Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

BTL môn cạnh tranh: Thực trạng pháp luật về các phương thức giải quyêt tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.22 KB, 16 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc ký kết, gia nhập
các hiệp định thương mại song phương và đa phương, đồng thời với sự thừa
nhận của Nhà nước về cơ chế thị trường, sự ra đời của pháp luật về cạnh tranh
đã góp phần điều tiết nền kinh tế, tạo lập và duy trì một môi trường kinh doanh
bình đẳng, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng và đáp ứng nhu cầu
khách quan của hội nhập quốc tế. Có thể thấy, hoạt động tranh chấp giữa thương
nhân và người tiêu dùng ở nước ta đang trở nên ngày càng đa dạng, phức tạp và
gay gắt, từ đó dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp đã tìm cách thực hiện các hành
vi nhằm hạn chế, kìm hãm tranh chấp trên thị trường. Phương thức giải quyết
tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng gắn với vấn đề bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng đang rất được quan tâm hiện nay. Qua bài tiểu luận này, em se
đi sâu vào phân tích đề tài: “Thực trạng pháp luật về các phương thức giải
quyêt tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng tại Việt Nam” để làm
rõ các quy định của pháp luật Việt Nam về phương thức giải quyết tranh chấp
cũng như việc áp dụng các quy định này trong thực tế.
Do kiến thức và thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên bài làm còn nhiều
thiếu sót, rất mong nhận được sự đánh giá, góp ý của các thầy cô để bài làm
được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp theo pháp luật bảo vệ
người tiêu dùng Việt Nam.
1. khái niệm


Thương nhân: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp
pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng
ký kinh doanh.” (Theo quy định tại Điều 6 Luật Thương mại 2005) Theo khái
niệm này, thương nhân bao gồm:
+ Tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp;


+ Cá nhân.
Người tiêu dùng: Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch
vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức.
(Điều 3 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010)
tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân là sự bất đồng chính
kiến, sự mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ
thể tham gia quan hệ tiêu dùng. Theo đó, tranh chấp giữa người tiêu dùng với
thương nhân có thể có những dạng cơ bản sau:
-

Tranh chấp về các điều kiện giao dịch chung và hợp đồng theo mẫu của tổ

chức, cá nhân cung ứng hàng hóa, dịch vụ;
-

Tranh chấp về số lượng, chất lượng, tiêu chuẩn hàng hóa, dịch vụ được

cung ứng;
-

Tranh chấp về thực hiện các nghĩa vụ bảo hành, thu đổi hàng hóa, trả lại

tiền, thu hồi hàng hóa theo quy định của pháp luật;
-

Tranh chấp về hành vi ép buộc, quấy rối người tiêu dùng thông qua tiếp

thị hàng hóa, dịch vụ của thương nhân trái với ý muốn của người tiêu dùng;
-


Tranh chấp về nghĩa vụ đảm bảo thông tin an toàn, bí mật thông tin của

người tiêu dùng khi tham gia giao dịch , sử dụng hàng hóa, dịch vụ;


-

Tranh chấp về hành vi lừa dối hoặc gây nhầm lẫn của thương nhân cho

người tiêu dùng thông qua hoạt động quảng cáo hoặc che giấu, cung cấp thông
tin không đầy đủ, sai lệch, không chính xác;

2. Đặc điểm tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
chủ thể: trong quan hệ tranh chấp này có 2 bên chủ thể là người tiêu
dùng và thương nhân. Loại hình tranh chấp này phải có một bên tham gia là
người tiêu dùng là người mua; sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu
dùng, sinh hoạt cá nhân, gia đình, tổ chức, một bên là thương nhân, người bán,
cung ứng dịch dụ.
Lĩnh vực phát sinh tranh chấp: Đây là loại hình tranh chấp phát sinh
trong quan hệ tiêu dùng – điểm cuối trong chuỗi phân phối hàng hóa, dịch vụ.
Do đó, trong quan hệ tiêu dùng không tồn tại sự phân phối lại. Bởi thế, người
tiêu dùng luôn phải đối mặt với các rủi ro đối với hàng hóa, dịch vụ được
chuyển giao từ các chuỗi phân phối trước đó.
Nội dung của tranh chấp: Nội dung các tranh chấp giữa người tiêu dùng
với thương nhân chủ yếu liên quan đến các nghĩa vụ của thương nhân trong quá
trình đưa hàng hóa, dịch vụ của mình vào lưu thông.
Thời điểm phát sinh tranh chấp: Phát sinh ngay khi hàng hóa, dịch vụ của
thương nhân chưa chính thức tham gia lưu thông ( ví dụ: thuốc chữa bệnh, năng
lượng hạt nhân, thực phẩm biển đổi gen,…). Khởi nguồn của những tranh chấp
này thường bắt đầu từ những người tiêu dùng tình nguyện (dùng thử) và các tổ

