Tải bản đầy đủ (.docx) (208 trang)

Vai trò của văn hóa thẩm mỹ đối với sự phát triển nhân cách sinh viên việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (691.88 KB, 208 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM
ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ
-------------------------------

LÊ THỊ THÙY DUNG

VAI TRÕ CỦA VĂN HOÁ THẨM MỸ ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Hµ Néi – 2013

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM
ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ
---------------------------------

LÊ THỊ THÙY DUNG

VAI TRÕ CỦA VĂN HOÁ THẨM MỸ ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN
VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: CNDVBC&CNDVLS
Mã số:
62 22 80 05



LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Văn Huyên

Hµ Néi – 2013

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là do tôi độc lập nghiên cứu, xây dựng
trên cơ sở tiếp thu ý tƣởng khoa học của những ngƣời nghiên cứu đi trƣớc
dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của GS.TS Nguyễn Văn Huyên.
Các cứ liệu nêu ra trong luận án là chính xác, trung thực dựa trên sự
tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu khoa học đã đƣợc công bố, bảo đảm tính
khách quan và khoa học.
Nghiên cứu sinh

Lê Thị Thùy Dung

3


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU…………………………………………………………..
B. NỘI DUNG………………………………………………………..18
Chƣơng 1. LÝ LUẬN VỀ VAI TRÕ CỦA VĂN HÓA THẨM
MỸ ĐỖI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN.......
1.1. Văn hoá thẩm mỹ, nhân cách, những nét tƣơng đồng giữa

văn hóa thẩm mỹ và nhân cách……………………………………..
1.2. Vai trò của văn hoá thẩm mỹ đối với sự phát triển nhân cách
sinh viên………………………………………………………………
Chƣơng 2. VAI TRÕ CỦA VĂN HÓA THẨM MỸ ĐỐI VỚI SỰ
PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN
NAY – THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA……….
2.1. Đặc điểm nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay……………
2.2. Sự phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay do văn
hóa thẩm mỹ mang lại thông qua hoạt động giảng dạy và học tập
2.3. Sự phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay do văn
hóa thẩm mỹ mang lại thông qua hoạt động chính trị - xã hội và
hoạt động vui chơi giải trí…………………………………………..
2.4. Sự phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay do văn
hóa thẩm mỹ mang lại thông qua môi trƣờng nhà trƣờng……….
2.5. Những vấn đề đặt ra trong sự phát triển nhân cách sinh viên
Việt Nam hiện nay do việc vận dụng, phát huy vai trò của văn
hóa thẩm mỹ chƣa tốt……………………………………………….
Chƣơng 3. PHƢƠNG PHƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA VĂN HÓA THẨM MỸ ĐỐI
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN VIỆT NAM
HIỆN NAY…………………………………………………………..

4


3.1. Phƣơng hƣớng phát huy vai trò của văn hoá thẩm mỹ đối với
sự phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay…………….
3.2. Những giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của văn hoá thẩm
mỹ đối với sự phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay
C. KẾT LUẬN……………………………………………………….

D. DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN………………………………………
E. TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………..

5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc nói riêng, thế hệ trẻ ngày càng có
vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng. Đại hội XI của Đảng đã xác định: “Chú
trọng xây dựng nhân cách con ngƣời Việt Nam về lý tƣởng, trí tuệ, đạo
đức, lối sống, thể chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp
hành pháp luật, nhất là trong thế hệ trẻ” [30, tr. 126]. Sinh viên là một bộ
phận ƣu tú trong thế hệ trẻ, nguồn bổ sung chủ yếu cho giới trí thức và là
hiện thân tƣơng lai của đất nƣớc. Nguyên Tổng bí thƣ Lê Khả Phiêu trong
Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Sinh viên Việt Nam lần thứ VI năm 1999 đã
xác định, sinh viên “là bộ phận trí tuệ và ƣu tú trong thế hệ thanh niên, nơi
kết tinh nhiều tài năng sáng tạo, là nguồn lao động có học vấn cao, có
chuyên môn sâu và đại bộ phận sinh viên sẽ trở thành trí thức của đất
nƣớc” [50, tr. 67]. Sự phát triển toàn diện của sinh viên chính là tiền đề cho
sự đóng góp tích cực của họ đối với tiến bộ xã hội.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xu thế hội nhập khu vực, hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ
và sôi động, sự phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học và công nghệ trên
thế giới đòi hỏi sinh viên Việt Nam phải nỗ lực rèn luyện, phấn đấu vƣơn lên
toàn diện về thể lực, trí lực, đạo đức, nhân cách, để đáp ứng yêu cầu của thời
đại, đƣa đất nƣớc từng bƣớc tiến kịp các nƣớc trong khu vực và trên thế giới.
Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Tập trung xây dựng đời sống, lối sống và môi

trƣờng văn hóa lành mạnh; coi trọng văn hoá trong lãnh đạo, quản lý, văn hoá
trong kinh doanh và văn hoá trong ứng xử” [30, tr. 126].

Tuy nhiên, trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay,
bên cạnh xu hƣớng tích cực và tiến bộ, nhiều yếu tố tiêu cực từ bên ngoài

6


cũng thâm nhập, tác động không nhỏ tới nhận thức và hành vi của một bộ
phận sinh viên nƣớc ta. Nhiều vấn đề có liên quan tới tƣ tƣởng, quan điểm,
lối sống, đạo đức, nhân cách của sinh viên đang bị suy thoái, lệch lạc; những
giá trị truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc đang có xu hƣớng bị sinh
viên xem nhẹ; việc tìm hiểu, phân tích và tiếp thu các xu hƣớng tƣ tƣởng và
trào lƣu của xã hội hiện đại trong sinh viên còn có phần cảm tính, thiếu cân
nhắc và chọn lọc….Tất cả những “lệch chuẩn” trong nhân cách ấy cần phải

đƣợc điều chỉnh để tạo ra những sinh viên đáp ứng đƣợc nhu cầu đòi hỏi
của thời đại.
Văn hóa thẩm mỹ hiện diện trong tất cả các hoạt động của con ngƣời,
đặc biệt nó tác động đến con ngƣời bằng cái đẹp và thông qua cái đẹp, trong
sự hài hoà với cái chân, cái thiện, cái có ích. Nó đánh thức không chỉ năng lực
thẩm mỹ mà toàn bộ năng lực sáng tạo tiềm ẩn, lay động những sợi dây tình
cảm tinh tế nhất của tâm hồn con ngƣời. Tác động thẩm mỹ làm nảy sinh nhu
cầu cảm thụ và sáng tạo cái đẹp không chỉ trong lĩnh vực nghệ thuật mà trong
toàn bộ hoạt động sản xuất vật chất và tinh thần. Nhờ đó, nó tác động đến toàn
bộ thế giới tinh thần, tình cảm của con ngƣời, góp phần hình thành và phát
triển nhân cách con ngƣời nói chung và sinh viên nói riêng.

