Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đào tạo công tác xã hội ở trường Đại học Đồng Tháp ngành đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.28 KB, 6 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP

KHOA VĂN HÓA - DU LỊCH

ĐÀO TẠO CÔNG TÁC XÃ HỘI Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
NGÀNH ĐÀO TẠO ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
ThS. Kiều Văn Tu
Phó Trưởng Bộ môn Công tác xã hội, Khoa Văn hóa du lịch
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngành công tác xã hội (CTXH) ra đời như một môn khoa học và được đưa vào đào
tạo trong các trường đại học ở châu Âu và Bắc Mỹ từ khoảng hơn một trăm năm trước, nhưng
là ngành khoa học rất mới mẻ trong hệ thống đào tạo của các trường đại học ở Việt Nam. Đến
năm 2018, ở bậc đại học cả nước có khoảng năm mươi cơ sở đào tạo chuyên ngành công tác xã
hội. Trường đại học Đồng Tháp là một trong ba trường đào tạo ngành công tác xã hội ở khu
vực đồng bằng sông Cửu Long.
Năm 2019, ngành công tác xã hội đã được đào tạo 14 năm và đã nhanh chóng khẳng
định được vị thế của mình trong hệ thống các ngành đào tạo của Trường đại học Đồng Tháp.
CTXH trở thành một trong những ngành đào tạo đáp ứng nguồn nhân lực ở cả phương diện số
lượng và phương diện chất lượng nguồn nhân lực. Việc đào tạo ngành công tác xã hội ở trường
đại học Đồng Tháp là hoàn toàn phù hợp với chủ trương đào tạo đại học của Bộ Giáo dục và
Đào tạo. Đào tạo để đáp ứng nhu cầu xã hội và thực hiện Đề án phát triển nghề Công tác xã hội
giai đoạn 2010-2020 (Đề án 32) của Thủ tướng Chính phủ.
2. KẾT QUẢ ĐÀO TẠO
2.1 Đào tạo công tác xã hội để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội
Ở Việt Nam, mầm mống của công tác xã hội đã có từ rất sớm, ngay trong xã hội phong
kiến tại các làng xã đã tồn tại các mô hình ruộng đất công mà sản phẩm thu được chủ yếu để
trợ cấp cho các đối tượng “có hoàn cảnh” trong thôn xóm như bệnh tật, góa bụa, trẻ mồ côi...
Nhà chùa, nhà thờ cũng là những nơi trú ngụ cho những người đói rách qua đường. Các xã hội
sau đó đã phát triển nhiều mô hình xã hội khác nhau cho việc trợ giúp người nghèo, người khó
khăn, hoạn nạn, mất thăng bằng xã hội, để họ trở lại với cuộc sống bình thường. Có thể nói
những nội dung cơ bản mà công tác xã hội đề cập đến chúng ta đã có từ lâu, nhưng chưa hình


thành một hệ thống khoa học, việc giải quyết các vấn đề xã hội vẫn mang tính mò mẫm, thiếu
các công cụ mang tính khoa học.
Công tác xã hội như một khoa học xã hội ứng dụng cũng chỉ nhận được sự phổ biến
rộng rãi ở nước ta trong gần hai chục năm lại đây. Đó là sự đáp ứng những đòi hỏi, những nhu
cầu tất yếu trong sự phát triển của xã hội.
Ngày nay cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế, những vấn đề xã hội bức
xúc cũng đang có xu hướng bùng phát và duy trì ở mức cao. Cụ thể như:
Tình hình nhiễm HIV/AIDS: Tính đến ngày 17/4/2012, tổng số trường hợp nhiễm HIV
hiện còn sống là 200.792 trường hợp, số bệnh nhân AIDS hiện tại là 50.560 trường hợp. Tổng
số người nhiễm HIV đã tử vong là 52.951 trường hợp (nguồn: website HIV Online)
Vấn đề nghèo đói: Theo tổ chức Ngân hàng thế giới, tỉ lệ nghèo đói ở Việt nam năm
2010 là 20,7%, nghèo đô thị là 6%, nghèo nông thôn là 27%. Riêng ở khu vực đồng bằng sông
Cửu Long tỷ lệ nghèo đói là 18,7%
Trong thế giới ngày nay, việc giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội tương tự
không thể cứ mò mẫm, theo chủ nghĩa kinh nghiệm thuần túy hoặc theo chủ nghĩa duy lý trí.
CTXH cần phải mang tính chuyên nghiệp, những người làm CTXH cần phải được đào tạo một
cách chính quy, có bài bản.
2.2 Đào tạo nguồn nhân lực công tác xã hội ở trường đại học Đồng Tháp từ 2005 đến nay
Trường đại học Đồng Tháp là nơi đào tạo tất cả các ngành sư phạm ở các cấp học, có
uy tín và có truyền thống lâu đời. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội và nhu cầu đào tạo
nguồn nhân lực cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Nhà trường đã phát triển đào tạo các
ngành ngoài sư phạm trong đó có ngành công tác xã hội. Với quan điểm truyền bá tri thức và
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về các ngành khoa học xã hội và nhân văn, phục vụ sự
Trang 9