chức bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
Hệ quả xã hội của tranh chấp: Tranh chấp giữa người tiêu dùng với
thương nhân có thể dẫn tới những phản ánh tiêu cực từ phía cộng đồng tiêu dùng
và toàn xã hội như: tẩy chay tập thể đối với toàn bộ sản phẩm mà thương nhân


cung ứng, sản phẩm có xuất xứ từ quốc gia, vùng lãnh thổ, công khai phổ biến
các thông tin chưa được kiểm chứng về sản phẩm,…
II. Thực trạng pháp luật về các phương thức giải quyết tranh chấp giữa
người tiêu dùng và thương nhân tại Việt Nam
1. Đánh giá tình hình chung.

Nếu như Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 đưa ra các quy
định khái quát về mặt nguyên tắc liên quan đến vấn đề bảo vệ người tiêu dùng
thì các Nghị định hướng dẫn thi hành chẳng hạn như Nghị định số 99/2011/NĐ CP giải thích rõ hơn các quy trách nhiệm, trình tự, thủ tục điều tra và xử lý đối
với vụ việc tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân giúp các cơ quan
chức năng có căn cứ rõ ràng hơn khi xem xét các vụ việc liên quan đến hành
tranh chấp
Song song với việc ban hành quy định điều chỉnh hành bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng, bộ máy thực thi tại Việt Nam cũng được hình thành với cơ
quan chức năng là Bộ Công Thương. Liên quan đến các việc bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng, Cục quản lý cạnh tranh,Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và huyện có
chức năng giúp Bộ công thương thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
Gần 10 năm thực thi, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã dần đi vào
đời sống. Một số quy định về Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã có những tác
động tích cực đối với môi trường tranh chấp trên các thị trường liên quan trong
các vụ việc được điều tra và làm rõ, đồng thời, nhận thức của thương nhân về
pháp luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng được nâng lên rõ rệt. Các
thương nhân đã có sự quan tâm nhất định đến việc tuân thủ các quy định pháp

luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Sự thay đổi này một phần do nỗ lực của
các cơ quan quản lý trong việc phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi vi
phạm.


Bên cạnh đó, cũng phải kể đến hiệu quả hoạt động tuyên truyền pháp luật
cho cộng đồng thương nhân và người tiêu dùng của Bộ công thương. Trong bối
cảnh một số quy định của luật vẫn còn chưa được quy định cụ thể hóa, các báo
cáo thường niên về thực thi luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, báo cáo tập
trung kinh tế tại Việt Nam và gần đây nhất là hội nghị rà soát các quy định của
luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Bộ Công Thương tổ chức “Hội nghị Tổng
kết thi hành Luật Bảo vệ người tiêu dùng (2011 – 2018) Ngày 14 tháng 6 năm
2019.
2. Các phương pháp giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu
dùng theo pháp luật viêt nam
2.1 Giải quyết tranh chấp bằng phương pháp thương lượng
a. Khái niệm: Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp giữa người
tiêu dùng và thương nhân không cần đến vai trò của bên thứ ba.. Đặc điểm cơ
bản của thương lượng là các bên cùng nhau trình bày quan điểm, chính kiến, bàn
bạc tìm các biện pháp thích hợp, và đi đến thống nhất thỏa thuận để tự giải quyết
các bất đồng.
b.Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu
dùng bằng thương lượng tại Việt Nam
Ở Việt Nam, phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng được
ghi nhận chính thức như là một hình thức giải quyết tranh chấp độc lập. Đối với
quan hệ tiêu dùng, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 thừa nhận
thương lượng là một phương thức giải quyết tranh chấp, quy định tại Khoản 1
Điều 31 , Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 như sau: “1.Người
tiêu dùng có quyền gửi yêu cầu đến tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ để thương lượng khi cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm

phạm”. Theo đó, hình thức này chỉ bị hạn chế khi tranh chấp gây thiệt hại đến
lợi ích của Nhà nước, lợi ích của nhiều người tiêu dùng và lợi ích công cộng,