Văn hoá thẩm mỹ và nhân cách là hai khía cạnh trong bản chất con

ngƣời, chúng có những nét đặc thù gần gũi. Văn hoá thẩm mỹ thống nhất
về bản chất với nhân cách cao đẹp. Văn hoá thẩm mỹ chính là sự đồng hoá,
thẩm mỹ hoá, văn hoá hoá bản chất con ngƣời, là sự sáng tạo mà quá trình
lịch sử chứa đựng xu hƣớng tự thoát khỏi cái thực dụng vật chất tầm
thƣờng, nhằm phát hiện và khẳng định một cách đầy đủ nhất bản chất
ngƣời, tức là bản chất xã hội của con ngƣời. Ở một trình độ phát triển cao,
mục đích của văn hoá thẩm mỹ trùng khớp với mục đích nhân hoá, văn hoá
hoá con ngƣời, xây dựng những nhân cách theo yêu cầu của xã hội.

7


Nghiên cứu, làm rõ bản chất và sức mạnh đặc thù của văn hóa thẩm
mỹ, từ đó làm rõ vai trò của văn hoá thẩm mỹ trong đời sống xã hội và phát
triển con ngƣời là một trong những nhiệm vụ quan trọng để góp phần xây
dựng và phát triển nhân cách của giới trí thức tƣơng lai, góp phần xây dựng
con ngƣời mới xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cho đến nay, vấn đề này chƣa
đƣợc quan tâm nghiên cứu đúng mức. Vì những lí do trên, việc đi sâu
nghiên cứu đề tài “Vai trò của văn hoá thẩm mỹ đối với sự phát triển
nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay” là một vấn đề có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn cấp thiết hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu về vấn đề văn hóa thẩm mỹ
Dƣới những hình thức và mức độ nhất định, vấn đề văn hóa thẩm mỹ
đã đƣợc đề cập đến từ xa xƣa trong lịch sử. Khái niệm văn hóa thẩm mỹ chỉ
đƣợc sử dụng phổ biến bắt đầu từ những năm 60, 70 của thế kỷ XX trong giới
nghiên cứu khoa học triết học, chuyên ngành mỹ học và văn hoá học.


Liên Xô trƣớc đây đã có những công trình nghiên cứu về văn hóa


thẩm mỹ. Công trình chuyên khảo của M.X Cagan “Văn hóa thẩm mỹ của con
ngƣời Xô Viết”- Trƣờng Đại học Tổng hợp Lêningrát (1976), đã khảo sát bản
chất của văn hoá thẩm mỹ, xem giáo dục thẩm mỹ nhƣ một phƣơng tiện hình
thành nhân cách và khẳng định vai trò của nghệ thuật trong sự phát triển nhân
cách của con ngƣời nói chung. Giáo trình “Cơ sở lý luận văn hóa Mác Lênin”, Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1983 của tập thể tác giả Liên Xô do giáo sƣ
A.I.Ácnônđốp chủ biên đã dành cả chƣơng XV để trình bày về “Văn hóa
thẩm mỹ xã hội chủ nghĩa”. Trong chƣơng này tác giả đã trình bày những
quan niệm chung nhất về văn hoá thẩm mỹ, chức năng và các lĩnh vực biểu
hiện của nó. Văn hoá nghệ thuật đƣợc xem là hạt nhân của văn hoá thẩm mỹ
và là một nội dung quan trọng trong nhiệm vụ giáo dục thẩm mỹ cho nhân

8


dân lao động. Tuy chƣa đƣa ra định nghĩa hoàn chỉnh song các tác giả đã
có quan niệm rõ nét về bản chất, chức năng, đặc thù của văn hoá thẩm mỹ.
Trong cuốn “ Nguyên lý mỹ học Mác- Lênin” của IU.A. Lukin và V.C.
Xcacherơsicôp, Nxb Sách giáo khoa Mác- Lênin, Hà Nội, 1984, các tác giả
cho rằng: “Văn hoá thẩm mỹ đƣợc hình thành bởi các giá trị thẩm mỹ”.


trong nƣớc cũng có nhiều tác giả nghiên cứu nhƣ: “Văn hóa thẩm

mỹ và nhân cách” của Lƣơng Quỳnh Khuê - Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1995. Ở công trình này tác giả đã đƣa ra khái niệm văn hóa thẩm mỹ là một
hệ thống chỉnh thể bao hàm bên trong nó những năng lực tinh thần – thực
tiễn đặc biệt giúp con người có khả năng hoạt động theo các quy luật của cái
đẹp nhằm cảm thụ, nhận thức, đánh giá, và sáng tạo trên các giá trị thẩm mỹ;
tác giả cũng đã phân tích cơ cấu nội tại của văn hóa thẩm mỹ bao gồm năng

lực thẩm mỹ, hoạt động thẩm mỹ và giá trị thẩm mỹ cũng nhƣ tác động của
chúng đối với sự phát triển các phẩm chất văn hóa của con ngƣời. Nguyễn
Văn Huyên cũng nghiên cứu về văn hóa thẩm mỹ với “Văn hóa thẩm mỹ và
văn hóa nghệ thuật nâng cao năng lực sáng tạo của con ngƣời” trong sách
“Văn hóa mới Việt Nam, sự thống nhất và đa dạng” – Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 1996; “Văn hóa thẩm mỹ và sự phát triển nhân cách con ngƣời Việt
Nam trong thế kỷ mới”, của nhiều tác giả do Nguyễn Văn Huyên chủ biên,
2001. Trong những công trình này, tác giả đã tiếp cận một cách toàn diện với
văn hoá thẩm mỹ trên ba bình diện: nhận thức luận, bản thể luận và giá trị luận
để thể hiện đầy đủ bản chất, cấu trúc và các tầng ý nghĩa của văn hóa thẩm
mỹ. Trong luận án tiến sĩ “Văn hóa thẩm mỹ và sự phát triển năng lực sáng tạo
của con ngƣời‟ của Nguyễn Ngọc Thu - Viện triết học, 1998, tác giả cho rằng,
văn hóa thẩm mỹ chính là sự thể hiện và thực hiện những năng lực thẩm mỹ
của con người trong toàn bộ các hoạt động xã hội của họ, là phương thức
thẩm mỹ của các hoạt động đó. Nguyễn Văn Phúc với “ Quan hệ giữa