KỶ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM 2019
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Trong khi đó công tác xã hội là một ngành khoa học
ứng dụng thuộc lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn và đã được đào tạo có tính chuyên nghiệp
từ nhiều năm nay ở hầu hết các trường Đại học nổi tiếng trên thế giới. Vì vậy việc đưa vào đào

tạo ngành công tác xã hội tại trường đại học Đồng Tháp là bước đi đúng, đáp ứng nhu cầu phát
triển của xã hội, phù hợp với định hướng và sứ mệnh của nhà trường.
Từ thực tế 14 năm đào tạo ngành công tác xã hội càng cho thấy vai trò quan trọng
trong đào tạo nguồn nhân lực công tác xã hội của ngành đào tạo này.
Về mặt số lượng
Số lượng sinh viên trúng tuyển vào học ngành công tác xã hội có thay đổi theo từng
năm (bảng 1). Nhìn một cách tổng thể thì đây là ngành đào tạo đang có nhiều nhu cầu việc làm
trong xã hội nên số lượng sinh viên tuyển sinh vào học là tương đối ổn định. Có những năm
điều kiện tuyển sinh đầu vào gặp khó khăn, nhiều ngành trong trường không đủ số lượng sinh
viên để có thể mở lớp, nhưng ngành công tác xã hội vẫn duy trì được một đến 2 lớp (gồm cả hệ
vừa làm vừa học).
Bảng 1 Số lượng sinh viên chính quy học ngành công tác xã hội ở trường đại học Đồng
Tháp từ năm 2005 đến nay (đơn vị tính: người)
Năm

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012


2013

2014

2015

2016

2017

2018

Số
lượng
sinh
viên

32

42

58

75

69

57


18

18

34

34

49

17

29

14

Nguồn: Bộ môn Công tác xã hội, trường đại học Đồng Tháp, năm 2018
Hệ đào tạo vừa làm vừa học là hệ đào tạo dành cho những người đang công tác trong
các cơ quan, xí nghiệp, các tổ chức xã hội và không có điều kiện học tập ở hệ chính quy. Năm
2012, nhà trường đã đưa ngành công tác xã hội vào đào tạo vừa làm vừa học. Kết quả tuyên
sinh các lớp ở các tỉnh trong khu vực cụ thể trong bảng 2.
Bảng 2 Số lượng sinh viên vừa làm vừa học học ngành công tác xã hội ở các tỉnh liên kết
đào tạo từ năm 2012 đến nay (đơn vị tính: người)
Tỉnh liên kết Cà Mau
Vĩnh Long
An Giang
Đồng Tháp
Kon
đào tạo
Tum

Số lượng
139
107
72
78
25
Nguồn: Bộ môn Công tác xã hội, trường đại học Đồng Tháp, năm 2018
Như vậy, so với nhiều ngành đào tạo ở trường Đại học Đồng Tháp, công tác xã hội là
ngành đào tạo có sức thu hút xã hội khá cao, hay nói cách khác nhu cầu của người học (đó cũng
thể hiện nhu cầu của xã hội) đối với ngành đào tạo này ở Trường là hiện thực.
Về mặt chất lượng
Kết quả của 5 khóa sinh viên tốt nghiệp ra trường cho thấy ngành công tác xã hội đã
đáp ứng nhu cầu việc làm của xã hội. Trong số 207 sinh viên ra trường (không tính số lượng
sinh viên vừa mới tốt nghiệp Khóa 2014) thì có 125 sinh viên có việc làm trong các cơ quan
nhà nước nhà nước, 40 em có việc làm ở các tổ chức xã hội trong nước và quốc tế (bảng 3).
Khoảng 90% sinh viên có việc làm hiện đang làm việc ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Các cơ quan Nhà nước có số lương sinh viên tốt nghiệp ngành công tác xã hội vào làm việc
nhiều là các Sở, Phòng Lao động thương binh và xã hội; Bảo hiểm xã hội; Ủy ban nhân dân các
xã, phường… Công việc mà các em phụ trách thường là lĩnh vực chính sách xã hội; tư vấn
chăm sóc bảo vệ trẻ em, bảo vệ trẻ em; phòng chống tệ nạn xã hội; tư vấn việc làm, nghề nghiệp
cho thanh niên; tham vấn người bị nhiễm HIV; cán bộ phụ trách văn hóa xã hội ở các xã,
phường.

