Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đánh giá kết quả và một vài kinh nghiệm ban đầu trong thay khớp háng spiron tại bệnh viện Trung ương Quân đội 108

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.09 KB, 6 trang )

TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2013

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ VÀ MỘT VÀI KINH NGHIỆM
BAN ĐẦU TRONG THAY KHỚP HÁNG SPIRON
TẠI BỆNH VIỆN TƯQĐ 108
Mai Đức Thuận,
Lưu Hồng Hải,
Lê Hồng Hải,
Nguyễn Quốc Dũng,
Phùng Văn Tuấn,
Mai Đắc Việt,
Lê Hanh,
Trần Ngọc Thanh,
Nguyễn Đức Hiếu
Viện CTCH
Bệnh viện TƯQĐ 108

TĨM TẮT
Từ tháng 8/2011 đến tháng 7/2013 Viện Chấn thương- Chỉnh hình, Bệnh viện TƯQĐ 108
đã phẫu thuật thay 34 khớp háng Spiron cho 28 bệnh nhân (6 bệnh nhân thay khớp cả 2
bên), trong đó có 26 bệnh nhân nam và 2 bệnh nhân nữ, tuổi trung bình là 43,75 tuổi (từ
25-58 tuổi), có 16 khớp háng trái, 18 khớp háng phải được thay.
Về sinh bệnh học: có 28 khớp hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi, 4 khớp thoái hóa, 1
khớp dính cứng do viêm cột sống dính khớp, 1 trường hợp gãy dưới chỏm xương đùi. Thời
gian theo dõi trung bình là 10,93 tháng.
Điểm Harris trung bình trước mổ là 53,48 điểm. Kết quả ban đầu, đánh giá trên 29 khớp
của 23 bệnh nhân. Điểm Harris trung bình sau mổ tại thời điểm theo dõi là 82,13 điểm.
Cụ thể: có 17/29 khớp (15/23 bệnh nhân) đạt kết quả rất tốt, 7/29 khớp (3/23 bệnh nhân)
xếp loại tốt, 4/29 khớp (4/23 bệnh nhân) xếp loại trung bình, 1/29 khớp (1/23 bệnh nhân)
xếp loại kém. Chúng tôi thấy rằng kết quả điều trò ban đầu rất khả quan. Tuy nhiên, cần
theo dõi, đánh giá kết quả trên nhiều bệnh nhân hơn và trong thời gian dài hơn.


Từ khóa: Phẫu thuật thay khớp háng Spiron, hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi.

EARLY RESULTS AND EXPERIENCES IN SPIRON TOTAL HIP
REPLACEMENT AT 108 CENTRAL MILITARY HOSPITAL
Mai Duc Thuan,
Luu Hong Hai,
Le Hong Hai,
Nguyen Quoc Dung,
Phung Van Tuan,
Mai Dac Viet,
Le Hanh,
Tran Ngoc Thanh,
Nguyen Duc Hieu

Abstract
Abtract: From August 2011 to July 2013, Insitut of Trauma and Orthopedic in 108
Central Military Hospital held observational study of 28 patients with the 34 Spiron
total hip replacement (6 patients were operated with both hips). There were 26 males
and two females, average age of 43.75 years (range: 25 - 58), and 16 left hips and 18
right hips.
Patology: 28 cases of avascular necrosis of femoral head, 4 cases of degenerative of
joints disease, one case of ankylosing spondylitis and one case of closed fracture sub
femoral head. The mean follow-up time is 10.93 months. Pre-operative Harris score
is 53.48 points. From early results of 29 Spiron implants over 23 patients, the study
indicated average Harris score post-operative was 82.13 points. In details, 17/29
implants (15/23 patients) exellent, 7/29 implant (3/23 patients) very good, 4/29 implants
(4/23 patients) good and 1/29 implant (1/23 patients) bad. We’re all agreed that first
results was impressive. However futher observations and evaluation in large amount of
patients in longterm study is required.
Keywords: Spiron total hip replacement, avascular necrosis of femoral head.