9


cái thẩm mỹ và cái đạo đức trong cuộc sống và trong nghệ thuật”, 1997;
“Xây dựng và phát triển nền văn hoá thẩm mỹ ở nƣớc Cộng hoà Dân chủ
Nhân dân Lào trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế” của Xỉ Lửa
Bun Khăm- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2001; “Tính phổ
quát và tính đặc thù trong các khía cạnh thẩm mỹ của văn hóa” trong sách
“Đạo đức học - mỹ học và đời sống văn hóa nghệ thuật” của Đỗ Huy – Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội 2002; “Thị hiếu thẩm mỹ trong đời sống” của
Nguyễn Chƣơng Nhiếp, 2004; “Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm
mỹ” của Trần Túy, 2005; luận án tiến sĩ “Giáo dục thẩm mỹ với việc hình
thành lối sống văn hóa của thanh niên vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện
nay” của Lƣơng Thanh Tân – Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia

Hồ Chí Minh, 2009; “Vai trò của giáo dục thẩm mỹ trong xây dựng lối sống
văn hóa cho sinh viên trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp hiện nay” của Lƣơng
Thanh Tân, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2012… Các công trình trên có tính
chuyên sâu về mỹ học. Trên các bình diện khác nhau nhƣ triết học, thẩm
mỹ học, xã hội học, tâm lý học, văn hóa học… các tác giả đã đề cập đến
các vấn đề: khái niệm văn hóa, văn hóa thẩm mỹ; bản chất, cấu trúc và
chức năng của văn hóa thẩm mỹ; giá trị thẩm mỹ, vai trò của văn hóa thẩm
mỹ trong sự hình thành và phát triển con ngƣời. Đồng thời, các công trình
trên cũng đã đƣa ra một số phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao chất lƣợng và hiệu quả của văn hóa thẩm mỹ. Những công trình này đã
nghiên cứu vấn đề văn hóa thẩm mỹ dƣới nhiều góc độ khác nhau, trong đó
tập trung chủ yếu khai thác quan điểm mácxít về văn hóa thẩm mỹ. Những
công trình này có giá trị tham khảo rất cao đối với đề tài luận án.
Về khái niệm văn hóa thẩm mỹ: Chúng ta biết rằng, văn hóa thẩm mỹ
là một khía cạnh của văn hóa, đó là một phạm trù rất rộng, để làm rõ nó, cần
đƣợc nghiên cứu toàn diện từ nhiều khoa học khác nhau. Các công trình của

10


các nhà nghiên cứu trƣớc đã bàn khá kỹ lƣỡng về khái niệm, cấu trúc và vai
trò của văn hóa thẩm mỹ. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu thƣờng chỉ
đƣợc tiếp cận, phân tích từ một ngành khoa học cụ thể, cho nên nội hàm khái
niệm văn hóa thẩm mỹ chỉ đƣợc làm rõ ở khía cạnh mà từng công trình
nghiên cứu quan tâm; nó có thể đƣợc phân tích rất sâu từ khía cạnh tâm lý
học, nghệ thuật học, văn hóa học. Từ cách tiếp cận có tính tổng hợp phải nói
tới các công trình nghiên cứu từ triết học, chuyên ngành mỹ học. Đây là mảng
công trình có nhiều đóng góp vào làm rõ dần khái niệm văn hóa thẩm mỹ.

Về vai trò của văn hóa thẩm mỹ: Vai trò của văn hóa thẩm mỹ từ lý

luận chung đƣợc quan tâm bởi nhiều nhà triết học, trong đó có mỹ học ở
Liên Xô và một số nƣớc châu Âu. Kết quả nghiên cứu của họ làm cơ sở lý
luận cho nghiên cứu vấn đề này ở Việt Nam những năm qua, tuy nhiên các
công trình nghiên cứu ở Việt Nam cũng đi sâu vào lý thuyết. Các nhà
nghiên cứu tiền bối thƣờng chỉ đánh giá vai trò của văn hóa thẩm mỹ tới
nhân cách nói chung mà ít có tác giả đề cập tới vai trò của văn hóa thẩm
mỹ tới đối tƣợng hẹp là nhân cách sinh viên, kể cả các công trình nghiên
cứu dƣới dạng các bài báo cũng nhƣ các đề tài cấp nhà nƣớc.
2.2. Tình hình nghiên cứu về vấn đề nhân cách và nhân cách sinh
viên
Vấn đề nhân cách cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu. Năm 1984,
Nhà xuất bản sách giáo khoa Mác - Lênin đã xuất bản bộ sách “Chủ nghĩa xã
hội và nhân cách” của L.M.Ackhanghenxky do Đỗ Trọng Thiều và Đào Anh
San dịch. Bộ sách này gồm hai tập. Trong tập một, tác giả đƣa ra khái niệm
nhân cách, đặc trƣng của nhân cách Xã hội Chủ nghĩa và vai trò tích cực của
con ngƣời trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản. Trong tập hai, tác
giả trình bày sự phát triển nhân cách về mặt đạo đức, tự do và trách nhiệm của
nhân cách, giáo dục nhân cách trong tập thể lao động và những phƣơng pháp

11


giáo dục nhân cách xã hội chủ nghĩa. Năm 2004, Phạm Minh Hạc và Lê Đức
Phúc đồng chủ biên cuốn sách “Một số vấn đề nghiên cứu nhân cách”. Trong
cuốn sách này, các tác giả định nghĩa nhân cách theo cách tiếp cận hoạt động

– giá trị và đánh giá bằng độ trùng hợp của thang giá trị và thƣớc đo giá trị
của chủ thể và của xã hội với định nghĩa nhƣ sau: Nhân cách của con
người là hệ thống các thái độ của mỗi người thể hiện ở mức độ phù hợp
giữa thang giá trị và thước đo giá trị của người ấy với thang giá trị và