Điều này được quy định tại khoản 2 Điều 31 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng “2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm tiếp
nhận, tiến hành thương lượng với người tiêu dùng trong thời hạn không quá 07
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu” . Khi phát sinh tranh chấp, người
tiêu dùng có quyền gửi yêu cầu đến tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ để thương lượng khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm tiếp nhận,
tiến hành thương lượng với người tiêu dùng trong thời hạn không quá 07 ngày
làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
Mặc dù, tại Điều 32 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 có quy
định: “Kết quả thương lượng thành của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ với người tiêu dùng được lập thành văn bản, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận khác”. Nhưng lại không đề cập đến giá trị pháp lý của kết quả
thương lượng nêu trên.
Có thể thấy, dù thương lượng có nhiều những ưu điểm như vậy nhưng ở
Việt Nam hình thức này không được sử dụng rộng rãi. Vì một số nguyên nhân
cơ bản như:
- Tổ chức, cá nhân kinh doanh không ý thức được trách nhiệm xã hội của mình
và thường lợi dụng vị thế bất cân xứng về thông tin trong quá trình cung ứng
hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng;
- Bản thân người tiêu dùng chưa nhận thức được quyền của mình và sử dụng các
quyền đó để bảo vệ lợi ích của chính mình;
- Pháp luật Việt Nam thừa nhận hình thức giải quyết tranh chấp thương lượng
song lại không thừa nhận khả năng cưỡng chế thi hành những cam kết của các
bên trong biên bản thương lượng. Đây là rào cản lớn nhất khiến khi tham gia
giải quyết tranh chấp bằng thương lượng thành, dễ xảy ra tình trạng thoái thác

thực hiện nghĩa vụ đã cam kết.


2.2. Giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa giải
a. Khái niệm: Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp trong đó các bên trong
quá trình thương lượng có sự tham gia của bên thứ ba độc lập do hai bên cùng
chấp nhận hay chỉ định làm vai trò trung gian để hỗ trợ cho các bên nhằm tìm
kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết các xung đột nhằm chấm
dứt các tranh chấp, bất hòa.
b. Thực trạng pháp luật giải quyết tranh bằng hòa giải tại Việt Nam
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã quy định khá chi tiết về quyền
lựa chọn phương thức hòa giải tại Điều 33 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng năm 2010: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và người tiêu
dùng có quyền thỏa thuận lựa chọn bên thứ ba là cá nhân hoặc tổ chức hòa giải
để thực hiện việc hòa giải.” Nguyên tắc hòa giải quy định tại Điều 34 của Luật
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010:
“1. Bảo đảm khách quan, trung thực, thiện chí, không được ép buộc, lừa dối.
2. Tổ chức, cá nhân tiến hành hòa giải, các bên tham gia hòa giải phải bảo
đảm bí mật thông tin liên quan đến việc hòa giải, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Tổ chức hòa giải được pháp luật quy định tại Điều 35: “Tổ chức, cá nhân có
đủ điều kiện theo quy định của Chính phủ được thành lập tổ chức hòa giải để
giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ” . Ngoài ra, còn được quy định tại các Điều 31, 32 và 33 của
Nghị định 99/2011/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Theo đó,
các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thành lập, giải thể tổ chức hòa giải bao
gồm: cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; tổ chức xã
hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Điều 31). Hòa giải viên phải đáp
ứng các điều kiện làm hòa giải viên được quy định tại Điều 32: Là công dân Việt

Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực,


có ít nhất năm (5) năm kinh nghiệm công tác. Người đang bị quản chế hành
chính, đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã bị kết án mà chưa được xóa
án tích không được làm hòa giải viên.
Điều 36 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy định về nội dung biên bản
hòa giải như sau”
“1. Biên bản hòa giải phải có các nội dung chính sau đây:
a) Tổ chức, cá nhân tiến hành hòa giải;
b) Các bên tham gia hòa giải;
c) Nội dung hòa giải;
d) Thời gian, địa điểm tiến hành hòa giải;
đ) Ý kiến của các bên tham gia hòa giải;
e) Kết quả hòa giải;
g) Thời hạn thực hiện kết quả hòa giải thành.
2. Biên bản hòa giải phải có chữ ký của các bên tham gia hòa giải và chữ
ký xác nhận của tổ chức, cá nhân tiến hành hòa giải.”
Các bên có trách nhiệm thực hiện kết quả hòa giải thành theo Điều 37 Luật
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 trong thời hạn đã thỏa thuận trong biên
bản hòa giải; trường hợp một bên không tự nguyện thực hiện thì bên kia có
quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật.
Mặc dù hòa giải là phương thức được sử dụng rộng rãi hơn, chiếm 80% các
vụ việc khiếu nại của người tiêu dùng. Tuy nhiên, kết quả hòa giải nhiều khi
không được các bên nghêm túc thực thi do giá trị pháp lý của biên bản hòa giải
thành là không cao. Như vậy, phương thức hòa giải vẫn có những hạn chế nhất
định. Ở Việt Nam, giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng
bằng hòa giải được dụng rất hạn chế vì:



Một là, chưa tồn tại một khuôn khổ pháp lý đầy đủ cho các hoạt động hòa
giải tại Việt Nam mà trước hết là sự lựa chọn người hòa giải; quy trình hòa giải;
giá trị pháp lý trong các khuyến nghị của hòa giải viên; hình thức quyết định của
các bên; giá trị pháp lý của biên bản hòa giải thành…
Hai là, cũng giống với thương lượng, pháp luật Việt Nam không thừa nhận
khả năng cưỡng chế thi hành những cam kết của các bên trong biên bản hòa giải
thành. Với hạn chế này, cácbên tranh chấp thường quyết định tiếp cận công lý
dưới hình thức khác.
2.3 Giải quyết tranh chấp bằng phương pháp trọng tài
a. Khái niệm: giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là hình thức giải quyết tranh
chấp thông qua hoạt động trọng tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm
chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra phán quyết buộc các bên tranh chấp phải
thực hiện. Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp xuất phát từ nhu cầu
bảo vệ lợi ích của các thương nhân trong hoạt động kinh doanh.
b. Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp ằng hòa trọng tài tại Việt Nam
Trong trường hợp người tiêu dùng và tổ chức cá nhân kinh doanh hàng
hóa dịch vụ vẫn chưa tìm được tiếng nói chung thông qua các phương thức như
thương lượng hoặc hòa giải có thể thỏa thuận lựa chọn phương pháp là gửi đơn
lên Trọng tài. Theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010, trọng tài được
sử dụng như một cách giải quyết tranh chấp phát sinh khi có điều khoản trọng
tài (Thuật ngữ dùng trong Luật Trọng tài thương mại 2010 là “thỏa thuận trọng
tài”). Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài giữa người tiêu dùng với thương nhân
được quy định từ Điều 38 đến Điều 40 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
2010. Bên cạnh đó, Điều 2 Luật trọng tài thương mại 2010 cũng quy định:
“1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động
thương mại


3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết

bằng trọng tài.”
Tuy nhiên, để điều khoản trọng tài có hiệu lực, tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ phải thông báo về điều khoản trọng tài trước khi giao
kết hợp đồng và được người tiêu dùng chấp thuận. Theo điều 17 của Luật Trọng
tài thương mại 2010 thì: “Đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa,
dịch vụ và người tiêu dùng, mặc dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong
các điều kiện chung về cung cấp hàng hóa, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn
thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa chọn trọng tài hoặc
tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được
quyền khởi kiện tại trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận”. Cách thiết
kế quy định này đảm bảo tính linh hoạt, theo đó,nếu người tiêu dùng hài lòng
với điều khoản trọng tài, tranh chấp vẫn được giải quyết bằng trọng tài như hai
bên đã thảo thuận theo điều kiện giao dich chung. Ngược lại, nếu cảm thấy thiệt
thòi bởi thỏa thuận đó, người tiêu dùng cần có cơ hội để xem xét và quyết định,
nếu đồng ý với thỏa thuận trọng tài thì xác nhận vào văn bản riêng. Đây là một
quy định riêng của Luật Trọng tài nhằm bảo vệ người tiêu dùng, bổ sung các
nguyên tắc chung khác trong pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
Mặc dù việc ra đời các chế tài bảo vệ người tiêu dùng (trong đó có phương thức
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài) ở mức cao nhất là rất cần thiết nhưng cũng
phải tính tới việc cân bằng lợi ích giữa người tiêu dùng và doanh nghiệp.
Trong điều kiện hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, bên cạnh những thuận lợi,
các doanh nghiệp cũng gặp phải rất nhiều vấn đề phát sinh khi thực hiện các hợp
đồng.Bởi vậy mà khi xảy ra tranh chấp, phương thức giải quyết bằng trọng tài là
phương thức đạt hiệu quả cao nhất. Bởi giải quyết bằng phương thức này chỉ
giải quyết 1 lần, bằng một hội đồng trọng tài do các lựa chọn nên các bên có thể
chọn những chuyên gia giỏi nhất, độc lập, vô tư và khách quan nhất, có thể bảo
vệ được các bí mật của thương nhân, thủ tục do các bên tự thỏa thuận và thời
gian giải quyết tranh chấp ngắn gọn.