120


I. Đặt vấn đề

1.2 Phương pháp nghiên cứu:

Do tình trạng lạm dụng thuốc, hóa chất, bia rượu cùng
với sự gia tăng về tai nạn giao thông và tai nạn lao động,
ngày càng nhiều các bệnh nhân trẻ có chỉ định thay khớp
háng. Tuổi thọ của khớp háng nhân tạo thì có giới hạn còn
tuổi thọ của con người thì ngày càng cao nên khi thay khớp
háng ở bệnh nhân trẻ phẫu thuật viên phải đối mặt với vấn
đề thay lại khớp nhiều lần. Đứng trước thực tế trên năm
1989, bác sĩ Bjorn Birkenhauer, người Đức, đã cho ra đời
loại khớp háng cán ngắn Spiron. Cán khớp Spiron có ren
xoắn cố định vào phần cổ xương đùi thay cho phần thân
xương nên lượng xương phải cắt bỏ đi rất ít, giải phẫu vùng
cổ và đầu trên xương đùi được bảo tồn tối đa tạo điều kiện
thuận lợi cho lần thay khớp thứ hai. Tại Việt Nam, tháng
8/2011, Viện Chấn thương-Chỉnh hình, Bệnh viện Trung
ương Quân đội 108 lần đầu tiên đã triển khai thay khớp
háng toàn phần Spiron. Đây là một phương pháp mới, chỉ
định cần chặt chẽ hơn, kỹ thuật có một số thay đổi khó
hơn so với thay khớp thông thường vì vậy qua một thời
gian thực hiện cần nhìn nhận lại, rút kinh nghiệm trong
phẫu thuật để kết quả thu được ngày càng tốt hơn. Xuất
phát từ lý do trên chúng tôi tiến hành đề tài “Đánh giá kết
quả và kinh nghiệm bước đầu trong thay khớp háng Spiron

tại Bệnh viện TƯQĐ 108” với mục tiêu: 1. Đánh giá kết
quả ban đầu thay khớp háng Spiron. 2. Rút ra một số kinh
nghiệm trong chỉ định và kỹ thuật của phương pháp.

Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang, theo dõi dọc.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1.1 Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi gồm 34 khớp háng
toàn phần Spiron của 28 bệnh nhân (có 6 bệnh nhân thay
2 bên) được phẫu thuật thay khớp tại Viện Chấn thươngChỉnh hình, Bệnh viện TƯQĐ 108 từ tháng 8 năm 2011
đến tháng 7 năm 2013. Trong đó có 26 bệnh nhân nam và
2 bệnh nhân nữ, tuổi trung bình là 43,75 (từ 25-58 tuổi),
có 16 khớp háng trái, 18 khớp háng phải được thay.
Về sinh bệnh học: có 28 khớp hoại tử vô khuẩn chỏm
xương đùi, 4 khớp thoái hóa, 1 khớp dính cứng do viêm
cột sống dính khớp, 1 trường hợp gãy dưới chỏm xương
đùi. Thời gian theo dõi trung bình là 10,93 tháng. Điểm
Harris trung bình trước mổ là 53,48 điểm.
Lựa chọn bệnh nhân: - Bệnh nhân có chỉ định thay
khớp háng toàn phần, có độ tuổi từ 18 đến 60 tuổi, không
có chống chỉ định phẫu thuật. Hình dáng và chất lượng
xương cổ xương đùi còn tốt (cổ xương đùi không bị biến
dạng, trên Xquang độ loãng xương lớn hơn 3 (theo Singh),
đo mật độ xương có T-score > -2).

1.3 Quy trình kỹ thuật:
- Lập kế hoạch trước mổ trên film X quang.
- Chuẩn bị bệnh nhân và dụng cụ phẫu thuật.

- Kỹ thuật phẫu thuật: Vô cảm: bằng tê tuỷ sống hoặc
mê nội khí quản. Tư thế: bệnh nhân nằm nghiêng 900 về
bên không thay khớp.
Thì 1: Mở, bộc lộ và cắt chỏm xương đùi: Đường rạch
da: đường sau bên (Modified Gibson), hoặc đường trước
bên (Harding). Bộc lộ, đánh trật khớp háng, cắt chỏm
(dưới tâm chỏm 2 cm).
Thì 2: Doa và đặt ổ cối: Như thay khớp háng cán dài
thông thường.
Thì 3: Lắp cán khớp: Xác định tâm của cổ xương đùi,
xuyên một đinh Kirschner đo chiều dài của cán khớp sẽ
thay, doa ống tủy bắt cán khớp Spiron, lắp chỏm.
Thì 4. Đặt lại khớp, đóng vết mổ.
1.4 Săn sóc, theo dõi và luyện tập sau mổ:
Như thay khớp thông thường.
1.5 Nhận xét kỹ thuật trong mổ và đánh giá kết quả
sau mổ:
- Rút ra một số nhận xét về kỹ thuật trong mổ.
- Đánh giá kết quả ngay sau mổ và kết quả ban đầu
sau phẫu thuật, đánh giá chức năng khớp háng theo thang
điểm Harris với 4 mức: Rất tốt 90 - 100 điểm, tốt 80 – 89
điểm, trung bình 70 - 79 điểm, kém < 70 điểm.