thước đo giá trị của cộng đồng và xã hội; độ phù hợp càng cao nhân cách
càng lớn . Trên cơ sở đó, các tác giả đã phân biệt khá rõ ràng những khái
niệm gần với nhân cách nhƣ con ngƣời, cá thể, cá nhân; Những công trình
trên đã bàn sâu về khái niệm, cấu trúc và đặc trƣng của sự hình thành nhân
cách nhƣng chủ yếu là đi vào lý luận về nhân cách con ngƣời nói chung,
chƣa đƣợc xem xét ở những đối tƣợng cụ thể. Chúng có giá trị tham khảo
rất cao về lý luận cho việc triển khai luận án này.
Một số tạp chí cũng có những bài viết về đề tài nhân cách nhƣ: “Những
phẩm chất nhân cách cần giáo dục cho sinh viên”, Mạc Văn Trang, Tạp chí
Nghiên cứu Đại học và Giáo dục Chuyên nghiệp, số 4 năm 1992; “Thẩm định
những chuẩn mực giá trị trên bình diện nhân cách” của Đỗ Huy, Tạp chí Triết
học, số 3 năm 1993; “Hình thành và phát triển nhân cách trong kinh tế thị
trƣờng” , Lê Đức Phúc, Tạp chí Cộng sản, số 6 năm 1995…
Một số luận án về nhân cách dƣới góc độ triết học và tâm lý học đã đƣợc
bảo vệ nhƣ: “Vai trò của đạo đức với sự hình thành nhân cách con ngƣời Việt
Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay”, Lê Thị Thuý, H.2000; “Những đặc điểm
nhân cách tạo thành uy tín của nữ giảng viên đại học đối với sinh viên”, Hoàng
Mộc Lan, H.2003; “Phát triển giá trị văn hoá trong nhân cách sĩ quan trẻ quân
đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, Nguyễn Xuân Trƣờng,

12


H.2005; “Định hƣớng giá trị nhân cách của học sinh trung học phổ thông”,
Nguyễn Thị Mai Lan, H. 2009; …
Một số công trình nghiên cứu khoa học công nghệ cấp nhà nƣớc có liên
quan tới đề tài nhân cách đã đƣợc thực hiện nhƣ Chƣơng trình KX07,
KXKH04. Chƣơng trình KX-07 “Con ngƣời Việt Nam - mục tiêu và động lực
của sự phát triển kinh tế - xã hội” có một số đề tài liên quan đến nhân cách
nhƣ: “Giá trị, định hƣớng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị”, Nguyễn

Quang Uẩn (chủ biên), H.1995; “Kết quả điều tra về vai trò của nhà trƣờng
trong việc hình thành và phát triển nhân cách con ngƣời Việt Nam”, Hoàng
Đức Nhuận (chủ biên), H.1995. Trong đó, đề tài nghiên cứu trực tiếp về nhân
cách là KX07-04 “Đặc trƣng và xu thế phát triển nhân cách con ngƣời Việt
Nam trong sự phát triển kinh tế - xã hội”. Đề tài này đã tiến hành nghiên cứu
nhân cách dƣới dạng nghiên cứu lý luận về nhân cách song song với điều tra
xã hội học trên cơ sở coi đặc trƣng của nhân cách con ngƣời Việt Nam thể
hiện trên ba mặt cơ bản là: định hƣớng giá trị, tiềm năng – khả năng – kỹ
năng; phẩm chất – nếp sống – thói quen. Tuy nhiên, đề tài này chƣa làm rõ vì
sao lại coi „hệ thống giá trị và định hƣớng giá trị là thành phần cơ bản và cốt
lõi của nhân cách” hay vì sao lại nghiên cứu nhân cách thông qua tiềm năng
– khả năng – kỹ năng và phẩm chất – nếp sống – thói quen. Trong chƣơng trình
KHXH-04, trực tiếp liên quan đến nhân cách có đề tài “Mô hình nhân cách con
ngƣời Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc”. Đề tài
này đã nghiên cứu về cơ sở lý luận của nhân cách bao gồm: khái niệm con
ngƣời, khái niệm nhân cách con ngƣời, cấu trúc nhân cách, con đƣờng hình
thành nhân cách và tìm hiểu về hiện trạng nhân cách con ngƣời Việt Nam bằng
trắc nghiệm Cattell 16 PF. Phần cơ sở lý luận của nghiên cứu nhân cách đƣợc
tiến hành công phu, nêu rõ đƣợc mục tiêu và xác định đƣợc giới hạn của đề tài,
song cũng nhƣ chƣơng trình KX07, đề tài này chƣa lý giải

13


đƣợc tại sao lại lựa chọn sử dụng trắc nghiệm Cattel 16 PF mà không phải
là trắc nghiệm khác nên độ thuyết phục chƣa cao, hơn nữa kết quả thu
đƣợc mới chỉ dừng lại ở việc có đƣợc những nhận xét riêng lẻ về các đặc
trƣng của nhân cách mà không đi đến một hiện trạng nhân cách toàn diện
của con ngƣời Việt Nam.
Tiếp nối các đề tài trên, chƣơng trình KX.05 đã đƣợc triển khai trong

giai đoạn 2001- 2005, trong chƣơng trình này, vấn đề con ngƣời, đặc biệt là
nghiên cứu giá trị xã hội và giá trị nhân cách là một trong những hƣớng
nghiên cứu chính. Đề tài nhánh KX.05.07 “Xây dựng con ngƣời Việt Nam
theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trƣờng, mở cửa
và hội nhập quốc tế” có nhiệm vụ chính là nghiên cứu các giá trị xã hội và giá
trị nhân cách ngƣời Việt Nam hiện nay để tìm ra cơ sở lý luận khoa học cho
việc xây dựng ngƣời Việt Nam theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa trong điều
kiện kinh tế thị trƣờng, mở cửa và hội nhập quốc tế. Kết quả nghiên cứu của
đề tài đã khẳng định, các giá trị nhân cách cơ bản: lòng yêu nƣớc, tự hào dân
tộc, lý tƣởng xã hội chủ nghĩa, niềm tin, bản lĩnh là những giá trị nhân cách
cơ bản đƣợc ngƣời Việt Nam hiện nay hƣớng tới.
Với đối tƣợng hẹp là nhân cách sinh viên cũng đã có một số tác giả bàn
đến nhƣ: Trần Sỹ Phán với luận án “Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành
và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”; “Giáo
dục nhân cách cho học sinh, sinh viên trong bối cảnh của cơ chế thị trƣờng”,
Phạm Thị Minh, T/c Tâm lý học, số 7 năm 2005, “Xây dựng nhân cách sinh
viên sƣ phạm phục vụ việc đào tạo nguồn nhân lực tỉnh Khánh Hòa”, luận án
tiến sĩ của Vũ Thị Kim Oanh, Hà Nội, 2011… Tuy nhiên, nhân cách sinh viên
mới chỉ đƣợc bàn đến ở khía cạnh đạo đức hoặc dƣới góc độ tâm lý học.
Trong đề tài “Mô hình nhân cách con ngƣời Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc” thuộc Chƣơng trình KHXH04 cũng

14


đƣa ra kết quả nghiên cứu nhân cách sinh viên bằng trắc nghiệm Cattel 16 PF
có tham khảo kết quả của một nghiên cứu so sánh xuyên văn hóa đặc trƣng
nhân cách của sinh viên Trung Quốc và Việt Nam của Phùng Đình Mẫn. Kết
quả của nghiên cứu này có giá trị tham khảo rất cao trong đề tài của chúng tôi.


Về đối tượng sinh viên: Ở Việt Nam, đối tƣợng sinh viên cũng đã
đƣợc các cơ quan chức năng nhƣ Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, Ban Tuyên giáo, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Thanh – Thiếu
niên và Nhi đồng của Quốc hội, Viện nghiên cứu Thanh niên, các trƣờng
đại học, cao đẳng và các tổ chức thế giới nhƣ Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF)… chọn làm đối tƣợng
nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu của các cơ quan, tổ chức này đã đề
cập tới vấn đề lý luận và thực tiễn căn bản liên quan tới sinh viên. Trong
thời gian gần đây, trƣớc tình hình nóng bỏng của các vấn đề tệ nạn xã hội
có liên quan tới sinh viên thì đối tƣợng sinh viên đƣợc quan tâm nghiên
cứu với mật độ dày đặc hơn. Nhiều kết quả điều tra, khảo sát đã đƣợc công
bố. Với mục đích nghiên cứu và góc độ nghiên cứu khác nhau, những công
trình nghiên cứu này chủ yếu đề cập tới lối sống, đạo đức của sinh viên
hiện nay. Những vấn đề lý luận về nhân cách sinh viên, đặc biệt là nhân
cách sinh viên hiện nay, chƣa đƣợc quan tâm đầy đủ.
2.3. Tình hình nghiên cứu về vai trò của văn hóa thẩm mỹ đối với
sự phát triển nhân cách sinh viên
Trong các sách giáo khoa về thẩm mỹ của các tác giả Liên Xô, sau các
phần về thẩm mỹ, văn hóa thẩm mỹ, còn có phần bàn về vai trò của văn hóa
thẩm mỹ đối với phát triển con ngƣời. Trƣớc hết phải kể đến các công trình
của IU.A. Lukin và V.C. Xcacherơsicôp, Iri Bôrep, Vanxlốp, Iuri Babuskin,
Egirốp, Ovxianicốp, v.v. Về vai trò của văn hóa thẩm mỹ và nghệ thuật đối
với phát triển con ngƣời phải kể đến các công trình của V.I. Kifasenkô,

15


Leizerov, Oderov, v.v Kế thừa và phát triển tƣ tƣởng của các nhà thẩm mỹ
Liên Xô, ở Việt Nam có một số nhà nghiên cứu đi sâu và mở rộng phạm vi
ứng dụng vai trò của văn hóa thẩm mỹ đối với phát triển con ngƣời Việt Nam

vào thập niên 70 – 80 của thế kỷ XX. Trƣớc hết, phải nói tới các công trình
thẩm mỹ của Vũ Khiêu, Đỗ Huy, Nhƣ Thiết, Phạm Khiêm Ích, Hoài Lam, Đỗ
Văn Khang. Vũ Khiêu có công trình: Đẹp – bàn về giáo dục thẩm mỹ cho
thanh niên thế hệ mới; Nhƣ Thiết bàn về quán triệt tính Đảng trong văn hóa
nghệ thuật; Đỗ Huy bàn về mấy vấn đề giáo dục thẩm mỹ. Lê Ngọc Trà,
Huỳnh Khái Vinh đi sâu vào vai trò của nghệ thuật trong phát triển nhân cách
con ngƣời nói chung, thanh niên nói riêng. Trƣờng Lƣu, Hồ Sĩ Vịnh đi sâu
vào giá trị văn hóa dân tộc và vai trò của nó đối với việc giữ gìn các giá trị
truyền thống Việt Nam. Nguyễn Văn Huyên khai thác giá trị thẩm mỹ từ góc
độ phản ánh luận, làm rõ sự tác động đặc thù của nó đối với sự gợi mở tính
năng sáng tạo của con ngƣời nói chung và phát triển các phẩm chất nhân cách
con ngƣời Việt Nam nói riêng. Đó là các công trình: Nghệ thuật với sự gợi
mở các tiềm năng sáng tạo của con ngƣời, trong sách “Văn hóa thẩm mỹ với
sự phát triển con ngƣời trong thế kỷ mới”, Nxb Văn hóa, 2001. Trong giáo
trình Mỹ học đại cƣơng, Nxb Chính trị Quốc gia, 2004, Nguyễn Văn Huyên
dành cả một chƣơng cho vấn đề vai trò của giá trị thẩm mỹ đối với phát triển
con ngƣời hiện nay, trong đó tác giả đã chứng minh giáo dục thẩm mỹ nói
chung, vai trò của giáo dục nghệ thuật nói riêng có ƣu thế đặc biệt, do đó có
sức mạnh đặc biệt trong sự phát triển các phẩm chất ngƣời; tác giả cũng đƣa
ra một số phƣơng thức và loại hình giáo dục thẩm mỹ trong điều kiện hiện tại.
Nhìn chung, các mảng vấn đề liên quan đến đề tài luận án đã đƣợc nhiều
nhà khoa học quan tâm và có nhiều công trình nghiên cứu hết sức sâu sắc, có giá
trị lớn về khoa học, đó là kho tài liệu quý báu làm cơ sở lý luận cho việc tham
khảo nghiên cứu, thực hiện luận án. Một số tác giả đã bàn đến vai trò của văn

16


hóa thẩm mỹ đối với sự phát triển con ngƣời nói chung. Tuy nhiên, cho đến
nay, vấn đề vai trò của văn hóa thẩm mỹ đối với sự phát triển nhân cách sinh

viên Việt Nam hiện nay hầu nhƣ vẫn còn bỏ ngỏ. Việc thực hiện đề tài mới có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách đối với việc phát triển con ngƣời mới xã
hội chủ nghĩa nói chung, nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở
Việt Nam hiện nay cần đƣợc kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu
của các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học tiền bối.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
-

Mục đích:

Trên cơ sở lý luận về văn hóa thẩm mỹ, nhân cách và vai trò của văn
hóa thẩm mỹ đối với sự phát triển nhân cách, luận án phân tích, làm rõ vai
trò của văn hoá thẩm mỹ đối với sự phát triển nhân cách sinh viên Việt
Nam hiện nay, từ đó đề xuất phƣơng hƣớng và một số giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy vai trò của văn hoá thẩm mỹ đối với sự phát triển nhân cách
sinh viên Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
-

Nhiệm vụ:

Để thực hiện đƣợc mục đích nêu trên, luận án tập trung giải quyết
những nhiệm vụ sau:
+

Làm rõ những vấn đề lý luận về văn hóa thẩm mỹ, nhân cách, tính

tƣơng đồng giữa văn hóa thẩm mỹ và nhân cách, chỉ ra vai trò của văn hóa
thẩm mỹ đối với sự phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam;
+


Phân tích thực trạng sự phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam

hiện nay do văn hóa thẩm mỹ mang lại, đồng thời, chỉ ra những vấn đề đặt
ra trong thực trạng ấy;

17


+

Đề ra phƣơng hƣớng và những giải pháp chủ yếu nhằm góp phần

phát huy vai trò của văn hoá thẩm mỹ đối với sự phát triển nhân cách sinh
viên Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
-

Cơ sở lý luận: Luận án đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ

nghĩa Mác –Lênin, đặc biệt là mỹ học Mác- Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
về văn hóa nghệ thuật và về xây dựng con ngƣời Việt Nam; đƣờng lối và
chính sách văn hóa, phát triển con ngƣời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
-

Phƣơng pháp luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy

vật lịch sử là phƣơng pháp luận của việc nghiên cứu, giải quyết các nhiệm
vụ, thực hiện mục đích của luận án.
-


Phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể: luận án sử dụng các phƣơng pháp

lịch sử và lôgíc, phƣơng pháp liên ngành, phân tích và tổng hợp, khái quát
hóa, gắn lý luận với thực tiễn….
5.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng: Văn hóa thẩm mỹ, vai trò của văn hóa thẩm mỹ trong các
trƣờng đại học, cao đẳng đối với sự phát triển nhân cách sinh viên Việt
Nam giai đoạn từ đổi mới đến nay.
Phạm vi: Văn hoá thẩm mỹ đối với sự phát triển nhân cách sinh viên có
thể đƣợc nghiên cứu ở nhiều góc độ, nhiều khía cạnh khác nhau: văn hóa dân
tộc; hoạt động sống; môi trƣờng xã hội; v.v. Trong khuôn khổ của luận án này,
tác giả chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích và làm rõ vai trò của văn hoá thẩm
mỹ đối với sự phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay thông qua
việc phân tích và đánh giá chất lƣợng giảng dạy, đào tạo của nhà trƣờng và
các hoạt động của sinh viên trong các trƣờng đại học, cao đẳng ở nƣớc ta.

18


6. Đóng góp mới về khoa học của luận án
-

Luận án phân tích một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về

văn hoá thẩm mỹ và nhân cách, chỉ ra tính tƣơng đồng giữa văn hóa thẩm
mỹ và nhân cách, từ đó, làm rõ vai trò của văn hóa thẩm mỹ đối với sự phát

triển nhân cách sinh viên Việt Nam;
-

Phân tích thực trạng sự phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam

hiện nay do văn hóa thẩm mỹ mang lại, đồng thời, chỉ ra những vấn đề đặt
ra trong thực trạng ấy;
-

Đề xuất và luận giải tính khả thi của một số giải pháp thiết thực

nhằm phát huy vai trò của văn hoá thẩm mỹ đối với sự phát triển nhân c
ách sinh viên Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
-

Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần phát triển lý luận về văn hoá

thẩm mỹ, nhân cách và vai trò của văn hoá thẩm mỹ đối với sự phát triển nhân
cách sinh viên nói riêng, con ngƣời Việt Nam nói chung hiện nay.

-

Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo

phục vụ công tác nghiên cứu, học tập và giảng dạy về văn hóa thẩm mỹ
trong các trƣờng đại học, cao đẳng. Luận án cũng có ý nghĩa gợi ý, khuyến
nghị đối với những ngƣời làm công tác quản lý văn hoá nghệ thuật, công
tác giáo dục đào tạo và những ngƣời hoạch định các chính sách xã hội
trong giai đoạn hiện nay.

8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
đƣợc kết cấu gồm 3 chƣơng, 9 tiết.

19


Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ VAI TRÕ CỦA VĂN HÓA THẨM MỸ ĐỐI VỚI SỰ
PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN
1.1. Văn hóa thẩm mỹ, nhân cách, những nét tƣơng đồng giữa
văn hóa thẩm mỹ và nhân cách
1.1.1. Văn hoá thẩm mỹ
1.1.1.1. Khái niệm và bản chất của văn hóa thẩm mỹ
Khi tìm hiểu về văn hoá thẩm mỹ dƣới các khía cạnh khác nhau, các
nhà nghiên cứu nƣớc ngoài và các nhà nghiên cứu Việt Nam đã đƣa ra nhiều
quan niệm về văn hoá thẩm mỹ. Nhƣ trong giáo trình “Cơ sở lý luận văn hoá
Mác-Lênin”, tập thể tác giả Liên Xô do A.I.Ácnônđốp chủ biên đã khẳng
định: “Văn hoá thẩm mỹ là một thành tố nằm trong hệ thống văn hoá tinh
thần. Chức năng đặc thù của văn hoá thẩm mỹ là đem lại cho chủ thể con
ngƣời một biểu tƣợng trực quan một hiện thực nhƣ lý tƣởng mong muốn” [1,
tr. 217]. Bằng cách liệt kê những lĩnh vực biểu hiện của văn hoá thẩm mỹ, hai
tác giả I.A.Lukin và Scacherơsicốp cho rằng, “văn hoá thẩm mỹ đƣợc hợp
thành bởi các giá trị thẩm mỹ (tức là bởi những giá trị thể hiện cái đẹp và cái
cao cả trong mọi hoạt động sống của con ngƣời nhƣ trong lĩnh vực lao động,
trong các quan hệ xã hội, trong giao tiếp, trong sinh hoạt, trong nghệ thuật);
bởi những tập quán, phƣơng thức, phƣơng tiện mà con ngƣời có đƣợc và sử
dụng để cảm thụ, nhận thức, chiếm lĩnh các giá trị này; bởi các năng lực tự
hoạt động sáng tạo đƣợc thực hiện trong các công trình lao động, khoa học và
nghệ thuật mang tính chất và ý nghĩa thẩm mỹ” [77, tr. 339].

Các nhà nghiên cứu Việt Nam, nhƣ Đỗ Huy trong cuốn “Mỹ học với tƣ
cách là một khoa học” coi văn hoá thẩm mỹ là biểu hiện tập trung của quan hệ
thẩm mỹ. Văn hoá thẩm mỹ chính là trình độ của con ngƣời trong thƣởng

20


thức, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ: “Văn hoá thẩm mỹ là sự thể hiện
những năng lực thẩm mỹ của bản chất con ngƣời. Đó là sự thể hiện toàn bộ
sức mạnh, khả năng sáng tạo có dự kiến của con ngƣời theo quy luật cái
đẹp. Trong quá trình thể hiện các lực lƣợng bản chất theo quy luật cái đẹp,
con ngƣời xác lập các quan hệ thẩm mỹ. Hành động lịch sử đầu tiên của
con ngƣời là thoả mãn nhu cầu thực dụng. Bản chất ngƣời là bản chất sáng
tạo. Con ngƣời khi sáng tạo ra đời sống xã hội thì nó cần tái sản xuất các
thể chất cá nhân. Nó tạo ra các hoạt động sống, kiểu sống nhất định, trạng
thái nhất định của hoạt động sống. Đó là quá trình hoàn thiện cuộc sống
vƣơn tới giá trị chân thiện mỹ” [55, tr. 73].
Mặc dù có những khác biệt trong chi tiết song các quan niệm trên đều
thống nhất ở chỗ cho rằng văn hoá thẩm mỹ là một phƣơng diện đặc thù của văn
hoá nói chung. Nó không có lĩnh vực tồn tại riêng mà hoà quyện vào nền văn
hoá, làm cho nền văn hoá đạt tới sự vận hành “theo quy luật của cái đẹp”. Nếu
văn hóa đƣợc hiểu nhƣ là mức độ biểu hiện và thực hiện các sức mạnh bản chất
của con ngƣời nhƣ là phƣơng thức nhân tính của các hoạt động đó thì văn hóa
thẩm mỹ chính là sự thể hiện và thực hiện các năng lực thẩm mỹ của con ngƣời
trong toàn bộ các hoạt động xã hội của họ, phƣơng thức thẩm mỹ của các hoạt
động đó. Tính đặc thù của văn hoá thẩm mỹ thể hiện ở nhân tố thẩm mỹ. Nó
đƣợc hình thành trong hoạt động thẩm mỹ, trong đời sống thẩm mỹ, do các nhu
cầu cảm thụ, nhận thức, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ của con ngƣời thôi thúc,
quy định và đến lƣợt mình, văn hoá thẩm mỹ lại là công cụ để con ngƣời cảm
thụ, nhận thức, đánh giá và sáng tạo các giá trị thẩm mỹ.


Văn hoá thẩm mỹ là khái niệm dùng để chỉ những giá trị đƣợc mang lại
từ những hoạt động của con ngƣời trong thƣởng thức, đánh giá và sáng tạo
các giá trị thẩm mỹ, nó biểu hiện một loại hình đặc thù, có trình độ tổng hợp
phát triển cao của văn hoá xã hội. Văn hóa thẩm mỹ là một bộ phận quan

21


trọng hợp thành và là bộ phận hữu cơ của nền văn hóa nhân loại. Văn hoá
thẩm mỹ thống nhất với văn hoá từ bản chất, đặc trƣng đến cấu trúc, đồng
thời văn hoá thẩm mỹ lại biểu hiện nhƣ một lĩnh vực văn hoá đặc thù – lĩnh
vực thẩm mỹ.
Văn hoá thẩm mỹ tồn tại trong mọi hoạt động của con ngƣời. Trong
đó, văn hoá nghệ thuật là hạt nhân của văn hoá thẩm mỹ. Bởi, mục đích
trực tiếp của sáng tạo nghệ thuật chính là việc thể hiện những năng lực tinh
thần, tình cảm, cảm quan, những quan điểm và lý tƣởng thẩm mỹ của con
ngƣời. Nói nhƣ vậy, không có nghĩa văn hoá thẩm mỹ chỉ tồn tại trong các
hoạt động nghệ thuật mà nó còn tồn tại trong những hoạt động ngoài nghệ
thuật của con ngƣời. Dù trong lĩnh vực sản xuất vật chất hay sản xuất tinh
thần thì bản chất của con ngƣời chính là năng lực sáng tạo một cách toàn
diện, vƣơn tới cái đẹp, cái hài hoà, hoàn mỹ. Hoạt động của con ngƣời bao
giờ cũng là hoạt động có đối tƣợng, kết quả cuối cùng của hoạt động thẩm
mỹ là việc tạo nên các giá trị thẩm mỹ. Do đó, ở đâu có hoạt động sống của
con ngƣời thì ở đó có văn hoá thẩm mỹ.
Kế thừa quan điểm của các nhà nghiên cứu đi trƣớc, tác giả nhận định:
văn hóa thẩm mỹ là một thể thống nhất hữu cơ các giá trị thẩm mỹ và hoạt
động sáng tạo thẩm mỹ của con ngƣời đang hiện thực hóa những năng lực
thẩm mỹ của họ, đồng thời, văn hóa thẩm mỹ còn là một hệ thống độc đáo
xuyên suốt tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội từ kinh tế, chính

trị, khoa học… đến các quan hệ, các giao tiếp của con ngƣời. Văn hoá thẩm
mỹ là một hệ thống chỉnh thể bao hàm bên trong nó những năng lực tinh thần
- thực tiễn đặc biệt, giúp con ngƣời có khả năng hoạt động theo các quy luật
của cái đẹp nhằm cảm thụ, nhận thức, đánh giá và sáng tạo các giá trị thẩm
mỹ. Nó góp phần to lớn vào việc giáo dục, xây dựng và phát triển nhu cầu

22


thẩm mỹ, ý thức thẩm mỹ, năng lực thẩm mỹ và tình cảm thẩm mỹ cho con
ngƣời, làm cho con ngƣời và xã hội ngày càng hoàn thiện hơn.
1.1.1.2. Cấu trúc của văn hóa thẩm mỹ
Các nhà nghiên cứu đƣa ra nhiều quan niệm về văn hoá thẩm mỹ thì
đồng thời cũng có nhiều cách phân chia cấu trúc của văn hoá thẩm mỹ. Các
giáo trình thẩm mỹ của các tác giả Liên xô và Việt Nam đều cho rằng văn
hoá thẩm mỹ đƣợc thể hiện trong các lĩnh vực chủ yếu, đó là khách thể
thẩm mỹ, chủ thể thẩm mỹ và nghệ thuật. Trong các công trình nghiên cứu
của mình, các nhà nghiên cứu mỹ học ở Việt Nam nhƣ: Hoài Lam, Đỗ
Huy, Đỗ Văn Khang, Nguyễn Văn Huyên, Lê Ngọc Trà … về cơ bản cũng
đồng quan điểm nhƣ trên. Theo Lƣơng Quỳnh Khuê, văn hoá thẩm mỹ bao
gồm: năng lực thẩm mỹ, hoạt động thẩm mỹ và các giá trị thẩm mỹ. Kế
thừa và phát triển các tƣ tƣởng nêu trên, chúng tôi cho rằng cấu trúc của
văn hoá thẩm mỹ bao gồm các yếu tố cơ bản sau: ý thức thẩm mỹ, năng lực
thẩm mỹ, hoạt động thẩm mỹ và giá trị thẩm mỹ.
Ý

thức thẩm mỹ là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong

quan hệ với nhu cầu thưởng thức thẩm mỹ nói chung và nhu cầu sáng tạo
cái đẹp nói riêng. Ý thức thẩm mỹ phản ánh đời sống hiện thực một cách

toàn vẹn, sinh động, đầy sắc thái tình cảm, nhằm đáp ứng nhu cầu thƣởng
thức, đánh giá và sáng tạo hiện thực. Tuy mang tính chất cảm tính, nhƣng ý
thức thẩm mỹ không đơn thuần chỉ là sự phản ánh các yếu tố thuộc hình
thức bề ngoài của sự vật, hiện tƣợng. “Sự độc đáo diệu kỳ của ý thức thẩm
mỹ chính là ở chỗ nó vừa giữ đƣợc những ấn tƣợng cảm tính phong phú
vừa đồng thời khái quát hoá, thâm nhập vào những mối liên hệ và quan hệ
bản chất ẩn kín của các hiện tƣợng” [95, tr. 110-111].
Ý

thức thẩm mỹ có vai trò to lớn trong hoạt động thẩm mỹ nói riêng

và trong toàn bộ sự nghiệp cải tạo thiên nhiên và xã hội của con ngƣời nói

23


chung. Thiếu đi sự dẫn dắt của nó con ngƣời sẽ không thực hiện đƣợc sự
“nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp”. Nó phản ánh tồn tại khách
quan trong dạng hình tƣợng - tình cảm nhằm đáp ứng nhu cầu sáng tạo
hiện thực theo quy luật của cái đẹp.
Hoạt động thẩm mỹ gắn liền với một loại năng lực đặc biệt, đó là
năng lực thẩm mỹ. Năng lực thẩm mỹ là một tập hợp các khả năng thể hiện
tâm lý, tư tưởng, tình cảm cũng như phẩm chất đặc biệt về thể chất và tinh
thần giúp cho con người có khả năng cảm thụ, nhận thức, đánh giá và sáng
tạo các giá trị thẩm mỹ. Năng lực thẩm mỹ là năng lực tinh thần, thực tiễn,
là phẩm chất bậc cao của con ngƣời và chỉ con ngƣời mới có. Mác viết:
“Thông qua sự phong phú đã đƣợc phát triển về mặt vật chất của con
ngƣời thì sự phong phú về tính cảm giác chủ quan của con ngƣời mới phát
triển và một phần, thậm chí lần đầu tiên mới sản sinh ra lỗ tai thính âm
nhạc, con mắt thấy đƣợc cái đẹp của hình thức – nói tóm lại là những cảm

giác có khả năng về hƣởng thụ có tính ngƣời và tự khẳng định mình nhƣ
một lực lƣợng bản chất của con ngƣời” [82, tr. 118].
Sự hình thành và phát triển năng lực thẩm mỹ ở con ngƣời là cả một
quá trình học tập và rèn luyện. Ở một khía cạnh khác, năng lực thẩm mỹ
còn đƣợc hình thành từ yếu tố năng khiếu bẩm sinh. Song, nó đƣợc giải
thích một cách biện chứng và khoa học. Thực tiễn cũng đã chứng minh
rằng, năng khiếu chỉ là dấu hiệu của tài năng còn hoạt động thực tiễn mới là
yếu tố quyết định cho sự phát triển của năng lực và tài năng. Hoạt động
thẩm mỹ cũng không nằm ngoài quy luật ấy.
Hoạt động thẩm mỹ là khái niệm phản ánh các hoạt động của con
người do nhu cầu thẩm mỹ và mục đích thẩm mỹ quy định nhằm tạo ra một
giá trị thẩm mỹ nhất định. Đây là hoạt động đặc biệt chỉ có ở con ngƣời, biểu
hiện sâu sắc những phẩm chất văn hoá của hoạt động ngƣời nói chung nhằm

24


khám phá, nhận thức, thấu hiểu, chiếm lĩnh, đánh giá và sáng tạo thế giới
một cách thẩm mỹ.
Hoạt động thẩm mỹ chính là việc đƣa các yếu tố thẩm mỹ vào các
lĩnh vực khác nhau của hoạt động ngƣời nhằm trau dồi sự sâu sắc, tinh tế
về phƣơng diện thẩm mỹ trong toàn bộ hoạt động đời sống con ngƣời.
Chính với nghĩa này mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, văn hoá không bao
giờ tồn tại dƣới những hình thức thô thiển; văn hoá nào cũng là văn hoá
thẩm mỹ. Hoạt động thẩm mỹ chính là sự biểu hiện sâu sắc của tính sáng
tạo, tính tự do và khuynh hƣớng vƣơn tới cái đẹp.
Hoạt động thẩm mỹ, nhƣ đã phân tích ở trên, là loại hoạt động dù
vƣợt thoát thế giới hiện thực, nhƣng bao giờ cũng hƣớng tới thế giới hiện
thực; nó vừa khám phá vẻ đẹp của thế giới hiện thực, vừa thẩm mỹ hoá nó
vì sự hoàn thiện của thế giới và vừa vì sự hoàn thiện của con ngƣời. Cho

nên, hoạt động thẩm mỹ vừa là một thành tố của văn hóa thẩm mỹ, vừa
sáng tạo ra giá trị thẩm mỹ.
Giá trị thẩm mỹ là kết quả của quá trình hoạt động thưởng thức,
đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ của chủ thể thẩm mỹ. Giá trị thẩm mỹ là một
loại giá trị tinh thần thể hiện quan hệ giữa đối tƣợng thẩm mỹ và chủ thể
thẩm mỹ, ở đó chứa đựng xúc cảm, tình cảm, lý tƣởng thẩm mỹ, phản ánh
các chuẩn mực cuộc sống theo khát vọng chân – thiện – mỹ.
Chúng tôi đồng quan điểm với các nhà nghiên cứu đi trƣớc cho rằng:
giá trị thẩm mỹ mang tính chủ quan cảm tính của chủ thể thẩm mỹ. Cùng
một đối tƣợng thẩm mỹ nhƣng dƣới lăng kính của những chủ thể thẩm mỹ
khác nhau sẽ đem lại những giá trị thẩm mỹ khác nhau. Bản thân sự đánh
giá của chủ thể thẩm mỹ không tạo nên giá trị thẩm mỹ nhƣng mọi giá trị
thẩm mỹ đều phải thông qua sự đánh giá của chủ thể thẩm mỹ thì giá trị
thẩm mỹ mới đƣợc xác định.

25


×