Trang 10


TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP

KHOA VĂN HÓA - DU LỊCH


Bảng 3 Tình hình việc làm của sinh viên học ngành công tác xã hội khi ra trường (đơn vị
tính: người)
2005- 2006- 2007- 2008- 2009Khóa đào tạo
Tổng
2009 2010 2011 2012
2013
32
42
58
75
69
Số lượng sinh viên
276
Số lượng sinh viên có việc làm
trong cơ quan nhà nước
28

32

34

31

11

136

Số lượng sinh viên có việc làm
ở tổ chức xã hội khác
2


5

12

21

4

44

Sinh viên tốt nghiệp đi học cao học;
tự tạo việc làm; đang tìm việc làm
2

4

10

23

54

93

Số lượng sinh viên

Số lượng sinh viên có việc
làm trong cơ quan nhà nước


Số lượng sinh viên có việc
làm ở tổ chức xã hội khác

Sinh viên tốt nghiệp đi học cao
học; đang tìm việc làm

Nguồn: Bộ môn Công tác xã hội, trường đại học Đồng Tháp, năm 2018
Từ bảng 3 cho thấy, đến khóa năm 2013 có 44 sinh viên ra trường đi làm việc tại các
cơ quan khác. Điều này cho thấy rằng xu hướng sinh viên tốt nghiệp ngành công tác xã hội tìm
được việc làm ở các tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội tư nhân, các dự án, các tổ chức phi chính
phủ đang có chiều hướng gia tăng.
2.3 Những yếu tố quan trọng để đạt được những kết quả đào tạo
Trên cơ sở những cái đã có, cùng kết quả 14 năm đào tạo cũng như qua những số liệu
về tình hình tuyển sinh và việc làm của sinh viên ngành công tác xã hội có thể giúp để thấy
được các yếu tố quan trọng để có được kết quả đào tạo ngành công tác xã hội ở trường đại học
Đồng Tháp, cụ thể như sau
- Thứ nhất, về chương trình đào tạo: Trên cơ sở văn bản qui định về qui chế đào tạo
theo tín chỉ, Nhà trường đã tổ chức xây dựng chương trình đào tạo ngành CTXH cho phù hợp
với sứ mệnh, đặc điểm và các yêu cầu của Trường, là trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học
đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Trang 11


KỶ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM 2019
Chương trình đào tạo ngành công tác xã hội hiện được thiết kế với 122 tín chỉ, được
đào tạo trong 8 học kỳ, khối kiến thức đại cương là 34 tín chỉ, khối kiến thức chuyên ngành là
88 tín chỉ. Với cấu trúc này, chương trình vừa kết hợp được sức mạnh và những đặc điểm của
trường đại học Đồng Tháp, vừa chú trọng nhiều đến khối kiến thức ngành và chuyên ngành.
Với mục tiêu đào tạo các cử nhân công tác xã hội có thể thực hiện việc cung ứng dịch vụ công

tác xã hội tại các cơ sở và tổ chức xã hội. Làm công tác xã hội chuyên nghiệp trong các lĩnh
vực khác nhau: sức khỏe, giáo dục, pháp luật, kinh tế, truyền thông, văn hóa, môi trường...
Chương trình đã giành khá nhiều thời lượng cho kiến thức thực hành, thực tập thực tế. Số tín
chỉ dành cho thực hành, thực tập là 16 tín chỉ (tương đương 1 học kỳ), cũng như đào tạo các
phương pháp kỹ năng cho sinh viên như tham vấn, quan hệ công chúng... Có thể nói đây là
ngành đào tạo giành thời lượng cho thực hành, thực tập, thực tế nhiều nhất trong các ngành đào
tạo của trường đại học Đồng Tháp.
- Thứ hai, về cơ sở đào tạo: Đến nay, trường đại học Đồng Tháp là một trong 3 trường
trực thuộc Bộ Giáo dục và đào tạo ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Nhiều ngành đào tạo
có truyền thống lâu đời, đội ngũ giảng viên có kinh nghiệm, trình độ, có uy tín. Nhiều môn học,
chuyên đề, đề tài khoa học liên quan đến các vấn đề: an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội, chính
sách xã hội, phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo, các tệ nạn xã hội… đều đã được đưa
vào giảng dạy và nghiên cứu. Cùng đứng chân trên địa bàn thành phố Cao Lãnh có các cơ sở
xã hội như Trung tâm Công tác xã hội trẻ em tỉnh Đồng Thám, Trung tâm Phòng chống
HIV/AIDS… đó đều là những cơ sở thực hành hữu ích cho sinh viên công tác xã hội, giúp sinh
viên gắn kết giữa học lý thuyết với nghiên cứu khoa học, gắn kết giữa lý thuyết với thực tế xã
hội. Điều đó góp phần cùng với Nhà trường có đủ cơ sở, năng lực để đào tạo có chất lượng và
phát triển nhanh chóng ngành công tác xã hội.
- Thứ ba, sự quan tâm của chính quyền tỉnh Đồng Tháp và các tổ chức xã hội đối với
ngành công tác xã hội: ngành công tác xã hội luôn nhận được sự quan tâm, sự ủng hộ cả về vật
chất lẫn tinh thần của chính quyền tỉnh Đồng Tháp và các tổ chức xã hội đối với ngành công
tác xã hội. Chính quyền địa phương đã tạo mọi điều kiện để triển khai công tác tuyển sinh và
đào tạo ngành học này đối với hệ đào tạo vừa làm vừa học. Nhà trường đã nhận được sự hỗ trợ
trực tiếp của các tổ chức quốc tế như Save Children in Vietnam; SWEEP – trường đại học San
Jose State, Hoa Kỳ; Trung tâm Công tác xã hội trẻ em Donkoi, Lào; Quỹ Học bổng Nguyễn
Thị Oanh, Trung tâm Nghiên cứu, tư vấn Công tác xã hội và phát triển cộng đồng (SDRC)
TP.HCM… các tổ chức này đã giúp đỡ học phí, tài liệu, giáo trình, xây dựng chương trình đào
tạo, giảng dạy, tập huấn để nâng cao trình độ chuyên môn trong đào tạo công tác xã hội. Đặc
biệt là Chương trình SWEEP- trường đại học San Jose State, Hoa Kỳ hỗ trợ giảng viên CTXH
và cán bộ quản lý của Nhà trường đi tập huấn chuyên môn về đào tạo và quản lý chuyên ngành

CTXH tại Hoa Kỳ.
Như vậy, đề có được những kết quả đào tạo nguồn nhân lực CTXH ở trường đại học
Đồng Tháp như hiện nay là nhờ vào các yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan từ phía giảng
viên CTXH và Lãnh đạo Nhà trường. Trong đó yếu tố quan trọng nhất là giảng viên CTXH và
Lãnh đạo trường xác định là đào tạo để đáp ứng nhu cầu của xã hội, đào tạo nguồn nhân lực
công tác xã hội cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
3. Những cơ hội và thách thức trong quá trình đào tạo
3.1 Những cơ hội
Ngành công tác xã hội có vai trò rất quan trọng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
như: Củng cố an sinh xã hội thông qua việc cải thiện các vấn đề xã hội và tăng cường khả năng
giải quyết vấn đề cho cá nhân và cộng đồng; Trợ giúp cá nhân, nhóm và cộng đồng, cũng như
môi trường xã hội rộng hơn giải quyết và đối phó với khó khăn trong cuộc sống; Kết nối con
người với các nguồn lực và hệ thống các dịch vụ xã hội, cũng như việ c thúc đẩy các tổ chức
xã hội cung cấp dịch vụ và nguồn lực cho con người hoạt động có hiệu quả và mang tính nhân
văn; Thúc đẩy thực hiện và vận động chính sách hỗ trợ các nhóm yếu thế đẩy mạnh an sinh và
công bằng xã hội; Tổ chức nghiên cứu các vấn đề xã hội nhằm cải thiện khung pháp lý và tăng
Trang 12


TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP

KHOA VĂN HÓA - DU LỊCH

cường dịch vụ đáp ứng phù hợp cho các nhóm đối tượng; Giáo dục cộng đồng nâng cao nhận
thức và năng lực về giải quyết các vấn đề xã hội.
Ngành công tác xã hội có thể làm việc ở các lĩnh vực như:


Bảo vệ trẻ em và phụ nữ nạn nhân của bạo hành gia đình và các hành thức hành hạ,
ngược đãi, bóc lột, lạm dụng khác;

 Bảo trợ xã hội, bao gồm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi, người khuyết tật,...
 Phòng chống tệ nạn xã hội;
 Tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử, luật sư, tư vấn, trợ giúp pháp lý…)
 Các chương trình cho thanh niên, người chưa thành niên;
 Giáo dục ở các cấp học;
 Y tế, bao gồm cả lĩnh vực sức khỏe tâm thần;
 Phát triển cộng đồng;
 Quản lý các dịch vụ xã hội;
 Nghiên cứu chính sách …
Vai trò và vị trí quan trọng của ngành công tác xã hội là những cơ hội để đào tạo và phát
triển nghề công tác xã hội ở Viêt Nam nói chung và ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói
riêng.
Với Quyết định 32/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì nghề công tác xã hội đã được
khẳng định ở Việt Nam về mã số, ngạch bậc, thực hiện ở các cấp, bước đầu đã có cơ sở pháp
lý. Việc tồn tại và phát triển công tác xã hội ở Việt Nam đã trở thành một nhu cầu xã hội. Trên
thực tế, công tác xã hội với những biểu hiện cụ thể của nó đã được đề cập trong pháp luật Việt
Nam từ rất sớm, ngay những năm 40-50 của thế kỷ trước thông qua các hoạt động trợ giúp, hỗ
trợ người cao tuổi, trẻ em mồ côi, khuyết tật, những người gặp hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do
cá nhân, tổ chức như Hội Chữ thập đỏ, phụ nữ, thanh niên …thực hiện. Do đó, việc sửa đổi, bổ
sung hệ thống văn bản pháp luật về lĩnh vực này đã có tiền đề và là một thuận lợi để chúng ta
hoàn thiện.
Đã có những văn bản có liên quan đến hoạt động công tác xã hội được quy định trong
các lĩnh vực cụ thể là cơ sở thuận lợi cho việc bổ sung, điều chỉnh, xây dựng các quy định pháp
luật về nghề công tác xã hội trong thời gian tới. Nhiều nội dung liên quan đến công tác xã hội
đã được qui định trong pháp luật Việt Nam, có liên quan đến nhiều lĩnh vực của các Bộ, ngành.
Pháp luật Việt Nam đã có một số văn bản quy định trực tiếp về công tác xã hội như Luật nuôi
con nuôi, Nghị định số 19/2011/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn Luật nuôi con nuôi, Nghị
định 67 và Nghị định 136 về chính sách trợ giúp xã hội bảo trợ xã hội, luật về trách nhiệm của
con cái khi nuôi dưỡng người già…Bên cạnh đó có nhiều văn bản mặc dù không quy định cụ
thể về công tác xã hội nhưng đã có quy định thể hiện khá rõ nét bản chất của công tác xã hội và

dịch vụ công tác xã hội.
Việc tổ chức thực hiện các quy định có liên quan đến công tác xã hội và dịch vụ công
tác xã hội về cơ bản đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền, lãnh đạo các ban ngành, tổ chức
quan tâm chỉ đạo, triển khai và đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, đó là cơ sở để từng
bước đóng góp vào sự phát triển, hoàn thiện ngành, nghề công tác xã hội ở Việt Nam.
Trong bối cảnh phát triển nghề CTXH nói chung ở nước ta thì có rất nhiều tổ chức xã
hội, các tổ chức quốc tế quan tâm hỗ trợ nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực CTXH. Đây là một cơ hội rất lớn để Nhà trường có thể kết nối và hợp tác với các tổ
chức trong và ngoài nước nhằm góp phần thực hiện Đề án 32.
3.2 Những thách thức
Nhận thức về ngành nghề công tác xã hội còn nhiều hạn chế, đặc biệt là các bạn trẻ ít
hiểu biết về ngành công tác xã hội nên khó khăn trong công tác tuyển sinh đầu vào. Còn hạn
chế trong công tác truyền thông, nâng cao nhận thức về công tác xã hội chuyên nghiệp ở Việt
Nam nói chung và ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói riêng tới các cấp, các ngành, tới
mọi người dân, phổ biến tuyên truyền rộng rãi về vị trí, vai trò của công tác xã hội chuyên
nghiệp trong việc can thiệp, giải quyết các vấn đề xã hội.
Trang 13