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1 Nhận xét về kỹ thuật trong mổ:
- Đường vào: Chúng tôi sử dụng 2 đường vào, đường sau
bên và đường trước bên. có 25 khớp háng phẫu thuật theo
đường sau bên, còn 9 khớp háng theo đường trước bên.
- Loại khớp: Trong 34 khớp, có 18 trường hợp sử dụng
loại khớp ceramic on polyethylen, 9 trường hợp sử dụng

khớp metal on polyethylene, 7 trường hợp sử dụng khớp
có chỏm tital phủ gốm, liner là polyethylene. Chúng tôi
sử dụng ổ cối có kích thước từ 46-52mm, ổ cối 46mm: 3
khớp, 48mm: 9 khớp, 50mm: 6 khớp và 52 mm: 6 khớp.
Về chiều dài cán khớp: dài 40mm: 1 trường hợp, 50mm:
20 trường hợp, 55mm: 22 trường hợp, 60mm: 1 trường
hợp. Đường kính cán khớp 18mm: 4 trường hợp, 20mm:
19 trường hợp, 22mm: 11 trường hợp.
- Về tai biến trong mổ: Có 1 trường hợp bị vỡ ổ cối, 1
trường hợp bị vỡ cổ xương đùi khi nắn chỉnh đặt lại khớp
Phần 2: Phần nội soi và thay khớp
121


TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2013

háng, một trường hợp rạn xương vùng mấu chuyển
lớn (cuối cán Spiron). Đặc biệt có 4 trường hợp bị
liệt thần kinh hơng khoeo ngồi, trong đó có một
trường hợp phải mổ lại kiểm tra thần kinh. Có một
trường hợp khi vặn cán Spiron, cán lỏng khơng đảm
bảo chất lượng phải chuyển thay cán dài.
2.1 Kết quả ngay sau mổ: Được đánh giá dựa
vào lâm sàng và X quang sau mổ.
- Liền vết thương: Có 33/34 khớp háng của 27
bệnh nhân vết mổ liền kỳ đầu. Một trường hợp bị
nhiễm khuẩn nơng, khơng có trường hợp nào nhiễm
khuẩn sâu.
- Cân bằng chi: Có 16/28 bệnh nhân sau mổ 2 chi
bằng nhau, có 12 bệnh nhân 2 chi lệch nhau, ngắn

nhất là 0,5cm dài nhất là 3,5 cm, trong đó có 7 trường
hợp 2 chi lệch nhau trên 2cm.
- Khả năng vân động: 100% bệnh nhân có thể
tự đi lại trên khung hoặc nạng hỗ trợ trước khi xuất
viện. Tất cả các bệnh nhân đều đạt biên độ vận động
khớp háng trong giới hạn cho phép.
- Xquang sau mổ: 100% ổ cối đặt đúng trong giới
hạn cho phép. Hai tư trên ba tư khớp háng được thay
có cán Spiron nằm đúng tâm cổ trên cả 2 bình diện
thẳng nghiêng, đi cán cách vỏ xương cứng 5mm.
Số còn lại cán spiron lệch ra trước, hoặc ra sau, hoặc
góc cán spiron-thân xương đùi lớn hơn hoặc nhỏ hơn
so với bên đối diện nhưng dưới 6 độ.
- Biến chứng: Khơng có bệnh nhân nào bị sai khớp
háng sau mổ, khơng có trường hợp nào bị huyết khối
tĩnh mạch hay huyết tắc mỡ. Có 4 trường hợp (11,76%)
bị tổn thương thần kinh hơng khoeo ngồi, trong đó có
một trường hợp phải mổ lại kiểm tra thần kinh.
2.3 Kết quả điều trị ban đầu:
Kết quả điều trị ban đầu được tính sau phẫu thuật
ít nhất 3 tháng tại thời điểm đánh giá, thời gian này
bệnh nhân đã hồn tồn bỏ nạng quay trở lại với cuộc
sống sinh hoạt bình thường. Kết quả điều trị ban đầu
chúng tơi đánh giá theo thang điểm Harris trên 29
khớp của 23 bệnh nhân. Các bệnh nhân còn lại thời
gian sau mổ ngắn đang tiếp tục được theo dõi.
- Mức độ đau: Có 23 bệnh nhân khơng thấy đau,
5 bệnh nhân cảm thấy đau nhẹ, khơng thường xun,
khơng ảnh hưởng đến vận động, 1 bệnh nhân thấy
đau mức độ trung bình, ảnh hưởng đến vận động,

dùng thuốc giảm đau có đỡ. Trong 6 bệnh nhân còn
đau-chủ yếu đau vùng khớp háng khơng có bệnh
nhân nào đau dọc đùi.
122

