định,
nhưng những tổng kết, khái quát ấy được
giới hạn trong từng lĩnh vực cụ thể nhất
định. Đặc điểm của sự khái quát triết học là
mang tính chung nhất, phổ quát nhất về các
quy luật vận động, phát triển của tự nhiên,
xã hội và tư duy, làm cơ sở thế giới quan
và phương pháp luận cho mọi khoa học.
b. Các khoa học giúp kiểm chứng các
luận điểm triết học
Có thể xuất hiện câu hỏi: Liệu tri thức
triết học có đáng tin cậy không khi nó đóng
vai trò là cái định hướng cho hoạt động
nhận thức và thực tiễn của con người? Nếu

có thì cơ sở của sự tin cậy đó là gì?
Một điều rõ ràng rằng, triết học cũng
như các khoa học khác đều lấy thực tiễn làm
tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Vì vậy, một
mặt để xem xét tính chân lý của các tri thức
triết học cần phải lấy thực tiễn để kiểm
nghiệm, mặt khác chính vì các luận điểm
triết học là kết quả của sự khái quát những
thành tựu của các khoa học nên bản thân
chúng cũng là cái dữ liệu để kiểm chứng các
kết luận triết học. Hay nói cách khác, một
luận điểm triết học là đáng tin cậy khi nó
được thực tiễn kiểm nghiệm hoặc được các
khoa học khác chứng minh, được các tài
liệu thực nghiệm kiểm chứng.
Lịch sử khoa học tự nhiên cuối thế kỷ
XIX chứng tỏ rằng, thông qua các thành
tựu của nó, triết học đã khái quát lên
nguyên lý tính đa dạng về chất của thế giới
vật chất, cũng như những hình thức tương
tác giữa chúng. V. I. Lênin viết: “Điện tử
cũng vô cùng tận như nguyên tử; tự nhiên
là vô tận, nhưng nó lại tồn tại một cách vô
tận” (V. I. Lênin, 1980, tập 18, tr.323). Mặt
khác, sự phát triển của khoa học hiện đại
không chỉ làm sáng tỏ kết cấu của thế giới
vật chất và sự phản ánh chúng vào trong bộ
óc con người, mà còn xác nhận, kiểm

chứng quan điểm của chủ nghĩa duy vật

biện chứng về tính thống nhất vật chất của
thế giới, xác nhận tư tưởng của V. I. Lênin
về tính vô cùng tận của thế giới vật chất.
Nhiều thuộc tính đã biết của thế giới chỉ
còn mang tính chất tương đối khi người ta
hiểu biết sâu sắc hơn về thế giới, bởi vì,
“nếu như mức độ sâu sắc đó hôm qua chưa
vượt quá nguyên tử, hôm nay chưa vượt
quá điện tử và trường, thì chủ nghĩa duy
vật biện chứng nhấn mạnh tính chất tạm
thời, tương đối, gần đúng của tất cả những
cái mốc đó của sự nhận thức giới tự nhiên
bởi khoa học ngày càng tiến triển của con
người” (V. I. Lênin, 1980, tập 18, tr.323).
Với logic như vậy, vật lý học hiện đại
đi sâu vào nghiên cứu cấu trúc của nguyên
tử được cấu tạo từ các hạt cơ bản như thế
nào, chỉ ra chức năng, vai trò của các hạt
cơ bản ấy. Các hạt này được chia làm hai
nhóm lớn: nhóm hạt Fermion tạo ra vật
chất như các quarks trong hạt nhân nguyên
tử, các electron ở vỏ nguyên tử, và nhóm
các hạt Boson tạo ra trường lực như các
Gluon (hạt truyền lực mạnh), W & Z boson
(hạt truyền lực yếu), Photon (hạt truyền lực
điện từ) và Graviton - hạt truyền lực hấp
dẫn.v.v. (Xem: Bộ Giáo dục và Đào tạo,
2019, tr.270).
Ở phương diện này, những thành tựu
mới của khoa học hiện đại không những

không phủ định, mà càng khẳng định tính
khoa học, tính chân lý của triết học Mác Lênin về phương thức tồn tại và các thuộc
tính của vật chất, về tính vô cùng tận,
muôn hình muôn vẻ của thế giới vật chất.
Đó là cơ sở khoa học vững chắc cho sự
phát triển của triết học và các khoa học
hiện nay.
5. Kết luận
Triết học và các khoa học có mối quan
hệ biện chứng, mật thiết, thống nhất với
22


NGUYỄN NGỌC KHÁ

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Triết học
đóng vai trò là thế giới quan, phương pháp
luận phổ biến định hướng cho sự phát triển
của các khoa học cụ thể. Nhờ có sự định
hướng của triết học mà các khoa học có
phương hướng, mục đích, động cơ phát
triển rõ ràng, tránh những trở ngại về khách
quan cũng như chủ quan trên con đường
phát triển. Các khoa học cụ thể cung cấp
những thành tựu để từ đó triết học khái
quát thành những quan điểm triết học, đồng
thời những thành tựu này có giá trị kiểm
chứng các kết luận của triết học. Các khoa

học cụ thể tồn tại và phát triển không tách
rời triết học và ngược lại, triết học cần có
các thành tựu của các khoa học để làm giàu
kho tàng lý luận của mình, và quan trọng

hơn chỉ có như vậy, khoa học và triết học
mới đáp ứng được các yêu cầu phát triển
của đời sống xã hội.
Mối quan hệ giữa triết học và các khoa
học đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần
tránh cả hai thái cực: hoặc là xem thường
triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, mù
quáng, tùy tiện, dễ bằng lòng với những
biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất
phương hướng, thiếu nhìn xa trông rộng,
thiếu chủ động, sáng tạo trong nghiên cứu
khoa học và hoạt động thực tiễn; hoặc là
tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào
chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một cách máy
móc những nguyên lý, quy luật chung mà
không tính đến tình hình cụ thể, hậu quả là
sẽ khó tránh khỏi bị thất bại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2015). Giáo trình Triết học (Dùng cho khối không chuyên ngành
Triết học trình độ đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ các ngành khoa học tự nhiên, công nghệ). Hà
Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2019). Dự thảo Giáo trình Triết học Mác – Lênin (dành cho khối
chuyên lý luận chính trị). Hà Nội.
Nguyễn Trọng Chuẩn, Tô Duy Hợp, Lê Hữu Tầng, Nguyễn Duy Thông (chủ biên). (1977).

Vai trò của phương pháp luận triết học Mác-Lênin đối với sự phát triển của khoa học tự
nhiên. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.
Võ Nguyên Giáp (chủ biên). (2003). Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt
Nam. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
B.M. Ke-đrốp. (1976). Khái lược về lịch sử và lý luận phát triển khoa học. Hà Nội: NXB
Khoa học xã hội.
V. I. Lênin. (1980). V. I. Lênin toàn tập, tập 18. Mátxcơva: NXB Tiến bộ.
C. Mác và Ph. Ăng-ghen. (1995). C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 20. Hà Nội: NXB Chính
trị Quốc gia.
C. Mác và Ph. Ăng-ghen. (1995). C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 21. Hà Nội: NXB Chính
trị Quốc gia.
Nguyễn Duy Quý. (1998). Nhận thức thế giới vi mô. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.
Lê Hữu Tầng. (2006). “Triết học có thể đóng vai trò gì trong cuộc sống?”. Tạp chí Triết
học, số 6 (181). Hà Nội.
Ngày nhận bài: 27/02/2020

Biên tập xong: 15/4/2020
23

Duyệt đăng: 20/4/2020



×