KỶ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM 2019
Giảng viên có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành công tác xã hội còn ít so với nhu
cầu đào tạo hiện nay của Nhà trường. Hiện nay có 8 giảng viên tham gia giảng dạy các môn
học chuyên ngành công tác xã hội, các giảng viên này có trình độ thạc sĩ hoặc đang học tiến sĩ
chuyên ngành công tác xã hội hoặc các ngành gần như xã hội học, dịch vụ xã hội và phát triển.
Hiện nay, chưa có giảng viên đạt trình độ tiến sĩ chuyên ngành công tác xã hội, đây là một thách
thức lớn đối với ngành công tác xã hội ở trường đại học Đồng Tháp.
Ở đồng bằng sông Cửu Long, các dịch vụ xã hội, các cơ sở xã hội nơi mà sinh viên có
thể đến để thực hành, thực tập còn quá ít so với nhu cầu. Đây là thách thức lớn trong quá trình
đào tạo và phát triển nghề công tác xã hội ở trường đại học Đồng Tháp.
Chưa có những qui định cụ thể về định biên (biên chế) CTXH trong các cơ quan, tổ

chức xã hội là một thách thức quan trọng trong việc đảm bảo đầu ra trong đào tạo và phát triển
nghề CTXH.
Trong đào tạo ngành công tác xã hội, Nhà trường đã liên kết đào tạo với các tỉnh trong
khu vực đồng bằng sông Cửu Long để đào đạo và cung cấp nguồn nhân lực công tác xã hội.
Nhưng một số tỉnh trong khu vực lân cận lại liên kết đào tạo đại học hoặc các khóa học ngắn
hạn với các trường đại học ở xa khu vực điều này gây tốn kém và lãng phí trong quá trình đào
tạo và tận dụng nguồn nhân lực.
4. Kiến nghị và đề xuất
Trong quá trình đào tạo, Bộ môn CTXH, trường đại học Đồng Tháp xin có một số kiến
nghị và đề xuất như sau:
Bộ LĐ-TB&XH phối hợp với các cơ quan hoàn thành quy định về định biên (biên chế)
công tác xã hội trong các cơ quan có thể tuyển dụng cán bộ làm CTXH. Ví dụ như: nhân viên
làm CTXH trong bệnh viện, trong trường học, trong các cơ quan đoàn thể…
Bộ LĐ-TB&XH phối hợp Bộ Giáo dục và đào tạo và các tổ chức hỗ trợ, ưu tiên đào tạo
nâng cao trình độ giảng viên đang trực tiếp đào tạo sinh viên ngành CTXH. Cụ thể như đào tạo
giảng viên có trình độ tiến sĩ chuyên ngành CTXH ở các nước phát triển.
Bộ LĐ-TB&XH phối hợp với các cơ quan để truyền thông nhiều hơn nữa về ngành,
nghề CTXH làm cho người dân, đặc biệt là học sinh phổ thông hiểu biết nhiều hơn về ngành
CTXH.
Phát triển nguồn nhân lực công tác xã hội là giải pháp quan trọng để góp phần giải quyết
các vấn đề xã hội trên. Trường đại học Đồng Tháp đã, đang và sẽ tiếp tục đào tạo và cung cấp
nguồn nhân lực công tác xã hội cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long và trong cả nước. Đây
cũng là nhiệm vụ quan trọng trong các mục tiêu của Đề án 32 phát triển nghề công tác xã hội
giai đoạn 2010-2020./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ ThS Hà Đình Bốn, Phát triển công tác xã hội ở Việt Nam về phương diện pháp luật, bài viết
trong kỷ yếu Hội thảo quốc tế về chia sẻ kinh nghiệm về an sinh xã hội và công tác xã hội, ngày
công tác xã hội 2012 tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.
2/ PGS.TS. Phạm Văn Quyết, Đào tạo công tác xã hội ở trường ĐHKHXH&NV – ngành đào
tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, bài viết tại Hội thảo khoa học “Nghiên cứu và đào tạo Công tác

Xã hội trong quá trình hội nhập và phát triển, 2008.
3/ Thạc sỹ Kiều Văn Tu, Báo cáo kết quả thực hiện đề án 32, Cục Bảo trợ xã hội, Bộ
LĐTB&XH, năm 2016

Trang 14



×