2.4 giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân bằng tòa án
a. Khái niệm: Giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng toàn án là hình thức giải
quyết tranh chấp thông qua hoạt động của cơ quan tài phán Nhà nước, nhân
danh quyền lực nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên có nghĩ vụ thi
hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế.
b. Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu
dùng bằng hòa tòa án tại Việt Nam
* Giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng bằng thủ tục đơn
giản
Theo khoản 2 Điều 41 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 thì vụ án
dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được giải quyết theo thủ tục đơn
giản quy định trong pháp luật tố tụng dân sự khi có đủ những điều kiện sau đây:
“a) Cá nhân là người tiêu dùng khởi kiện; tổ chức, cá nhân trực tiếp cung
cấp hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng bị khởi kiện;
b) Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng;
c) Giá trị giao dịch dưới 100 triệu đồng.”
* Quyền khởi kiện của tổ chức tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 thừa nhận quyền khởi kiện trực
tiếp của các tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, quy
định tại khoản 1 Điều 41 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010: “ Vụ án
dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là vụ án mà bên khởi kiện là người
tiêu dùng hoặc tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo
quy định của Luật này.”
Để bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích của người tiêu dùng, Luật Bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng quy định chi tiết nghĩa vụ thông tin về vụ án dân sự về bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng do tổ chức xã hội khởi kiện tại Điều 44 như sau:


“1. Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có trách
nhiệm thông báo công khai bằng hình thức phù hợp về việc khởi kiện và chịu

trách nhiệm về thông tin do mình công bố, bảo đảm không ảnh hưởng đến hoạt
động bình thường của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
2. Nội dung thông báo quy định tại khoản 1 Điều này bao gồm:
a) Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khởi kiện;
b) Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện;
c) Nội dung khởi kiện;
d) Thủ tục và thời hạn đăng ký tham gia vụ án.
3. Tòa án có trách nhiệm niêm yết công khai tại trụ sở Tòa án thông tin về
việc thụ lý vụ án trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án theo
quy định của pháp luật tố tụng dân sự.”
Tiền bồi thường thiệt hại trong vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng do tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khởi kiện vì
lợi ích công cộng được thực hiện theo ản án, quyết định của tòa án [5].
* Nghĩ vụ chứng minh trong các vụ án bảo vệ quyền lời người tiêu dùng
Điều 41 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 có quy định về nghĩa vụ
chứng minh trong các vụ án bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng như sau:
“1. Người tiêu dùng có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong
vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của
pháp luật về tố tụng dân sự, trừ việc chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ.
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có nghĩa vụ chứng minh
mình không có lỗi gây ra thiệt hại.”


Như vậy, theo Khoản 1 Điều 41 Người tiêu dùng có nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ và chứng minh trong vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Điều này là phù hợp bởi
theo quy định tại Điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 khi có yêu cầu bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ( người tiêu dùng) hoặc phản đối yêu cầu
của người khác đối với mình, thì đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện ,

yêu cầu phải có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình
là có căn cứ và hợp pháp. Do đó, trong trường hợp này, người tiêu dùng là người
khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền vào nghĩa vụ hợp pháp của mình nên phải có
nghĩa vụ chứng mình yêu cầu của mình có căn cứ hợp pháp.
Tuy nhiên, trong các vụ án bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trách nhiệm chứng
minh lỗi đã được chuyển giao từ người tiêu dùng sang tổ chức, cá nhân kinh
doanh cung ứng hàng hóa, dịch vụ. Đây là điều hoàn toàn hợp lý, bởi trong có
vụ án về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thì người tiêu dùng ở thế yếu ,thiếu
thông tin, kinh nghiệm cũng như kiến thức chuyên môn cao do đó không thể
chứng minh lỗi của của tổ chức, cá nhân kinh doanh. Do vậy, trách nhiệm chứng
minh lỗi được chuyển sang cho bên tổ chức, cá nhân kinh doanh.
2.5. Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hành chính
Ở Việt Nam tuy không được nhìn nhận chính thức là phương thức giải
quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân, nhưng biện pháp hành
chính cũng được sự liệu trong pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cụ
thể:
a. Về nội dung, hình thức yêu cầu bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng:
Người tiêu dùng, tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có
quyền yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
cấp huyện bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng khi có hành vi vi phạm pháp
luật của thương nhân gây thiệt hại tới lợi ích nhà nước, lợi ích của nhiều người


tiêu dùng, lợi ích công cộng. Việc yêu cầu có thể thực hiện bằng văn bản hoặc
yêu cầu trực tiếp.
b. Về thủ tục tiếp nhận yêu cầu bảo vệ quyền lợi của người tiêu
dùng: Trường hợp yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được lập thành văn
bản, cán bộ phụ trách tiếp nhận có trách nhiệm xem xét và tiếp nhận yêu cầu.
Trường hợp yêu cầu bảo vệ quyền lời người tiêu dùng được trình bày trực tiếp,
cán bộ phụ trách tiếp nhận phải lập thành văn bản và yêu cầu người tiêu dùng

hoặc người đại diện của tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng kí tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn bản đó. Trường hợp yêu cầu bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng thiếu nội dung cần thiết, việc bổ sung phải được thực
hiện trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu của cơ quan
có thẩm quyền .
c. Trình tự giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng: Trong thời
hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng hợp lệ. Cơ quan có thểm quyên phải trả lời theo quy định tại Điều 26 Luật
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
3. nhưng yêu cầu đặt ra để giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với
thương nhân.
Thứ nhất, phải huy động được sức mạnh của toàn xã hội, trong đó có vai trò
tích cực của bản thân mỗi người tiêu dùng..
Thứ hai, khắc phục vị thế bất cân xứng trong mối quan hệ giữa người tiêu
dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh cung ứng hàng hóa, dịch vụ.
Thứ ba, đảm bảo sự hài hòa lợi ích của người tiêu dùng , doanh nghiệp và lợi
ích chung của toàn xã hội.
Thứ tư, do số lượng các tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
ngày càng tăng, với giá trị tranh chấp không lớn nên việc giải quyết tranh chấp


đòi hỏi phải nhanh chóng, thuận lợi, kinh tế, bằng hình thức đơn giản và hiệu
quả.

KÊT LUÂN
Phương thức giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng là
phương thức tất yếu trong đời sống kinh tế ở nước ta và cần được khuyến khích
trong những điều kiện nhất định. Tuy nhiên, nếu không được giám sát, cảnh báo kịp
thời từ phía Nhà nước, Phương thức giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và
người tiêu dùng se có xu hướng bóp méo hoặc thủ tiêu, qua đó làm phương hại đến

lợi ích chung của toàn xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng pháp luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam về Phương thức giải quyết tranh chấp giữa
thương nhân và người tiêu dùng , có thể thấy đây là vấn đề cấp thiết và liên quan
không chỉ đến các tổ chức kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh mà còn tác động
trực tiếp tới tất cả cá nhân trong xã hội và nền kinh tế nói chung. Do đó, cần có sự
quan tâm đúng mực và thường xuyên đến vấn đề này để bảo đảm môi trường kinh
doanh bình đẳng, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.


DANH MUC TAI LIÊU THAM KHAO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Cạnh tranh, NXB. Công an

nhân dân, Hà Nội, 2016.
2. Trường Đại học kinh tế – luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,

PGS. TS. Lê Danh Vĩnh (Chủ biên), Giáo trình Luật Cạnh tranh, NXB. Dân
trí, Hà Nội, 2010.
3. TS. Tăng Văn Nghĩa, Giáo trình Luật Cạnh tranh, NXB. Giáo dục, Vĩnh

Phúc, 2009.
4. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010.
5. Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015
6. Nghị định số 99/2011/NĐ - CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
7.

/>



×