Tải bản đầy đủ (.docx) (177 trang)

Vận dụng sự sáng tạo của hồ chí minh trong xây dựng đảng cộng sản việt nam vào đảng bộ tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.38 KB, 177 trang )

`ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LA ĐÌNH MÃO

Vận dụng sự sáng tạo của Hồ Chí
Minh trong xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam vào đảng bộ tỉnh
thừa thiên huế

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC


Hà Nội- 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LA ĐÌNH MÃO

Vận dụng sự sáng tạo của Hồ Chí
Minh trong xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam vào đảng bộ tỉnh
thừa thiên huế

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Chuyên ngành: CNDVBC
và CNDVLS Mã số: 62.22.80.05

Người hướng dẫn khoa học:
1.



GS. TS. NGND. Lê Văn Quang

2.

PGS. TS. Đoàn Đức Hiếu

Hà Nội- 2009


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ
1. Chủ nghĩa xã hội
2.

Đảng Cộng sản Việt Nam

3.

Đảng bộ Thừa Thiên Huế

4.

Nhà xuất bản

5.

Trang

6. Tổ chức cơ sở đảng

7. Tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh
8. Xã hội chủ nghĩa

ii


MỞ ĐẦU
CHƢƠNG I Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong xây dựng Đảng

CHƢƠNG II

CHƢƠNG III

KẾT LUẬN
CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

iii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng có thể được nghiên
cứu ở nhiều góc độ khác nhau, nhưng dù ở góc độ nào, cũng cho thấy các tư
tưởng đó vừa mang tính thâm thuý của triết học phương Đông, sắc thái của
dân tộc Việt Nam, vừa có tính khúc chiết của duy lý hiện đại của triết học
phương Tây đặc biệt là tư tưởng của Mác, Ăngghen và Lênin. Nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam và xây dựng Đảng không
chỉ có ý nghĩa lý luận, khẳng định những cống hiến của Người đối với sự phát

triển học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản, đặc biệt là Đảng Cộng sản ở
những nước thuộc địa, kinh tế chậm phát triển, mà còn có ý nghĩa thực tiễn to
lớn nhằm nâng cao vai trò của Đảng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Nó giúp chúng ta vận dụng sự sáng tạo của Người để làm cho Đảng thực
sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn xã
hội thực hiện những nhiệm vụ mà lịch sử và nhân dân giao phó là xây dựng
đất nước Việt Nam theo con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản và xây dựng Đảng là
một hệ thống lý luận, với những nội dung hết sức phong phú. Nó bao gồm các
vấn đề xác định vai trò, nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công
nhân, xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền và tư cách, đạo đức
của người cán bộ, đảng viên.
Lịch sử hơn 79 năm qua của cách mạng Việt Nam đã khẳng định vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và toàn xã hội; trên
thực tế nhân dân ta đã thừa nhận chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới là lực
lượng lãnh đạo duy nhất có thể đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội, đem lại
ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định "Đảng Cộng sản Việt Nam, đội

-1-


tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc".
Từ lý luận và thực tiễn trên, để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với dân tộc trong tình hình mới, một mặt chúng ta phải xuất phát từ yêu cầu
khách quan của lịch sử, mặt khác cần nghiên cứu sâu sắc các tư tưởng về xây
dựng Đảng Cộng sản của Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh. Trong đó sự
sáng tạo của Hồ Chí Minh trong sự kết hợp các nguyên lý phổ biến và điều

kiện đặc thù trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cần được nghiên cứu
có hệ thống, có chiều sâu. Vì sự sáng tạo đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần
được vận dụng vào các điều kiện cụ thể của tỉnh, thành nhằm làm cho tư
tưởng của Người và các bài học xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn
79 năm ăn sâu bám rễ trong các đảng bộ.
Hơn thế, hiện nay đất nước ta đang thực hiện kinh tế nhiều thành phần,
theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập ngày càng
sâu rộng vào kinh tế thế giới. Để giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, kết hợp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, không ngừng nâng cao đời sống
nhân dân nhất thiết phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự lãnh đạo của
các đảng bộ tỉnh, thành đang giữ vai trò quyết định trực tiếp mọi nhiệm vụ.
Trong hoàn cảnh đó, cùng với việc nghiêm túc thực hiện các quy định có tính
nguyên tắc của Đảng, các chỉ huấn của Bác Hồ, cán bộ, đảng viên còn có
trách nhiệm vận dụng những vấn đề chung vào tỉnh, thành của mình.
Do vậy, việc thấm nhuần các nguyên lý, nguyên tắc chung về xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất phát từ truyền
thống lịch sử và thực tiễn mới của tỉnh Thừa Thiên Huế là một vấn đề lý luận
và thực tiễn hết sức cấp thiết. Vì kết hợp sự vận động của quy luật phổ biến
và quy luật đặc thù, sự kết hợp những nguyên lý phổ biến và các yêu cầu đặc
thù của địa phương là thể hiện sinh động trình độ nhận thức và khả năng giải
quyết các vấn đề triết học trong đời sống xã
-2-


hội. Kết quả nghiên cứu góp phần quan trọng vào phong trào học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, làm phong phú hơn những vấn đề
phương pháp luận trong xây dựng Đảng.
Từ sự phân tích trên, có thể khẳng định rằng, đề tài luận án: "Vận dụng
sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
vào Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế" có tính cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn

thiết thực trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn
hoá nhân loại, là lãnh tụ vĩ đại, thiên tài của dân tộc Việt Nam; chiến sĩ cộng
sản lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế, nên đến nay đã có nhiều công
trình của Đảng, Nhà nước, của các nhà khoa học ở trong nước và nước ngoài
nghiên cứu sâu sắc, toàn diện. Trong hệ thống các công trình nghiên cứu về
Chủ tịch Hồ Chí Minh, hướng nghiên cứu để học tập tư tưởng Hồ Chí Minh
và vận dụng sự sáng tạo của Người vào các lĩnh vực nghiên cứu, hoạt động
của con người và tổ chức rất được quan tâm. Đặc biệt, việc nghiên cứu làm rõ
tầm cao, chiều sâu tư tưởng Hồ Chí Minh về triết học, về tính nhân văn, về
xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam đã được quan tâm rất lớn. Tiêu biểu cho
các công trình đó là kết quả của một số nhà nghiên cứu sau:
Bùi Đình Phong, Hồ Chí Minh tầm nhìn thời đại, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội 2000.
Ban Tổ chức Trung ương Đảng, Một số vấn đề xây dựng Đảng trong Văn
kiện Đại hội X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
Đặng Xuân Kỳ (Chủ biên), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
Hồ Kiếm Việt, Góp phần tìm hiểu đặc sắc tư duy Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Hoàng Chí Bảo, Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2002.
-3-


Lê Hữu Nghĩa, Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, Hà Nội, 2000.

Võ Nguyên Giáp, Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997 và Tư tưởng Hồ Chí Minh soi

sáng sự nghiệp đổi mới của chúng ta, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1990.
Các kết quả nghiên cứu đã đề cập trên đã làm sáng tỏ rất nhiều vấn đề về
tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh sự vận động của thời đại mới, thời đại quá độ
từ chủ nghĩa đế quốc sang chủ nghĩa xã hội và độc lập dân tộc trên phạm vi
toàn thế giới. Đó chính là kết quả của tư duy độc lập, khoa học, sáng tạo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa Mác-Lênin, các tinh hoa văn hoá nhân
loại và giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc. Các di sản tư tưởng, lý luận
của Hồ Chí Minh có vai trò to lớn trong quá trình tiến lên của dân tộc Việt
Nam. Việc vận dụng sáng tạo các tư tưởng đó là tất yếu để có thành tựu ngày
càng to lớn.
Trong kết quả nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, một số học giả đã
khám phá, phân tích đặc thù tư duy, phong cách Hồ Chí Minh, đặc biệt nhấn
mạnh sự vận dụng các quy luật vận động phổ biến của xã hội loài người, của
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và quá trình phát triển của phong
trào cộng sản quốc tế vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nhiều nhà khoa học
rất quan tâm đến sự sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giải quyết các
mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mác-Lênin và nhu cầu thực tiễn của cách mạng
Việt Nam; mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế; mối quan hệ giữa giai cấp và
dân tộc; mối quan hệ giữa các giá trị truyền thống và yêu cầu phát triển hiện
đại… Các phân tích, lý giải trên đều được quán xuyến trong sự sáng tạo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong vận dụng các nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa
Mác-Lênin, kinh nghiệm của các Đảng Cộng sản trong phong trào cộng sản
quốc tế vào xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự tác động của những
điều kiện và nhân tố đặc thù.
Tất nhiên, các kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án của
nghiên cứu sinh mới chỉ ra các vấn đề phương pháp luận chung, chưa đề cập
-4-


được các vấn đề cụ thể nhằm để học tập sự sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí

Minh và vận dụng di sản đó vào các nghiên cứu, hoạt động cụ thể hơn.
Do vậy, để làm phong phú hơn, sinh động hơn, cụ thể hơn tư tưởng Hồ
Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng đó vào cuộc sống đất nước Việt Nam thời
kỳ mới, nghiên cứu sinh có tham vọng vào một chủ đề cụ thể hơn: Vận dụng
sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam vào
xây dựng Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế. Luận án có ý đồ làm rõ sự sáng tạo
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong vận dụng các nguyên lý phổ biến của chủ
nghĩa Mác- Lênin về xây dựng Đảng Cộng sản vào xây dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đó là một dấu ấn sâu sắc trong nghiên cứu tư tưởng triết học Hồ
Chí Minh và ý nghĩa hiện thực của nó. Trên cơ sở đó hướng đến vận dụng sự
sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
vào xây dựng Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế về chính trị, tư tưởng, tổ chức
theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu trên có giá trị về lý luận ở
chỗ, sự nghiên cứu không chