Tải bản đầy đủ (.docx) (191 trang)

Hiện tượng tôn giáo mới ở một số tỉnh đồng bằng bắc bộ hiện nay luận án TS triết học 62 22 03 02

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (780.06 KB, 191 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------

VŨ VĂN CHUNG

"HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO MỚI"
Ở MỘT SỐ TỈNH ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ HIỆN NAY
Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 62 22 03 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Chủ tịch hội đồng:

GS.TS.NGND. Nguyễn Hữu Vui

Hà Nội - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng. Các kết luận khoa
học của luận án chưa từng được công bố trên bất
kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án

Vũ Văn Chung

2




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU.............................................. 5
1.1. Nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới và Việt Nam.......5
1.1.1. Nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới................................. 5
1.1.2. Nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo mới” ở Việt Nam.................................. 9
1.2. Nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo mới” ở vùng đồng bằng Bắc Bộ....14
1.2.1. Các đề tài, công trình nghiên cứu các cấp......................................................... 14
1.2.2. Tài liệu điền dã khảo sát về “hiện tượng tôn giáo mới” ở đồng bằng
Bắc Bộ......................................................................................................................................... 19
1.3. Nghiên cứu về thái độ, cách thức ứng xử đối với hiện tượng tôn giáo
mới ở trong và ngoài nước.................................................................................................... 20
1.4. Các vấn đề nghiên cứu đặt ra, khung lý thuyết và một số khái niệm
công cụ nghiên cứu................................................................................................................... 23
1.4.1. Các vấn đề nghiên cứu đặt ra................................................................................. 23
1.4.2. Khung lý thuyết nghiên cứu................................................................................... 25
1.4.3. Một số khái niệm công cụ của luận án............................................................... 28
Chương 2: “HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO MỚI” TRÊN THẾ GIỚI VÀ
VIỆT NAM........................................................................................................................................ 34
2.1. “Hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới............................................................... 34
2.1.1. Sự ra đời và phát triển của “hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới.......34
2.1.2. Sự phân loại, đặc trưng của “hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới.....45
2.1.3. Một số “hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới.............................................. 51
2.2. “Hiện tượng tôn giáo mới” ở Việt Nam................................................................. 54
2.2.1. Sự ra đời và phát triển của “hiện tượng tôn giáo mới” ở Việt Nam........54
2.2.2. Phân loại và đặc trưng của “hiện tượng tôn giáo mới” ở Việt Nam........64
Tiểu kết chương 2:.................................................................................................................... 72
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA “HIỆN TƯỢNG TÔN

GIÁO MỚI” Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ HIỆN NAY.................................................. 74
3.1. Điều kiện ra đời và phát triển của “hiện tượng tôn giáo mới” ở đồng
bằng Bắc Bộ hiện nay.............................................................................................................. 74
3.1.1. Đồng bằng Bắc Bộ tồn tại nhiều hình thức tín ngưỡng thờ cúng dân
gian, đặc biệt là tín ngưỡng thờ Mẫu............................................................................... 74

3


3.1.2. Đồng bằng Bắc Bộ là nơi tồn tại nhiều tôn giáo đặc biệt là Phật giáo .......
3.1.3. Tâm thức của cư dân đồng bằng Bắc Bộ nói riêng và cư dân Việt nói
chung với tín ngưỡng, tôn giáo là đa phức, nên một bộ phận dễ tiếp nhận hiện
tượng tôn giáo mới ...........................................................................................
3.2. Thực trạng “hiện tượng tôn giáo mới” ở một số tỉnh thành đồng Bằng
Bắc Bộ hiện nay .................................................................................................
3.2.1. Thực trạng “hiện tượng tôn giáo mới” nội sinh .....................................
3.2.2. Thực trạng “hiện tượng tôn giáo mới” ngoại nhập ..............................
3.3. Tác động của “hiện tượng tôn giáo mới” tới đời sống ở một số tỉnh đồng
bằng Bắc Bộ hiện nay ......................................................................................
3.3.1. Tác động tới đời sống chính trị - xã hội ..............................................
3.3.2. Tác động tới đời sống kinh tế ..............................................................
3.3.3. Tác động tới đời sống văn hóa, đạo đức ..............................................
Tiểu kết chương 3:...............................................................................................
Chương 4: DỰ BÁO XU HƯỚNG CỦA “HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO MỚI”
Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ .......
4.1. Cơ sở dự báo xu hướng biến đổi “hiện tượng tôn giáo mới” ở một số
tỉnh thành đồng bằng Bắc Bộ hiện nay .........................................................
4.2. Xu hướng biến đổi của “hiện tượng tôn giáo mới” ở một số tỉnh đồng
bằng Bắc Bộ hiện nay ......................................................................................
4.2.1. Tính tất yếu của sự đa dạng hóa “hiện tượng tôn giáo mới” ...................

4.2.2. Cải biến những yếu tố cực đoan, phản văn hóa, đạo đức để tồn tại ....
4.2.3. Sự mở rộng địa bàn hoạt động của “hiện tượng tôn giáo mới” ở một số
tầng lớp nhân dân ...........................................................................................
4.3. Một số vấn đề đặt ra và khuyến nghị đối với “hiện tượng tôn giáo mới”

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN

PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1. Nguyên nhân theo đạo của tín đồ Ngọc Phật Hồ Chí Minh và Bà Điền ở
một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ...........................................................113
Bảng 3.2. Ý kiến của địa phương về nguyên nhân theo đạo bà Điền và Ngọc Phật
Hồ Chí Minh tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.................................113
Bảng 3.3. Ý kiến của địa phương về tác động tiêu cực của đạo bà Điền và Ngọc
Phật Hồ Chí Minh tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.........................115
Bảng 3.4. Ý kiến của địa phương về tác động tích cực của đạo bà Điền và Ngọc
Phật Hồ Chí Minh tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.........................119
Bảng 3.5. Ý kiến của tín đồ về tác động tích cực của đạo bà Điền và Ngọc Phật Hồ
Chí Minh tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ......................................120
Bảng 3.6. Ý kiến của tín đồ về mức tiền đóng góp cho các hoạt động của đạo bà
Điền và Ngọc Phật Hồ Chí Minh tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ .. 120

Bảng 3.7. Ý kiến của tín đồ về tôn giáo đã tin trước khi theo đạo bà Điền và Ngọc
Phật Hồ Chí Minh tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.........................124
Bảng 3.8. Ý kiến của tín đồ về mức độ tham gia sinh hoạt thờ cúng đạo bà Điền và
Ngọc Phật Hồ Chí Minh tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ...............125
Bảng 3.9. Ý kiến của tín đồ về tổ chức hoạt động của đạo bà Điền và Ngọc Phật
Hồ Chí Minh tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.................................126

Bảng 3.10. Ý kiến của tín đồ đạo bà Điền và Ngọc Phật Hồ Chí Minh về đời sống
kinh tế - xã hội tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ..............................132
Bảng 3.11. Ý kiến của tín đồ đạo bà Điền và Ngọc Phật Hồ Chí Minh về điều kiện
để nhà nước thừa nhận hoạt động tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ . 133

Bảng 3.12. Ý kiến của tín đồ đạo bà Điền và Ngọc Phật Hồ Chí Minh về nhận thức
trách nhiệm công dân của mình tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.....134
Biểu đồ 1: Nguyên nhân theo đạo........................................................................ 114
Biểu đồ 2. Yếu tố để được Nhà nước thừa nhận tư cách pháp nhân........................... 148

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Hiện tượng tôn giáo mới” xuất hiện từ nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, từ thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay

cũng đã có hơn 70 – 80 hiện tượng tôn giáo mới, chúng hiện hữu trong đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo nước ta. Hiện nay, các hiện tượng tôn giáo mới rất đa dạng, với
những hoạt động hết sức phức tạp gây ảnh hưởng xấu không chỉ đến đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo mà còn tạo nên những hệ lụy về kinh tế-xã hội và chính trị. Tất
cả những hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện ở nước ta đều chưa được thừa nhận tư
cách pháp nhân hoạt động, việc nhận diện hoạt động của chúng còn rất khó khăn.
Đồng bằng Bắc Bộ là vùng kinh tế trọng điểm lớn của cả nước có điều kiện địa
lí, tự nhiên, kinh tế xã hội khá thuận lợi. Khu vực này gồm 11 tỉnh thành với thủ đô
Hà Nội là trái tim của cả nước, trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị, khoa học kỹ thuật
và công nghệ... quan trọng. Thời gian qua, ở nhiều tỉnh thành trong vùng cũng xuất
hiện các hiện tượng tôn giáo mới như: Long Hoa Di Lặc, Ngọc Phật Hồ Chí Minh,
Thanh Hải Vô Thượng Sư, Chân Không, đạo Mẫu Lạc Hồng Âu Cơ, đạo Hoàng Thiên

Long, Pháp Luân Công... Các “hiện tượng tôn giáo mới” phát triển nơi đây cho thấy
rằng: trào lưu tôn giáo mới gắn với những biến động của thế giới cũng đã xuất hiện ở
nước ta nói chung và đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Mặc dù mới chớm nở, nhưng số
các “hiện tượng tôn giáo mới” có tới vài chục tên gọi khác nhau, biểu hiện hỗn tạp.
Cho đến nay, chưa có sự thống kê đầy đủ nào về các đạo lạ và số l-ượng người tin
theo. Tên gọi của từng “hiện tượng tôn giáo mới” ở mỗi địa bàn lại khác nhau dù
chúng chỉ là một, gây ra những nhầm lẫn trong thống kê số lượng các đạo lạ từ các địa
phương, cơ sở. Các đạo lạ này đều không được chính quyền các cấp công nhận, do
tính chất và tiêu chí hoạt động tôn giáo không rõ ràng, thường lén lút tụ tập sinh hoạt
bất hợp pháp, trong đó, có một số “hiện tượng tôn giáo mới” có thể coi là tà đạo. Đặc
biệt, ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ, các “hiện tượng tôn giáo mới” xuất hiện đều có
những đặc trưng riêng so với các khu vực miền Trung và miền Nam. Miền Bắc có rất
nhiều “hiện tượng tôn giáo mới” có nguồn gốc từ tín ngưỡng dân gian, đặc biệt là từ
các hình thức của Đạo Mẫu.

1


Sự xuất hiện của “hiện tượng tôn giáo mới” ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ
trong những năm gần đây, phần nào cũng là liều thuốc tinh thần cho một số người,
nhóm người có hoàn cảnh khó khăn, éo le, rủi ro tìm được bệ đỡ về niềm tin, an ủi
trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, những tác động tiêu cực của “hiện tượng tôn giáo
mới” tới đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, trật tự an toàn xã hội là rất đáng kể.
Đặc biệt là, hiện nay, cùng với việc cả nước đang bước vào thời kỳ mở cửa, hội
nhập vào thế giới với sự chi phối của kinh tế thị trường, xu hướng biến đổi của các
“hiện tượng tôn giáo mới” trong cả nước nói chung và khu vực đồng bằng Bắc Bộ
là rất khó đoán định, đặt ra nhiều vấn đề khó khăn cho công tác quản lý và hoạch
định chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm
hiểu tôn giáo mới về lý luận và thực tiễn là rất cần thiết, hữu ích.
Chính vì những lý do nêu trên, bằng phương pháp tiếp cận từ chuyên ngành

CNDVBC & CNDVLS, chúng tôi chọn vấn đề: “Hiện tượng tôn giáo mới” ở
một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ hiện nay làm đề tài nghiên cứu cho luận án của
mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.

Mục đích nghiên cứu: Phân tích sự hình thành, thực trạng và những tác động
của các “hiện tượng tôn giáo mới” ở một số tỉnh thành phố vùng đồng bằng Bắc
Bộ hiện nay để từ đó nhận thức được những đặc trưng cơ bản của nó và nêu ra
những quan điểm, khuyến nghị nhằm xây dựng chính sách ứng xử phù hợp với
chúng.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích trên, luận án này có ba
nhiệm vụ được đặt ra cần giải quyết:
Một là, tổng quan chung về “hiện tượng tôn giáo mới” và vùng đổng bằng
Bắc Bộ hiện nay.
Hai là, phân tích thực trạng, tác động của “hiện tượng tôn giáo mới” vùng
đồng bằng Bắc Bộ hiện nay.
Ba là, dự báo về xu hướng biến động, một số vấn đề đặt ra và khuyến nghị
đối với “hiện tượng tôn giáo mới” ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay.

2


3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện dựa trên lý luận Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, nhân học, xã hội học, văn hóa học về tôn giáo.
Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
liên ngành trong khoa học xã hội nhân văn như: Triết học và Tôn giáo học, phương
pháp DVBC&DVLS, thống nhất lôgíc – lịch sử, phân tích và tổng hợp tài liệu,
phương pháp xã hội học: điền dã, phỏng vấn và điều tra… về “hiện tượng tôn giáo
mới”. Luận án cũng sử dụng kết quả của các công trình nghiên cứu đã công bố có

liên quan đến đề tài.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận án xác định đối tượng nghiên cứu là một số
“hiện tượng tôn giáo mới” ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Về không gian, luận án lựa chọn một số tỉnh thành phố
tiêu biểu ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ có xuất hiện những “hiện tượng tôn giáo
mới” như: Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Nam Định. Về thời gian, luận án tìm
hiểu về các “hiện tượng tôn giáo mới” từ năm 1990 cho đến nay. Về mẫu điển
hình: Nhóm tôn giáo mới liên quan đến thờ cúng Hồ Chí Minh, Long Hoa Di Lặc,
Pháp Luân Công và Thanh Hải Vô Thượng Sư.
5. Đóng góp của luận án
Phân tích điều kiện và các tiền đề xuất hiện, phân loại, đặc trưng và nêu thực
trạng hoạt động của một số “hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới và Việt Nam
nói chung, ở một số tỉnh thành phố của đồng bằng Bắc bộ hiện nay nói riêng.
Trên cơ sở đó luận án đánh giá những tác động của chúng đối với đời sống xã
hội, xu hướng biến động, những vấn đề đặt ra và đề xuất một số khuyến nghị ứng
xử từ hoạt động của “hiện tượng tôn giáo mới” ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chính sách tôn
giáo của Đảng và Nhà nước ta đối với tôn giáo nói chung, “hiện tượng tôn giáo
mới” nói riêng. Luận án còn có thể làm tài liệu cho việc nghiên cứu và giảng dạy
về “hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới và Việt Nam.
3


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: Dựa trên những tư liệu, nghiên cứu của các học giả, quan

điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tôn giáo nói chung và “hiện
tượng tôn giáo mới” nói riêng, luận án phân tích, rút ra các đặc trưng và nhận diện
về “hiện tượng tôn giáo mới” hiện nay.

Ý nghĩa thực tiễn: Luận án khảo sát thực trạng hoạt động, đánh giá tác động

của một số “hiện tượng tôn giáo mới” ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ và đưa ra xu
hướng biến động, những vấn đề đặt ra, đề xuất khuyến nghị ứng xử nhằm hạn chế
những tác động tiêu cực của “hiện tượng tôn giáo mới” đối với đời sống xã hội ở
Việt Nam.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận án gồm 4 chương 12 tiết.

4


Chương 1:
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới và Việt Nam
1.1.1. Nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới
Nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo mới” trên thế giới là mảng đề tài được
giới học giả phương Đông và phương Tây khá chú trọng. Là một vấn đề phức tạp
và nhạy cảm, vì vậy, có nhiều quan điểm khác nhau, các tranh luận sôi nổi khi đưa
ra khung lý thuyết về “hiện tượng tôn giáo mới”. Có thể kể đến một số tư liệu tiêu
biểu được viết bằng cả tiếng Anh và tiếng Việt của các tác giả sau đây:
- Bryan Wilson và Jamie Cresswell (2001): New Religious Movements Challenge and response (Phong trào tôn giáo mới – thách thức và phản ứng), In
association with the Institue of Oriental Philosophy European Centre, London and
New York. Cuốn sách này được viết bằng tiếng Anh, tập trung vào phân tích những
phản ứng không chỉ của cá nhân, mà đặc biệt là các thể chế của xã hội đương đại
đối với những tác động của hiện tượng tôn giáo mới, ảnh hưởng và hậu quả xã hội
của các tôn giáo mới. Các tôn giáo mới rất thành công trong việc gây ảnh hưởng
rộng lớn để được nhiều người biết đến, nhưng là một thực thể tôn giáo phi chính
thống, tôn giáo mới phải mất một thời gian dài để được cộng đồng nói chung chấp

nhận. Không chỉ dừng lại ở việc xem xét quan niệm ủng hộ của những người theo
tôn giáo mới và những phản ứng phê phán tôn giáo mới, cuốn sách còn đề cập đến
một vấn đề lớn đó là mối quan hệ giữa các tôn giáo mới với các thể chế chính của
xã hội đương đại.
- Mary Farrell Bednarowski (1989), New Religion and the Theological

Imagination in America (Tôn giáo mới và tư tưởng thần học của chúng ở Mỹ),
Indiana University press Bloomington and Indianapolis. Được viết bằng tiếng Anh,
nội dung cập đến những khía cạnh thần học trong các tôn giáo mới ở Mỹ. Đây là
một trong những nghiên cứu mang tính đột phá của tác giá trong vấn đề so sánh
nghiên cứu các phong trào tôn giáo mới ở Mỹ, đánh giá một cách khoa học và
khách quan về những tư tưởng thần học của các phong trào tôn giáo mới. Tác giả
rất nghiêm túc và có nhiều nỗ lực nghiên cứu vấn đề này dựa vào những trải
5


nghiệm hàng ngày của tín đồ các tôn giáo mới. Qua đó chỉ ra vai trò của các tôn
giáo mới ở Mỹ trong việc giúp tín đồ tìm thấy ý nghĩa cuộc sống và định hướng lối
sống của họ trên cơ sở phân tích từ cái nhìn sâu sắc về các quan điểm thần học của
phong trào này.
- Sung Hae King and Iames Heisig (2008), Encounters The New Religions

of Korea and Christianity (Cuộc gặp gỡ giữa tôn giáo mới của Hàn Quốc và Kitô
giáo), The Royal Asiatic Society Korea Brach Souel. Nội dung cuốn sách phân tích
về ba tôn giáo mới của Hàn Quốc là Cheondo gyo, Deajong gyo và Won
Buddhism. Mối quan hệ giữa các tôn giáo mới trong đời sống tinh thần của người
Hàn Quốc và sự gặp gỡ của chúng với Kitô giáo. Sự tiếp biến của những tôn giáo
mới này đối với những thay đổi trong bối cảnh hội nhập thế giới.
- Lý giải tôn giáo của Trác Tân Bình, (Trần Nghĩa Phương dịch), Nxb. Hà


Nội, năm 2007. Là công trình từ tầm nhìn và góc độ văn hóa thế giới, tác giả trình
bày và lý giải tôn giáo Trung Quốc và tôn giáo thế giới cùng với những công trình
nghiên cứu về chúng. Khi nói về “hiện tượng tôn giáo mới”, tác giả khẳng định
trong xã hội hiện đại với sự nổi lên của các tôn giáo mới từ đầu thập kỷ 90, phân
chia thành năm loại hình: Những đoàn thể sùng bái diễn biến từ truyền thống Kitô
giáo; Giáo phái mới thoát thai từ Islam giáo; Những đoàn thể thần bí chủ nghĩa
liên quan với Ấn Độ giáo và Sikha giáo, có sắc thái trầm tư mặc tưởng của tôn
giáo phương Đông; Những tôn giáo mới được hình thành do sự phân hóa từ Phật
giáo, Thần Đạo giáo; Những đoàn thể mới nổi lên kết hợp nhân tố thần bí phương
Đông với tâm lý học hiện đại, để chữa bệnh bằng tín ngưỡng. Từ đó, tác giả rút ra
đặc điểm cơ bản của các tôn giáo mới này là sự vứt bỏ hoặc phản đối truyền thống,
hoài nghi uy quyền truyền thống và quay lại chủ nghĩa thần bí [15; tr.203].
- Trung tâm nghiên cứu tôn giáo, Đại học KHXH&NV, ĐHQG Thành phố

Hồ Chí Minh (2013), Quan điểm của các học giả Âu – Mỹ về phong trào tôn giáo
mới, biên dịch và hiệu đính Trương Văn Chung, Nguyễn Thanh Tùng, Nxb Đại học
Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung của cuốn sách này là sự tổng kết toàn
bộ tình hình và kết quả nghiên cứu tôn giáo mới từ nửa đầu thế kỷ XX đến những
năm đầu thế kỷ XXI. Thông qua các bài viết nghiên cứu, các hội thảo khoa học,
sách, báo, những quan điểm, nhận định, đánh giá khác nhau, thậm chí đối lập
6


nhau, các tác giả trình bày những vấn đề mang tính lý luận về phong trào tôn giáo
mới và những vấn đề cơ bản của tôn giáo mới ở Âu – Mỹ như: tên gọi, nguồn gốc,
cơ sở xã hội, chiều kích, đặc trưng của phong trào tôn giáo mới; về mặt thực tiễn
công trình cũng làm rõ một số lĩnh vực liên quan đến tôn giáo mới như: vấn đề lạm
dụng phụ nữ, trẻ em, vấn đề bạo lực, kinh sách, giáo lý của tôn giáo mới.
- Viện Thông tin Khoa học xã hội, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn


quốc gia, Tôn giáo và đời sống hiện đại, năm 1998. Đây là công trình tập hợp một
số bài viết về “hiện tượng tôn giáo mới”, xem sự xuất hiện của đạo lạ như là hiện
tượng không thể tránh khỏi của các quốc gia, có ảnh hưởng chủ yếu là tiêu cực:
phản văn hóa, phi nhân tính như giáo phái A.UM Shinrykio ở Nhật Bản, Pháp
Luân Công ở Trung Quốc, Đạo Con Trời ở Mỹ… Những nghiên cứu này chỉ dừng
lại ở khía cạnh mô tả, liệt kê mà chưa phân tích và chỉ ra bản chất, ý nghĩa của các
hiện tượng tôn giáo mới.
- Tác giả Trần Nghĩa Phương với bài: “Vấn đề “tôn giáo mới” trong công

trình nghiên cứu của các nhà khoa học Trung Quốc, in trong cuốn Nghiên cứu Tôn
giáo, tín ngưỡng, chặng đường 20 năm (1991-2011), Nxb Chính trị Quốc gia, Sự
Thật, Hà Nội, năm 2011. Bài viết giới thiệu những ý kiến chính của một số nhà
nghiên cứu Trung Quốc về vấn đề tôn giáo mới, tác giả cũng chỉ ra một số đặc
trưng của tà giáo như: sùng bái giáo chủ, thần hóa giáo chủ, chống lại xã hội hiện
thực: thuyết giáo ngày tận thế và chống lại xã hội: thực hành lối sống phi pháp, vô
nhân đạo.
- E.G.Balagush kin: “Các tôn giáo mới với tính cách là hiện tượng văn hóa

xã hội và hệ tư tưởng”, Ono, No 5, pp.90 - 100, Russian, năm 1996. Trong bài viết
này, tác giả có cái nhìn cởi mở với các tôn giáo mới khi xem xét sự xuất hiện của
các “hiện tượng tôn giáo mới” là vấn đề thuộc về văn hóa, xã hội và hệ tư tưởng.
Tác giả cho rằng, thiết chế xã hội truyền thống thay đổi, mục đích con người là sự
tư do và ý chí tối thượng mà con người hướng tới đó là sự tự do trong tư tưởng. Vì
vậy, “hiện tượng tôn giáo mới” bùng phát như một tất yếu buộc nhân loại phải
chấp nhận nó đã và đang là một thực thể trong xã hội. Sự đan xen giữa mới và cũ,
giữa cá nhân và xã hội là một thứ chủ nghĩa mà một bộ phận quần chúng trong các
tôn giáo mới đang tôn thờ.
7



- Tác giả Nguyễn Ngọc Phương Trang: Tôn giáo mới ở Nhật Bản từ sau

Chiến tranh Thế giới II tới những năm 1990 và tác động xã hội của chúng, Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo, số 8, trang 60-70, năm 2012. Trong bài viết này tác giả trình
bày khái quát về nguyên nhân ra đời, đặc điểm và quá trình phát triển của tôn giáo
mới ở Nhật Bản.
- Thử bàn về hiện đại hóa với tôn giáo mới, tác giả Cao Sư Ninh, Tạp chí

Nghiên cứu Văn hóa Tôn giáo Thế giới, số 4, năm 1999 (trang 15 -22). Từ khía
cạnh tiếp cận vấn đề hiện đại hóa, tác giả cho rằng tôn giáo mới chính là đoàn thể
tôn giáo xuất hiện cùng với tiến trình hiện đại hóa thế giới từ giữa thế kỷ XIX,
thoát khỏi quỹ đạo của tôn giáo truyền thống và đã cho ra một số giáo lý, nghi lễ
mới [96; tr.15 – 17].
- Tôn giáo truyền thống, tôn giáo mới, tà đạo, tác giả Hy Văn, Tạp chí

Nghiên cứu Văn hóa Tôn giáo Thế giới, số 4, năm 1999 (trang 18 – 19). Tác giả
cũng đưa ra những quan điểm của mình về tôn giáo mới trong mối tương quan với
tôn giáo truyền thống và tính hiện đại [152; tr.18 – 19].
- Nguyễn Văn Minh trong công trình: Tôn giáo tín ngưỡng của người Ve ở

Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2009. Trong công trình này, khi lý
giải một số vấn đề cơ bản của tôn giáo tín ngưỡng, tác giả cũng dành một phần nhỏ
để bàn luận về tôn giáo mới.
Ngoài ra, có thể kể đến một số tác giả với các tác phẩm và bài viết trên các
tạp chí nghiên cứu: Christopher Patridge, Handbook of the new religion (Cẩm
nang tôn giáo mới), Nxb Oxford University, năm 2004; John A.Saliba,
Understanding New religious movement (Tìm hiểu về phong trào tôn giáo mới),
Alta Mira. Press. USA, 2003. BrunoFouchereau: Giáo phái, tên biệt kích của Mỹ,
Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Số 5, năm 2001. Nguyễn Văn Minh: “Tổng quan về
tôn giáo mới trên thế giới và Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, số 6, năm 2009.

“Phong trào tôn giáo mới của xã hội đương đại”, Trần Hà, Nghiên cứu Tôn giáo
học của Trung Quốc, số 3, năm 1995 (trang 13 – 18). “Phân tích nhân tố tâm lý của
sự tồn tại đoàn thể tôn giáo mới”, Trương Long Hoa, Nghiên cứu Tôn giáo học, số
1, năm 1998 (trang 126 – 130). “Thử bàn về mấy đặc điểm của tà giáo đương đại”,
Sài Thiếu Khanh, Khổng Tường Đào, Nghiên cứu Tôn giáo học của Trung Quốc,
8


số 1, năm 1998 (trang 131 - 135). Vũ Văn Hậu, “Nhận diện về hiện tượng tôn giáo
mới trong bối cảnh hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2, năm 2013
(trang 46 - 56).
Nhìn chung, điểm qua các công trình nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo
mới” trên thế giới cho thấy những vấn đề nghiên cứu chính mà các tác giả tập
trung phân tích bao gồm: vấn đề lý luận chung và thực tiễn như: định nghĩa, đặc
trưng và nguồn gốc ra đời các “hiện tượng tôn giáo mới”; phong trào tôn giáo mới
ở một số nước trên thế giới; vai trò xã hội của tôn giáo mới và nhận định, dự báo

về xu hướng biến đổi chung của “hiện tượng tôn giáo mới trên thế giới”. Hầu hết
các nhà nghiên cứu đều thể hiện quan điểm của mình ở các bài báo ngắn, còn ít các
công trình nghiên cứu mang tính chuyên khảo về "hiện tượng tôn giáo mới" trên
thế giới. Tuy nhiên, đây là nguồn tư liệu cung cấp luận cứ khoa học quan trọng và
là căn cứ lý thuyết xác đáng để tác giả luận án kế thừa, tham khảo, nghiên cứu và
phân tích để rút ra những kết luận khoa học trong luận án của mình.
1.1.2. Nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo mới” ở Việt Nam
- Tạ Chí Đại Trường: Thần Người và Đất Việt, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà

Nội, năm 2006. Trong tác phẩm này, tác giả đã có những nghiên cứu bước đầu về
các “hiện tượng tôn giáo mới” xuất hiện ở miền Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX. Tuy tác giả không gọi là “đạo lạ” hay “hiện tượng tôn giáo mới” mà dùng
thuật ngữ “phong trào các Ông đạo”. Thực chất trong bối cảnh đó, những hiện

tượng đó cũng chính là “đạo lạ” hay “hiện tượng tôn giáo mới”. Tác giả cũng chỉ
ra những đặc điểm cơ bản của chúng là: chiều hướng và những kết quả tập hợp
thần linh mới, tác giả có nhắc tới “Hội Long Hoa” [135; tr. 288], cho rằng, các Ông
đạo là “những dòng tiên tri tản mạn”, “sự hội tụ các dòng tiên tri: các giáo phái”, là
nhân tố tích cực đặt cơ sở cho những tôn giáo mới [135; tr.293].
- Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo, Đại học KHXH&NV Thành phố Hồ Chí

Minh với các hoạt động khoa học nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo mới”:
Tọa đàm: “Tôn giáo mới ở Thành phố Hồ Chí Minh lý luận và thực tiễn”,
Trương Văn Chung và Ngô Văn Lệ chủ trì, ngày 26 tháng 5 năm 2012. Cuốn kỷ
yếu tập hợp các bài viết của các tác giả trong và ngoài nước về những vấn đề lý
luận và thực tiễn tôn giáo mới ở thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung các bài viết đã
9


khái quát và phần nào cho chúng ta thấy bức tranh “tôn giáo mới” đang diễn ra sôi
động và phức tạp trên địa bàn thành phố, những khó khăn và vấn đề đặt ra cho công
tác quản lý Nhà nước về tôn giáo trong bối cảnh hiện nay. Đề tài “Hiện tượng tôn
giáo mới và những vấn đề về chính sách và công tác tôn giáo ở thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay”, do Trương Văn Chung chủ nhiệm năm 2014 cũng đề cập đến những
vấn đề lý luận và tổng quan về tôn giáo, văn hóa, dân tộc ở thành phố Hồ Chí Minh;
một số tôn giáo mới ở thành phố Hồ Chí Minh và những vấn đề về chính sách, luật
pháp và công tác tôn giáo đối với tôn giáo mới ở thành phố Hồ Chí Minh.

Hội thảo khoa học Quốc tế: Chủ nghĩa hậu hiện đại và phong trào tôn giáo
mới ở Việt Nam và Thế giới. Kỷ yếu với 20 bài viết của giới nghiên cứu trong nước
và quốc tế về hai chủ để chính là chủ nghĩa hậu hiện đại và phong trào tôn giáo
mới. Các bài viết đưa ra những ý kiến tranh luận sôi nổi về sự tác động của chủ
nghĩa hậu hiện đại đối với phong trào tôn giáo mới trên thế giới và Việt Nam. Đặc
biệt chú ý, đó là các bài viết: Một số nhận định về “hiện tượng tôn giáo mới” ở

Việt Nam của tác giả Đỗ Quang Hưng (trang 70); Về tiếp cận hướng nghiên cứu
tôn giáo mới của tác giả Ngô Văn Lệ (trang 124); Vấn đề “tôn giáo mới” ở Hoa
Kỳ của tác giả Nguyễn Quang Hưng (trang 207); Hiện tượng tôn giáo mới phát
sinh từ Kitô giáo ở nước ta hiện nay của tác giả Nguyễn Hồng Dương (trang 256);
Tình hình tôn giáo mới ở Việt Nam của tác giả Trương Văn Chung, Nguyễn Thoại
Linh (trang 279); Về thuật ngữ “Tôn giáo mới”, tác giả Trương Văn Chung (trang
298); Đăng ký và công nhận tổ chức tôn giáo mới tại Việt Nam, Nguyễn Văn
Phương (trang 345); Bước đầu nghiên cứu Nhất Quán Đạo tại Thành phố Hồ Chí
Minh, Trần Hoàng Hảo, Phạm Thị Bích Ngọc (trang 353). Các bài viết này là
những nghiên cứu, nhận định đánh giá một cách khách quan về “hiện tượng tôn
giáo mới” ở nước ta trong những năm gần đây. Công trình đã được xuất bản thành
sách, Nxb Tôn giáo cấp phép, năm 2014.
- Tác giả Đặng Nghiêm Vạn, trong bài viết “Diễn trình tôn giáo qua lịch sử

nhân loại”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 02, năm 1999 (trang 15-16), đã khái
quát về sự vận động của tôn giáo nhân loại, bước đầu đề cập đến các “hiện tượng
tôn giáo mới”, ông gọi đó là “tôn giáo bồng bềnh” và nằm trong tiến trình vận
động đó, mang tính cực đoan, phản văn hóa…[151; tr.16]. Và bài viết: “Những
10


điều mới xuất hiện trong đời sống tôn giáo hiện nay”, tác giả phân tích nguyên
nhân mang tính thời đại của “hiện tượng tôn giáo mới”, xem đó là “cơn đau đẻ dữ
dội”, “kéo dài hàng thế kỷ”[150; tr.3].
- Tác giả Đỗ Quang Hưng với nhiều bài viết về vấn đề này: “Hiện tượng tôn

giáo mới” mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5, năm
2001; Mối quan hệ giữa tín ngưỡng và “hiện tượng tôn giáo mới”, mấy vấn đề lí
thuyết và thực tiễn (Phần 1), Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 3, trang 3 - 15, và Mối
quan hệ giữa tín ngưỡng và “hiện tượng tôn giáo mới”, mấy vấn đề lý thuyết và thực

tiễn (Phần 2), Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 4, trang 20 - 27, năm 2011… Tác giả
cho rằng, đây là một vấn đề lớn, phức tạp thu hút nhiều sự trao đổi, tranh luận trong
giới học thuật, mang tính cấp bách cả về lý luận và thực tiễn. Thông qua các bài viết
của mình, tác giả đặt ra những vấn đề có tính chất phương pháp luận và nguyên tắc
tiếp cận “hiện tượng tôn giáo mới”. Tác giả cũng chỉ ra cách phân loại về “hiện tượng
tôn giáo mới” ở Việt Nam, trên cơ sở những xu hướng cơ bản của “hiện tượng tôn
giáo mới”, sự thách thức của vấn đề này đối với văn hóa, pháp lý, tác giả đề nghị: cần
có sự nghiên cứu đầy đủ hơn về hiện tượng này làm cơ sở khoa học cho việc đưa ra
thái độ ứng xử thích hợp, góp phần hoàn thiện hơn chính sách đổi mới về tôn giáo của
Đảng và Nhà nước ta hiện nay [68; tr. 243].

Kỷ yếu đề tài nhánh: “Những hiện tượng tôn giáo mới ở nước ta – Thực
trạng và xu hướng”, thuộc đề tài cấp Nhà nước: “Xu hướng phát triển tôn giáo
hiện nay ở nước ta và những vấn đề đặt cho công tác lãnh đạo, quản lý”, do tác giả
Đỗ Quang Hưng làm chủ nhiệm, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung
tâm khoa học về tín ngưỡng và tôn giáo, tháng 12 năm 2001, là tập các báo cáo về:
“Hiện tượng tôn giáo mới”: mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, một số kiến nghị và
giải pháp (28 trang – tác giả Đỗ Quang Hưng); Hiện tượng vấn đề “Tôn giáo mới”
ở Việt Nam hiện nay (36 trang – tác giả Đỗ Quang Hưng); Vấn đề “Tôn giáo mới”
ở Châu Âu, một số biến chuyển của đời sống tôn giáo đương đại (28 trang – Tác

giả Nguyễn Kim Hiền) và “Tôn giáo mới” trong các công trình nghiên cứu của các
học giả Trung Quốc (26 trang – tác giả Trần Nghĩa Phương). Đề tài là một công
trình nghiên cứu có giá trị lý luận và thực tiễn về “hiện tượng tôn giáo mới ở Việt
Nam” trong giai đoạn những năm 2001 trở về trước.
11


- Tác giả Nguyễn Quốc Tuấn (2011): Về “hiện tượng tôn giáo mới”, Tạp


chí Nghiên cứu Tôn giáo, Số 12, trang 9 - 22, năm 2011; Về “hiện tượng tôn giáo
mới”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 1, trang 11 - 19, năm 2012. Trong các bài
viết này, tác giả đã có những tìm hiểu, cắt nghĩa về mặt thuật ngữ “hiện tượng tôn
giáo mới” theo các phương pháp tiếp cận, lý giải về “hiện tượng tôn giáo mới” ở
Việt Nam. Theo đó, tác giả cho rằng, “hiện tượng tôn giáo mới” tại Việt Nam đang
trỗi dậy, vì vậy đối với các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý các vấn đề pháp luật,
khoa học cần có sự chuẩn bị về mặt lý thuyết trên cơ sở thực tiễn của xã hội [127;
tr.11].
- Tác giả Nguyễn Hồng Dương, trong “Tôn giáo trong mối quan hệ văn hóa

và phát triển ở Việt Nam”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2004, có đề cập
đến “Hiện tượng tôn giáo mới” (trang 336 - 345). Tác giả đưa ra 4 nguyên nhân
chính xuất hiện “hiện tượng tôn giáo mới” ở Việt Nam. Sự chuyển đổi từ xã hội
truyền thống sang xã hội công nghiệp làm phá vỡ yếu tố truyền thống trong khi giá
trị mới chưa định hình rõ nét hoặc vẫn không được phần đông xã hội chấp nhận là
nguyên nhân nội tại phát sinh các tôn giáo mới; Sự đổi mới toàn diện của Đảng,
Nhà nước trong đó có vấn đề tôn giáo, một số người đứng ra lợi dụng, lập tôn giáo
mới; Các hiện tượng tôn giáo mới từ nước ngoài du nhập vào; Đời sống kinh tế
khó khăn, sự nhận thức xã hội của một bộ phận những người theo tôn giáo mới còn
hạn chế. Tác giả cũng đưa ra sự phân loại “hiện tượng tôn giáo mới” phát sinh từ
trong nước (loại dựa vào giáo lý, nghi lễ Phật giáo; loại dựa vào Đạo giáo và Đạo
Mẫu; loại dựa vào Phật giáo và Đạo giáo).
Ngoài ra, tác giả còn nghiên cứu về một vài “hiện tượng tôn giáo mới có
nguồn gốc từ Kitô” như: Đạo Hà Mòn, Dương Văn Mình qua bài viết: “Hiện tượng
tôn giáo mới phát sinh từ Kitô giáo ở nước ta hiện nay” trong Hội thảo khoa học
Quốc tế, tháng 6 năm 2013 của Trung tâm nghiên cứu Tôn giáo, Trường Đại học
KHXH&NV, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong bài viết: “Một số vấn đề về tôn giáo ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên
cứu Tôn giáo, số 8, năm 2010 (trang 20 - 26), tác giả cũng cho rằng, khi xem xét
tôn giáo mới ở Việt Nam phải đặt trong dòng chảy tôn giáo từ lịch sử đến hiện tại.

12


“Hiện tượng tôn giáo mới” luôn diễn biến phức tạp vì vậy việc quản lý chúng như
thế nào đối với các cơ quan chức năng hiện vẫn đang lung túng do cách nhìn nhận
và chưa có văn bản chế tài [28; tr.26].
- Tác giả Mai Thanh Hải, với các bài viết: “Ngày tận thế và hiện tượng “các

tôn giáo cực đoan”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 3, năm 2000; “Các “đạo” của
nông dân Châu thổ sông Cửu Long: từ Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa
đến Đạo Lành và Đạo Ông Nhà Lớn”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 01, năm
2008. Trong các bài viết của mình, trên cơ sở chỉ ra các tôn giáo mà theo tác giả là
cực đoan ở trong nước: Long Hoa Di Lặc, đạo Phạ Tốc, Thanh Hải Vô Thượng Sư,
Cánh Cửa Thiên Đàng, Giáo Hội Thánh Linh,… Mối liên hệ giữa thuyết tận thế và
các tôn giáo cực đoan này, tác giả chỉ ra nguyên nhân của nó xuất phát từ mặt trái
của khoa học kỹ thuật hiện đại và xã hội công nghiệp, khiến cho một bộ phận quần
chúng nhân dân có tâm lý hoang mang, vô vọng, bất lực. Mặc dù không sử dụng
thuật ngữ “hiện tượng tôn giáo mới”, nhưng tác giả đã chỉ ra đặc điểm của tôn
giáo, giáo phái này là: tái chế giáo lý truyền thống hoặc dung hợp nhiều giáo lý với
nhiều niềm tin và tính thế tục mà nhiều nhà nghiên cứu gọi là tôn giáo cứu thế [47;
tr.67].
- Ngô Văn Lệ: Về hướng tiếp cận nghiên cứu các hiện tượng tôn giáo mới,

Tạp chí Dân tộc học, số 4, năm 2013 (trang 3 - 10). Đáng lưu ý trong bài viết này,
tác giả đã đưa ra quan điểm của mình về cách tiếp cận hướng nghiên cứu các hiện
tượng tôn giáo mới cần phải lưu ý đến điều kiện tự nhiên, môi trường xã hội cũng
như mối quan hệ đa chiều của chính cộng đồng cư dân đó, nghĩa là trở về với bản
chất của vấn đề tôn giáo là một hiện tượng văn hóa, xã hội, đặt “hiện tượng tôn
giáo mới” trong một không gian xã hội nhất định với các mối quan hệ đa chiều
[86; tr. 9-10].

- Những “hiện tượng tôn giáo mới” ở Việt Nam, in trong cuốn Nghiên cứu

Tôn giáo, tín ngưỡng, chặng đường 20 năm (1991-2011), Nxb. Chính trị Quốc gia,
Sự Thật, Hà Nội, năm 2011 cũng có các bài viết của tác giả, đề cập đến sự phân
loại bước đầu (gồm 3 nhóm: Xuất phát từ các tôn giáo chủ lưu; Hoàn toàn độc lập;
Pha trộn tôn giáo - khoa học) và một số đặc điểm của “hiện
13


tượng tôn giáo mới” ở Việt Nam (Phần lớn các “hiện tượng tôn giáo mới” trên thế
giới và Việt Nam, đều đưa ra những tiên tri dự báo về ngày tận thế với mốc chủ
yếu là năm 2000; tính chất phức tạp, chắp vá của giáo lý; tính bất ổn định) [154;
tr.791 – 815].
- Ngoài ra còn một số luận văn, luận án nghiên cứu về hiện tượng tôn giáo

mới như: Võ Minh Tuấn: Bước đầu nghiên cứu “hiện tượng tôn giáo mới” và xu
thế hiện nay, luận văn Thạc sĩ Triết học, chuyên ngành CNDVBC & DVLS,
Trường Đại học KHXH & NV, ĐHQG Hà Nội. Phạm Thị Bích Ngọc, Nhất Quán
Đạo - Hiện tượng tôn giáo mới ở Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Triết
học, Đại học KHXH&NV, ĐHQG thành phố Hồ Chí Minh. Lê Thị Vân Anh, Tín
ngưỡng, tôn giáo ở Vĩnh Phúc - thực trạng, đặc điểm và những vấn đề đặt ra, Luận
án Tiến sĩ, năm 2014; Đới Thị Kim Thoa, “Hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam
hiện nay – Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ, Học viện chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 2008…
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo mới” ở Việt
Nam đã ít nhiều khái quát một cách khá đầy đủ về diện mạo và thực trạng của
“hiện tượng tôn giáo mới” ở nước ta nói chung và ở các địa phương cũng như một
số ảnh hưởng của chúng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và thái độ xã hội đối
với các “hiện tượng tôn giáo mới”. Các quy phạm pháp luật đối với “hiện tượng
tôn giáo mới” và hiệu quả thực tiễn của nó cũng như giải pháp đối với vấn đề

nghiên cứu đặt ra. Chúng tôi nghiên cứu về “Hiện tượng tôn giáo mới” ở một số
tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ từ phương diện tiếp cận của CNDVBC& CNDVLS
sẽ có sự kế thừa, phát triển các kết quả nghiên cứu trên để rút ra những hệ luận giá
trị về mặt nhận thức và thực tiễn, dự đoán xu hướng và đề xuất những giải pháp
khoa học phù hợp với xu hướng biến đổi và tình hình mới của các “hiện tượng tôn
giáo mới” ở vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện nay.
1.2. Nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo mới” ở vùng đồng bằng Bắc Bộ
1.2.1. Các đề tài, công trình nghiên cứu các cấp
- Phạm Xuân Tiên: Đạo lạ Hoàng Thiên Long tại xã Hồng Quang, huyện

Ứng Hòa, thành phố Hà Nội – Thực trạng và giải pháp, Đề tài Viện Nghiên cứu
14


phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội, năm 2011. Đây là công trình nghiên cứu dựa
trên sự khảo sát để phân tích, đánh giá về thực trạng và tổ chức, hoạt động của đạo
lạ (“hiện tượng tôn giáo mới”) Hoàng Thiên Long tại xã Hồng Quang, huyện Ứng
Hòa, thành phố Hà Nội. Qua đó, các tác giả cũng đề xuất một số giải pháp nhằm
tăng cường công tác tôn giáo đối với đạo lạ Hoàng Thiên Long tại địa phương. Từ
việc phân tích lý thuyết, tác giả cũng đưa ra một số tiêu chí để nhận biết, phân biệt
ranh giới giữa “hiện tượng tôn giáo mới” (đạo lạ) với “tôn giáo hợp pháp” (tôn
giáo được cấp phép tư cách pháp nhân hoạt động) và tín ngưỡng dân gian truyền
thống. Theo tác giả, đạo lạ là những hiện tượng và cơ sở tín ngưỡng không thuộc
các tôn giáo đã được nhà nước Việt Nam công nhận, không phải là tín ngưỡng dân
gian truyền thống hay đương đại của địa phương và của dân tộc Việt Nam. Trong
nội dung và hình thức tổ chức hoạt động có pha trộn các yếu tố của một số tôn
giáo, tín ngưỡng dân gian truyền thống. Thường do người đúng đầu tự xưng, tự đặt
tên và viết kinh sách, in sao, truyền bá trái phép [144; tr.26]. Khi nhận xét về ảnh
hưởng của đạo lạ đối với người dân, tác giả cho rằng: Người dân có sự phản ứng,
lên án hoặc e ngại đối với các hiện tượng đạo lạ (phi truyền thống); Phản ứng văn

hóa rất khiêm nhường, phần lớn các đạo lạ đều có vẻ “không bình thường” trong
con mắt đông đảo người dân Việt Nam; Nhận thấy bản chất các đạo lạ đều giống
nhau ở chỗ muốn tìm một giải pháp cho vấn đề khó khăn và rất phổ biến là “tôn
giáo - bệnh tật”, lừa bịp bằng chữa bệnh theo tâm linh, không cần thuốc [144;
tr.40]. Trong đề tài, trên cơ sở cách nhìn nhận, đánh giá từ góc độ của quản lý Nhà
nước đối với các “hiện tượng tôn giáo mới”, tác giả cũng mạnh dạn đề xuất các
tiêu chí phân biệt “tôn giáo hợp pháp” với các tôn giáo, tín ngưỡng dân gian truyền
thống: Có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi, tổ chức giáo hội, đội ngũ giáo sỹ,
chức sắc và tín đồ, cơ sở thờ tự được Nhà nước công nhận.
- Báo cáo khoa học tổng kết đề tài: Vấn đề đạo lạ trên địa bàn thủ đô Hà

Nội hiện nay - Thực trạng và giải pháp, Mã số 01X-11/04-2012-2, Chủ nhiệm đề
tài, tác giả Ngô Hữu Thảo, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hà Nội. Là công
trình nghiên cứu về “hiện tượng tôn giáo mới” (đạo lạ) trên địa bàn thủ đô Hà Nội
hiện nay. Trong công trình này, các tác giả đã thống kê hiện nay ở Hà Nội có 19
loại “hiện tượng tôn giáo mới” (đạo lạ) với 30 tên gọi và cho rằng, đạo lạ ở Hà Nội
15


bên cạnh những đặc trưng chung, cũng có đặc trưng riêng, xu hướng riêng, đều do
đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị trên địa bàn thủ đô quy định. Đạo lạ
được đánh giá là “lành ít, dữ nhiều”, vì thế Hà Nội, trong khi Đảng và Nhà nước
chưa có chủ trương cụ thể thì vấn đề này được giải quyết theo hướng không công
nhận và xóa bỏ. Tuy nhiên, đạo lạ ở Hà Nội cho đến nay vẫn không hề suy giảm cả
về số lượng lẫn chất lượng. Chính vì vậy, các giải pháp đối với đạo lạ trên địa bàn
thủ đô hiện nay cần phải được nhận thức lại trên cả phương diện lý luận tôn giáo
học, chính trị học và chủ trương, chính sách, quan điểm lẫn thực tiễn đời sống tôn
giáo, tín ngưỡng của thủ đô Hà Nội. Công trình đã xuất bản, do Nxb Lý luận chính
trị ấn hành, năm 2014.
- Ban tôn giáo tỉnh Hải Dương: Sự xâm nhập, phát triển của các tà đạo,


đạo lạ trên địa bàn tỉnh, những vấn đề xã hội cần quan tâm, Đề tài khoa học cấp
tỉnh,
Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Văn Quang, nguyên Phó ban thường trực, Ban tôn giáo
tỉnh Hải Dương, năm 2002. Cơ quan chủ trì, thực hiện: Ban tôn giáo tỉnh Hải
Dương. Đề tài đã thống kê về số lượng, làm rõ thực chất, phạm vi ảnh hưởng, quá
trình xâm nhập, phát triển, nguyên nhân phát sinh, tin theo các “hiện tượng tôn
giáo mới” (tác giả gọi là “đạo lạ”, “tà đạo”), và những tác động của nó tới tín
ngưỡng, tôn giáo, văn hóa - xã hội trên địa bàn tỉnh Hải Dương (1991 - 2002). Dự
báo xu hướng phát triển, đề xuất các giải pháp tuyên truyền, vận động, ngăn chặn
xử lý các “đạo lạ”, “tà đạo”, nhằm góp phần đảm bảo các sinh hoạt tín ngưỡng, tôn
giáo lành mạnh hợp pháp, góp phần ổn định trật tự an toàn xã hội ở các địa phương
và trong toàn tỉnh. Theo tác giả, những tác động của đạo lạ, tà đạo và những vấn đề
xã hội cần quan tâm là: Thứ nhất, sự lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo của một số cá
nhân hòng trục lợi về kinh tế hoặc gây thanh thế cá nhân; âm mưu, thủ đoạn của
thế lực thù địch lợi dụng việc truyền đạo, phát triển tôn giáo để tạo ra sự mất ổn
định tình hình nhằm mục tiêu chống phá chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một trong
những nguyên nhân phát sinh, phát triển các tà đạo. Thứ hai, những tác động về
kinh tế của tà đạo, đạo lạ ảnh hưởng tác động tiêu cực về mọi mặt cụ thể là: vi
phạm pháp luật của Nhà nước và quy định của địa phương, làm ảnh hưởng đến trật
tự xã hội; làm thay đổi, xáo trộn về nếp sống và một số tập quán truyền thống; xâm
phạm về tài sản, tiền của, vật chất, thời gian lao động, thậm chí xâm phạm cả nhân
16


phẩm của con người; tác động xấu đến đoàn kết dân cư, đoàn kết giữa những
người có tín ngưỡng tôn giáo khác nhau. Thứ ba, hầu hết các tà đạo đều mang nặng
yếu tố mê tín dị đoan làm mê hoặc con người. Thứ tư, về tư tưởng: sự truyền bá
đức tin nhảm nhí cùng với cách thờ cúng nặng mê tín dị đoan góp phần làm cho
tâm lý xã hội nghiêng về phía hữu thần, lấn át chủ nghĩa vô thần khoa học trong

một bộ phận dân cư, nhất là giới nữ ở nông thôn. Thứ năm, về góc độ an ninh, an
toàn xã hội: các đạo lạ, tà đạo xuất hiện và hoạt động là vi phạm pháp luật hiện
hành, gây rối trật tự an ninh ở một số địa phương, xâm phạm tài sản của nhân dân,
gây nên cái chết sớm (do bệnh mà không dùng thuốc).
- Đề tài cấp bộ năm 2013-2014, “Một số hiện tượng tôn giáo mới ở miền

Bắc từ sau đổi mới đến nay”, chủ nhiệm tác giả Lê Tâm Đắc, cơ quan chủ trì Viện
nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam. Công trình này, tác giả
cũng đề cập đến thực trạng một số hiện tượng tôn giáo mới ở miền Bắc và đề ra
một số khuyến nghị đối với các hiện tượng này.
- Đề tài cấp cơ sở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, “Hiện tượng

tôn giáo mới ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ hiện nay – Thực trạng và giải pháp” của
tác giả Nguyễn Phú Lợi, nghiệm thu năm 2007 đề cập đến hiện tượng Long Hoa
Di Lặc và Ngọc Phật Hồ Chí Minh, trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động của
chúng trên một số địa bàn như Hà Nội và Hải Phòng, tác giả đưa ra giải pháp trên
phương diện quản lý Nhà nước đối với các hiện tượng này. “Hiện tượng tôn giáo
mới ở Việt Nam hiện nay” (qua nhóm tà đạo và nhóm tôn giáo mới mang danh Hồ
Chí Minh), nghiệm thu tháng 12, năm 2015, chủ nhiệm tác giả Hoàng Minh Đô, đề
cập đến một số vẫn đề lý luận và thực tiễn về hiện tượng tôn giáo mới trên thế giới
và Việt Nam; thực trạng hai nhóm tôn giáo mới là: “nhóm tà đạo” và “nhóm tôn
giáo mới mang danh Hồ Chí Minh”, những vấn đề đặt ra. Nội dung đề tài có đưa ra
một số khuyến nghị và đề xuất với tôn giáo mới và hai nhóm tôn giáo mới nói trên
trong thời gian tới.
- Luận án Tiến sĩ Triết học, chuyên ngành Tôn giáo học của tác giả Lê Thị

Chiêng, Tìm hiểu các điện thờ tư gia Hà Nội, năm 2008, Viện Nghiên cứu Tôn
giáo, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Luận án tuy xác định đối tượng nghiên cứu
chính là các điện thờ tư gia tại Hà Nội, tác giả không nhắc tới khái niệm “hiện
17



tượng tôn giáo mới”, “tà đạo”, hay đạo lạ. Nội dung của luận án đề cập đến một
phần lễ nghi, một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng cơ bản liên quan đến các “hiện
tượng tôn giáo mới”. Khi lý giải tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu tác giả cho
rằng, khoảng 20 năm trở lại đây khu vực đồng bằng Bắc Bộ, đặc biệt là Hà Tây
(nay là Hà Nội), Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình số điện thờ tư gia phát
triển khá mạnh. Tác giả đặt câu hỏi: Thực chất điện thờ tư gia có phải là xu hướng
cá nhân hóa tôn giáo hay là tín ngưỡng tôn giáo mới? Tác giả tìm hiểu một số điện
thờ như điện Hòa Bình (Sao Đỏ, Chí Linh, Hải Dương), Minh Đường Trung Tân
(Tân Liên, Vĩnh Bảo, Hải Phòng), và đi đến nhận xét: về thực chất các hiện tượng
này mang tính hỗn dung tín ngưỡng tôn giáo nhưng tính trội là tâm linh dân tộc, cụ
thể là hiền nhân liệt tổ, mà tiêu biểu là Nguyễn Bình Khiêm, Hồ Chí Minh, Trần
Hưng Đạo và các anh hùng liệt sĩ. Đây là một kiểu khác của đạo Tâm linh dân tộc
[20; tr.148]. Tuy nhiên, tác giả khẳng định rằng, điện thờ tư gia không hoàn toàn là
“hiện tượng tôn giáo mới” vì sự xuất hiện của nó dựa trên nền của các tôn giáo tín
ngưỡng truyền thống. Các chủ điện thờ không có sáng tạo thêm vị thần nào ngoài
những thần đã có trong tín ngưỡng tôn giáo truyền thống. Một số người đã soạn
kinh sách và đặt ra các nghi thức riêng không theo truyền thống. Điện thần của các
điện thờ tư gia mang tính dân gian, hỗn dung phi tôn giáo chính thống, lấy thần
linh dân tộc làm chủ thể. Đây là hiện tượng tín ngưỡng tôn giáo dân tộc cực đoan,
hiện tượng này có thể được xem là hiện tượng tín ngưỡng tôn giáo mới [20;
tr.178].
-“Hiện tượng tôn giáo mới” ở một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ cũng được đề
cập đến trong đề tài nhánh: “Những hiện tượng tôn giáo mới ở nước ta - thực
trạng và xu hướng”, tác giả Đỗ Quang Hưng chủ nhiệm. Theo tác giả, khu vực
đồng bằng Bắc Bộ là nơi tập trung xuất hiện nhiều nhóm phái “tôn giáo mới”.
Chẳng hạn chỉ riêng tỉnh Hà Tây cũ (nay được sát nhập về Hà Nội) đã có
mặt của các nhóm phái: Long Hoa Di Lặc, Ngọc Phật Hồ Chí Minh, Chân Tu Tâm
Kính, Chân Không, Đạo Bạch, Thanh Hải Vô Thượng Sư, Quốc Tổ Lạc Hồng, Lạc

Hồng Âu Cơ, Quang Minh Tư Đức, Quần Tiên.

18


Tỉnh Hải Dương có Long Hoa Di Lặc, Ngọc Phật Hồ Chí Minh, Tam Tổ
Thánh Hiền, Thanh Hải Vô Thượng Sư, Đạo Phật Thiện, Đạo Hoa Vàng, Đạo
Thiên Nhiên.
Tỉnh Nam Định có: Nghiệp Chướng, Quang Minh, Địa Mẫu, Thanh Hải Vô
Thượng Sư, Võ Đạo Phật Tổ Như Lai.
Ngoài ra, Hải Phòng, Ninh Bình, Bắc Ninh, Thái Bình đều là các địa
phương tiêu biểu của vùng đồng bằng Bắc Bộ, nơi tồn tại và phát triển của các
“hiện tượng tôn giáo mới”.
Các công trình nghiên cứu trên phần nào cho thấy được sự phát triển của
hiện tượng tôn giáo mới ở miền Bắc trong những năm gần đây. Tuy nhiên, mới chỉ
dừng lại khai thác ở một số tỉnh thành mà chưa có công trình nào nghiên cứu hệ
thống về hiện tượng tôn giáo mới ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay.
1.2.2. Tài liệu điền dã khảo sát về “hiện tượng tôn giáo mới” ở đồng bằng
Bắc Bộ hiện nay.
Tài liệu điền dã khảo sát về các “hiện tượng tôn giáo mới” hiện nay, tác giả
thu được rất phong phú và đa dạng dưới nhiều hình thức: tự in ấn, sao chép, lưu
truyền qua tín đồ, qua mạng Internet, băng đĩa… Đây là nguồn tài liệu, căn cứ để
tác giả luận án nghiên cứu và tìm hiểu có tính hệ thống về các “hiện tượng tôn giáo
mới” ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. Có thể kể đến một số nhóm gồm các “hiện
tượng tôn giáo mới” sau đây:
Phần 1: Tài liệu khảo sát về các “hiện tượng tôn giáo mới” nội sinh.
- Nhóm Long Hoa Di Lặc, thông qua khảo sát chúng tôi được tiếp cận với

một số kinh sách (được xem là “giáng bút”), và phổ biến tuyên truyền qua mạng
Internet, trong đó đáng lưu ý là Kinh Di Lặc Tôn Phật, Thơ Kinh của Đức Di Lặc,

Kinh Ngọc Phật Giáng Bút, Kinh Thờ Mẹ Mẫu…
- Nhóm Ngọc Phật Hồ Chí Minh, các kinh kệ có phần phong phú hơn,

phần lớn cũng được soạn ra dưới hình thức “giáng bút”. Tiểu biểu có thể kể đến
một số kinh sách: Lời Tâm linh nguyện ước, Kinh giỗ liệt sĩ nước Nam, Kinh mừng
ngày Quốc Khánh, Kinh giỗ Cha, Kinh tạ mộ (cụ Hoàng Thị Loan), Kinh mừng
ngày Quân đội nhân dân, Kinh mừng ngày Hội Quốc Phòng, Lời Phật Thánh Thần
ban dân tu đạo, Thần lời Thánh giáng trần, Đáp nghĩa đền công…
19


- Hoàng Thiên Long có các kinh sách chủ yếu: Đại Pháp đoàn tràng tu gia

cầu an Ất Dậu, cầu an Bính Tuất Phục hồn liệt sĩ cầu siêu, Công trình Đại Việt
Hương ơn cách mạng chuyện nói của quốc gia âm…
- Nhóm Tổ Tiên Chính Giáo Đại Đạo Sinh Tồn, các kinh và sách như:

Kinh và Lễ (những quy định về Bàn thờ, Đạo Kỳ, Thứ tự các bước hành lễ theo
từng chủ đề: Nghi thức và tang lễ, Giới luật...), Yếu chỉ Đạo Tổ Tiên Chính Giáo
Đại Đạo Sinh Tồn – Quốc Đạo Việt Nam, Tuyên Ngôn Quốc Đạo Tổ Tiên Chính
Giáo, Đức lý tổ tiên truyền thống dân tộc…
Phần 2: Tài liệu khảo sát về các “hiện tượng tôn giáo mới” ngoại nhập.
- Thanh Hải Vô Thượng Sư, các tài liệu tiêu biểu: Bí quyết tức khắc khai

ngộ hiện đời giải thoát, Thanh Hải Vô Thượng Sư trực tiếp câu thông Thượng Đế,
Từ vũ trụ nguyên thủy đến thế giới của chúng ta: Chân tính không đổi thay… Nội
dung kinh sách được kế thừa từ cả kinh Phật lẫn Kinh Thánh của Kitô giáo.
- Pháp Luân Công, các kinh, sách tiểu biểu là Chuyển Pháp Luân, Pháp

Luân Phật Pháp Đại Viên Mãn Pháp, Pháp Luân Phật Pháp Tinh Tấn Yếu Chỉ,

Hồng Ngâm, Pháp Luân Đại Pháp và nguyên lý tu Chân - Thiện - Nhẫn...
Các tư liệu này cung cấp cho tác giả luận án những nội dung căn bản về tư
tưởng, giáo lý và sự thờ cúng cũng như lễ nghi của các tôn giáo mới hiện nay ở
đồng bằng Bắc Bộ để từ đó có thể rút ra được những vấn đề chung về bản chất của
hiện tượng tôn giáo mới là gì? những hình thức và phân loại về hiện tượng tôn giáo
mới.
1.3. Nghiên cứu về thái độ, cách thức ứng xử đối với hiện tượng tôn
giáo mới ở trong và ngoài nước
Nghiên cứu về thái độ, cách thức ứng xử đối với hiện tượng tôn giáo mới ở
trong và ngoài nước có thể kể đến các công trình sau:
- Tác giả Hoàng Văn Chung với bài viết: “Ứng xử của một số nhà nước trên

thế giới đối với hiện tượng tôn giáo mới”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 09
(135), năm 2014. Tác giả đã làm rõ các nội dung liên quan đến cách thức ứng xử
của một số quốc gia đối với hiện tượng tôn giáo mới, đó là: thách thức cơ bản mà
hiện tượng tôn giáo mới trong quá trình phát sinh và phát triển đặt ra buộc các
nước phải có cách thức ứng xử (ứng xử ôn hòa và ứng xử cứng rắn); cách thức các
20


×