- Biến chứng: Khơng có bệnh nhân nào bị nhiễm
khuẩn, sai khớp, chưa phát hiện trường hợp nào lỏng
khớp, gãy vít tiêu xương, mòn ổ cối, di lệch ổ cối
hoặc cán spiron. Chưa có trường hợp nào rạn vỡ cổ
hoặc đầu trên xương đùi.
- Kết quả chung: Điểm Harris trung bình sau mổ
tại thời điểm theo dõi là 82,13 điểm. Cụ thể, có 17/29
khớp (15/23 bệnh nhân) đạt kết quả rất tốt, 7/29
khớp (3/23 bệnh nhân) xếp loại tốt, 4/29 khớp (4/23
bệnh nhân) xếp loại trung bình, 1/29 khớp (1/23 bệnh
nhân) xếp loại kém.
Kết
quả

Rất
tốt

Tốt

Trung
bình

Kém

Tổng


N

17

7

4

1

29

%

58,62

24,14

13,79

3,45

100

IV. BÀN LUẬN
3.1 Về chỉ định thay khớp
Chỉ định thay khớp Spiron chặt chẽ hơn thay
khớp thơng thường. Ngồi những tiêu chuẩn như
thay khớp cán dài, chúng tơi đặc biệt chú ý đến chất

lượng xương, giải phẫu vùng cổ và liên mấu chuyển
xương đùi.
- Về chất lượng xương: Trên X quang độ lỗng
xương phải lớn hơn 3 (theo Singh), vùng liên mấu
chuyển và cổ xương đùi khơng có nang xương,
khơng có U xương. Đo mật độ xương cổ xương đùi
T score >-2.
- Về giải phẫu: Trên X quang cổ xương đùi phải
còn ngun vẹn, khơng méo mó biến dạng, khơng
dẹt hình chữ nhật, góc cổ thân xương đùi trong giới
hạn bình thường.
- Về lứa tuổi: Đây cũng là một yếu tố rất quan
trọng. Khớp háng spiron là loại khớp dành cho người
trẻ, bởi vì ở những người này có nguy cơ phải thay lại
khớp lần 2. Bệnh nhân có chỉ định thay khớp thì bao
nhiêu tuổi được xem là trẻ? Theo chúng tơi những
bệnh nhân nhỏ hơn hoặc bằng 50 tuổi thì chỉ định
là phù hợp khơng có gì phải bàn cãi. Những bệnh
nhân lớn hơn 60 tuổi chất lượng xương cổ xương đùi
thường rất kém vì vậy phải hết sức cân nhắc. Những
bệnh nhân 50-60 tuổi nếu hình dáng, chất lượng
xương cổ xương đùi còn tốt vẫn có thể thay khớp
Spiron. B.Birkenhauer [1] thay khớp spiron cho 34
bệnh nhân có tuổi dao động 43-73 tuổi, trung bình
60,1 tuổi. Nguyễn Văn Thạch và cs [7] thay khớp
spiron cho 22 bệnh nhân có tuổi từ 26-64 tuổi, trung


bình 42,7 tuổi. Chúng tôi có 10 trường hợp bệnh nhân ở
lứa tuổi 50-60 được thay khớp spiron cho kết quả sớm khá

tốt. Có nhiều trường hợp bệnh nhân dưới 40 tuổi nhưng
hình dáng cổ xương đùi bất thường (phì đại hoặc dẹt kiểu
hình chữ nhật) hoặc có nhiều ổ tiêu xương- chất lượng
xương kém chúng tôi cũng không lựa chọn. Quan điểm
của chúng tôi phù hợp với quan điểm của nhiều tác giả
khác trong và ngoài nước [1,7].
Có 2 trường hợp chỉ định thay khớp Spiron phải chuyển
thay khớp cán dài. Một trường hợp do chất lượng xương
cổ xương đùi kém, bắt cán Spiron vào rất lỏng nên phải
chuyển dùng cán dài. Như vậy quyết định cuối cùng có lựa
chọn thay Spiron hay không vẫn là quyết định trong mổ:
Phẫu thuật viên nhìn thấy hình dáng cổ xương đùi, cảm
nhận độ chắc chắn khi bắt cán Spiron. Một trường hợp
bệnh nhân nam 43 tuổi khi nắn chỉnh đặt lại khớp háng bị
toác vỡ cổ xương đùi phải chuyển thay cán dài. Như vậy
khi thay khớp Spiron ngoài chỉ định hết sức chặt chẽ như
lứa tuổi, đo mật độ xương cổ xương đùi chúng tôi luôn sẵn
sàng dụng cụ để có thể chuyển thay khớp cán dài nếu cần.
Khi doa ổ cối và khi nắn chỉnh đặt lại khớp háng chú ý
không được tỳ nâng xương (Hodmann) vào cổ xương đùi
dễ làm cổ xương đùi bị gãy.
3.2 Về kỹ thuật mổ
- Lựa chọn đường vào: Trong 34 khớp háng được thay
có 25 khớp háng chúng tôi lựa chọn đường sau bên, 9
khớp háng lựa chọn đường trước bên. Đường vào sau bên
có ưu điểm nắn chỉnh dễ dàng, nhưng nguy cơ tổn thương
thần kinh hông to, sai khớp ra sau, đường vào trước bên
có ưu điểm bộc lộ quan sát rõ ổ cối hơn, không gây tổn
thương thần kinh hông to, không cắt bao khớp phía sau,
nhưng tổn thương phần mềm nhiều và nắn chỉnh khó hơn.

Thời gian đầu chúng tôi phẫu thuật theo đường sau bên,
do hay sử dụng đường này, nhưng khác với thay khớp cán
dài, thay khớp spiron cổ xương đùi được giữ lại nhiều nên
việc bộc lộ và doa ổ cối là khó khăn, nhất là khi gặp bệnh
nhân to béo, do đó phẫu thuật viên thường phải đặt nhiều
nâng xương (Hodmann), phần mềm bị căng kéo nhiều
dễ làm tổn thương thần kinh hông to. Thực tế có 4/34
(11,76%) trường hợp bị tổn thương thần kinh hông khoeo
ngoài. Gần đây chúng tôi thiên về chọn đường trước bên
và không có trường hợp nào tổn thương thần kinh hông
khoeo ngoài. Với những bệnh nhân to béo, những phẫu
thuật viên mới thay khớp Spiron chúng tôi khuyên nên
chọn đường sau bên, tránh tổn thương thần kinh hông to.
Các tác giả B.Birkenhauer [1], Nguyễn Văn Thạch [7]…
đều chọn đường sau bên khi thay Spiron.

Làm thế nào để giảm khó khăn khi bộc lộ và doa ổ cối?
Chúng tôi thường đặt 1 nâng xương trên mấu chuyển bé,
một nâng xương ở đỉnh mấu chuyển lớn, có thể cắt 1 phần
bao khớp phía trước (nếu chọn đường sau bên) sau đó đẩy
cả cổ xương đùi ra trước (nếu đi đường sau bên), đẩy ra
sau (nếu đi đường trước bên). Không nên đặt nâng xương
đè vào cổ xương đùi, dễ làm bẹp, toác, vỡ cổ xương đùi.
Có thể chủ động khoan đinh xác định tâm cổ xương đùi
trước khi doa ổ cối, đo và dự tính chiều dài cán khớp sẽ
thay để cắt bớt phần cổ xương đùi còn dư, giảm khó khăn
khi doa ổ cối. Ngoài ra có thể dùng dụng cụ doa ổ cối zic
zắc chuyên dụng hoặc thả doa rời xuống đáy ổ cối trước
sau đó mới tra cán vào và doa.
- Về bắt vít cố định ổ cối: Trong nhóm nghiên cứu chỉ

có 5/34 khớp được bắt vít cố định ổ cối. Việc lựa chọn bắt
vít hay không dựa vào chất lượng xương ổ cối và kỹ thuật
mổ của phẫu thuật viên. Bắt vít cố định ổ cối chỉ định cho
những bệnh nhân thưa, loãng xương, khi đóng ổ cối không
thấy khít. Theo Hugh U. Camerun [4], có hai vị trí cố định
vít, đó là ở trần và rìa ổ cối. Việc cố định vít ổ cối nhằm
cố định cup, nhưng có nhược điểm có thể gây tổn thương
mạch máu thần kinh khi khoan, bắt vít, sau đó sẽ gây tiêu
xương trần ổ cối. Vì vậy với ổ cối chất lượng xương còn
tốt, đóng cup thấy vừa và chặt thì không nên bắt vít. Chỉ
nên bắt vít cố định ổ cối khi thưa loãng xương, khi đóng
ổ cối không thấy khít, hoặc khi thay lại khớp. Chúng tôi
đồng ý với quan điểm này. Theo dõi bệnh nhân đến thời
điểm này (ca dài nhất là 3 năm) chúng tôi chưa thấy có
trường hợp nào bị tiêu xương trần ổ cối, lỏng ổ cối, tiêu
xương quanh chân vít.
3.3 Về tai biến trong mổ và các biến chứng sau mổ:
3.3.1 Vỡ xương:
Chúng tôi gặp 1 trường hợp vỡ rạn ổ cối, một trường
hợp rạn xương vùng mấu chuyển lớn xương đùi (phía đuôi
cán spiron), 1 trường hợp bị vỡ cổ xương đùi khi nắn chỉnh
đặt lại khớp háng phải chuyển thay khớp háng cán dài,
không có trường hợp nào gãy đầu trên xương đùi. Tai biến
vỡ xương trong mổ cũng được thông báo trong các nghiên
cứu trong và ngoài nước, Ngô Bảo Khang [5] thay 33 khớp
toàn phần, có 2 trường hợp vỡ xương liên mấu chuyển, 1
trường hợp khoan thủng xương đùi. Năm 2006, theo báo
cáo của Nguyễn Tiến Bình [6], có 1 trường hợp vỡ khối
mấu chuyển, 1 trường hợp khoan thủng thành xương đùi
trong 239 trường hợp thay khớp háng toàn phần. Nghiên

cứu của Darin Davidsion và cộng sự [3] cho thấy tỷ lệ gãy
xương đùi là 1- 5,4%, chủ yếu gãy xương vùng liên mấu
chuyển, nếu ổ gãy không di lệch, không cần can thiêp gì,
Phần 2: Phần nội soi và thay khớp
123


TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2013

chỉ cho tỳ nén muộn, nếu gãy xương di lệch phải xem
xét kết xương kết hợp hoặc đổi chuôi dài. Tỷ lệ vỡ
xương ổ cối 0,02%-0,4%, nếu không di lệch, chỉ cho
tỳ nén muộn (sau 8 tuần), nếu gãy xương di lệch, đặc
biệt vỡ cột trụ, nên ghép xương, dùng rọ ổ cối. Cán
Spiron cố định vào phần cổ xương đùi thay cho phần
thân xương nên hạn chế được (không có) tai biến
vỡ thân xương đùi hay khoan thủng xương đùi-hạn
chế được một biến chứng lớn trong thay khớp. Theo
chúng tôi, để bắt cán spiron chặt mà không vỡ xương
cổ xương đùi nên chọn đường kính cán phù hợp, nếu
đường kính cán lớn thành xương còn lại mỏng khi
lắp cán hoặc nắn chỉnh dễ vỡ, toác cổ xương đùi, nếu
đường kính cán nhỏ, doa chưa lấy hết phần xương
xốp của cổ thì cán thường lỏng, tuổi thọ của khớp
không cao. Chúng tôi thường doa cổ xương đùi các
số tăng dần khi thấy hết phần xương xốp thì dừng
lại. Vặn cán khớp 2 vòng thì vặn ngược lại 1 vòng và
các vòng cuối cùng thì không vặn ngược lại nữa. Nếu
vặn cán Spiron mà lỏng thì nên chủ động chuyển thay
cán dài, trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi có một

trường hợp cán spiron lỏng phải chuyển thay cán dài.
Khi đặt lại khớp háng nếu khó khăn phải xem lại cỡ
head, phối hợp với bác sĩ gây mê làm mềm cơ tối
đa để dễ dàng nắn chỉnh. Không nắn chỉnh thô bạo,
không đặt nâng xương đè vào cổ xương đùi dễ làm
toác, vỡ cổ.
3.3.2 Tổn thương thần kinh hông to:
Chúng tôi có 4 trường hợp tổn thương thần kinh
hông khoeo ngoài, những trường hợp này được điều
trị nội khoa, lý liệu, châm cứu…3 trường hợp kiểm
tra sau mổ 3 – 6 tháng đã hồi phục. Một trường hợp
bệnh nhân mất gấp mu và có hội chứng bỏng buốt
bàn chân điều trị như trên nhưng kém hiệu quả, sau
mổ 3 tuần được phẫu thuật lại. Dây thần kinh còn
nguyên vẹn, không bị dính nhưng căng khi duỗi tối
đa, chúng tôi đã tiến hành phẫu tích giải phóng thần
kinh rộng rãi. Bệnh nhân này chi dài hơn bên lành
2,5cm. Sau đó bệnh nhân tiếp tục được chuyển điều
trị nội khoa, đông y các triệu chứng lâm sàng cải
thiện dần, hiện đang tiếp tục theo dõi. Nguyên nhân
chủ yếu ở đây là do thay khớp spiron phần cổ xương
đùi để lại dài doa ổ cối khó khăn nên phẫu thuật viên
thường đè đẩy phần mềm nhiều dễ làm căng dãn tổn
thương thần kinh hông to. Theo chúng tôi khi mới
thay khớp spiron nên chọn đường trước bên và chú ý
nhẹ nhàng khi bộc lộ ổ cối, cân bằng chi tốt không để
tình trạng dài chi làm căng dãn thần kinh hông to. Tỷ
124

lệ tổn thương thần kinh hông to nói chung là 0,5% và

chủ yếu gặp ở các ca thay khớp háng theo đường sau
bên [5,6]. Như vậy tỷ lệ tổn thương thần kinh hông
to của chúng tôi còn khá cao do đây là kỹ thuật mới
khó chúng tôi chưa có nhiều kinh nghiệm trong phẫu
thuật này.
3.3.3 Các biến chứng khác:
Chúng tôi không gặp trường hợp nào nhiễm
khuẩn sâu, huyết khối hay sai khớp là những biến
chứng có thể gặp trong phẫu thuật thay khớp háng.
Có một trường hợp nhiễm khuẩn nông chúng tôi
chăm sóc vết thương, dùng kháng sinh khâu da kỳ
hai bệnh nhân ổn định. Theo các nghiên cứu trong và
ngoài nước, như của Ngô Bảo Khang [5], tỷ lệ nhiễm
khuẩn trong lô thay khớp háng của tác giả là 1/33
trường hợp, lỏng khớp 1/33 trường hợp. Nguyễn
Tiến Bình [6] thông báo nhiễm khuẩn sau thay khớp
háng là 3/468 trường hợp, lỏng khớp 2 trường hợp.
Trên thế giới hiện nay, tỷ lệ sai khớp háng <1% , tỷ
lệ nhiễm khuẩn khoảng 1%, huyết khối tĩnh mạch
khoảng 0,7-1,02% [2].
Chúng tôi chưa gặp biến chứng nào lớn sau mổ,
ngoài nguyên nhân chủ quan do tuân thủ tốt vô trùng,
kỹ thuật mổ, điều trị, săn sóc sau mổ, còn có nguyên
nhân khách quan do số lượng bệnh nhân ít, số bệnh
nhân già yếu không có, thời gian theo dõi còn ngắn.
Tuy nhiên kết quả ban đầu như vậy là rất đáng
khích lệ.
3.4 Về vấn đề cân bằng chi sau mổ:
Tỷ lệ bệnh nhân dài chi hơn 2 cm của chúng tôi
còn cao (7/28 bệnh nhân) nguyên nhân do đo cắt cổ

xương đùi chưa chính xác. Ngoài ra một số ca do đặt
góc cổ thân xương đùi chưa chuẩn (góc quá đứng,
hoặc cán spiron lệch ra trước, ra sau). Thay khớp
spiron là kỹ thuật mới, khó chúng tôi chưa có nhiều
kinh nghiệm nên thời gian đầu kỹ thuật đôi lúc chưa
được tốt. Để khắc phục tình trạng này chúng tôi lập
kế hoạch cụ thể trên phim X quang trước mổ, dùng
C-arm kiểm tra cả tư thế thẳng nghiêng khi đặt mũi
khoan xác định tâm cổ xương đùi. Khi mũi khoan
này ở đúng tâm chỏm thì mới doa và lắp cán spiron.
Những ca gần đây chúng tôi đều cân bằng chi tốt.
3.5 Về kết quả chung:
Trong 23 bệnh nhân được đánh giá, với 29 khớp
được thay, có 17/29 khớp (15/23 bệnh nhân) đạt kết
quả rất tốt, 7/29 khớp (3/23 bệnh nhân) xếp loại tốt,
4/29 khớp (4/23 bệnh nhân) xếp loại trung bình, 1/29


khớp (1/23 bệnh nhân) xếp loại kém. B.Birkenhauer [1]
thay khớp Spiron cho 34 bệnh nhân chỉ số Harris Hip
Score trước phẫu thuật là 51(24-76 với n=38), sau một
năm chỉ số này tăng lên 94 (86-100 với n=20). Nguyễn
Văn Thạch và cs [7] thay khớp Spiron cho 22 bệnh nhân
kết quả tốt và rất tốt là 97,2 % (theo thang điểm Harris).
Chúng tôi không so sánh kết quả nghiên cứu ban đầu của
chúng tôi với các nghiên cứu khác, vì số lượng bệnh nhân
của chúng tôi còn ít, thời gian nghiên cứu ngắn, tuy nhiên
kết quả này là rất khả quan.

- Bên cạnh yếu tố về tuổi chỉ định thay khớp Spiron

cần chú ý đến chất lượng xương và giải phẫu vùng cổ,
vùng liên mấu chuyển xương đùi tuy nhiên quyết định
cuối cùng thay Spiron hay không vẫn là quyết định trong
mổ. Vì cổ xương đùi còn giữ lại nhiều nên khi bộc lộ và
doa ổ cối thường khó khăn cần nhẹ nhàng, khéo léo tránh
căng kéo nhiều làm tổn thương thần kinh to, chú ý đặt đinh
xác định tâm cổ xương đùi chuẩn xác, có thể kiểm tra qua
C-arm để hạn chế sự biến đổi góc cổ thân xương và chú ý
vấn đề cân bằng chi trong mổ.

V. KẾT LUẬN

Kết quả của chúng tôi đạt được là rất khả quan, tuy
nhiên đây chỉ là kết quả ban đầu, cần phải tiếp tục theo
dõi, đánh giá trong thời gian dài hơn, số lượng bệnh nhân
nhiều hơn. Nhưng rõ ràng khớp Spiron đã và sẽ mang lại
một triển vọng mới tươi sáng hơn cho các bệnh nhân trẻ có
chỉ định thay khớp.

Bệnh viện TƯQĐ 108 đã phẫu thuật thay 34 khớp háng
Spiron cho 28 bệnh nhân.
- Điểm Harris trung bình trước mổ là 53,48 điểm, sau
mổ là 82,13 điểm, có 17/29 khớp (15/23 bệnh nhân) đạt
kết quả rất tốt, 7/29 khớp (3/23 bệnh nhân) xếp loại tốt,
4/29 khớp (4/23 bệnh nhân) xếp loại trung bình, 1/29 khớp
(1/23 bệnh nhân) xếp loại kém.

Tài liệu tham khảo
1.


Birkenhauer B., Kistmacher H, Ries J, Conception
and first results of the spiron cementless femoral neck
screw prosthesis. 2004(nov) Orthopade 33(11):12591266

2.

Chunliu Zhan et al. Incidence and short-term
outcomes of the primary and revision hip replacement
in the United States. J Bone Joint Surg Am. 2007; 89:
526-533.

3.

Darin Davidson et al. Intraoperative periprosthetic
fractures during total hip arthroplasty. J Bone Joint
Surg Am. 2008; 90: 2000-12.

4.

Hugh U. Camerun. Acetabular component design.
Hip replacement: Current trends and Controversies.
2002. p. 91-136

5.

Ngô Bảo Khang, Thay khớp háng nhân tạo toàn
phần và bán phần. Chuyên đề Chấn thương Chỉnh
hình. 2-6

6.


Nguyễn Tiến Bình và cộng sự, Đánh giá kết quả
phẫu thuật thay khớp háng từ tháng 12/1991 đến
02/2006 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Hội
nghị thường niên hội Chấn thương Chỉnh hình Việt
Nam lần thứ 5. 2006. Trang 98-102.

7.

Nguyễn Văn Thạch và cs, Đánh giá kết quả bước
đầu của phương pháp thay khớp háng loại spiron cho
các bệnh nhân trẻ tuổi, Tạp chí Chấn thương Chỉnh
hình Việt Nam số 3-2013, trang 22-26.

Phần 2: Phần nội soi và thay khớp
125



×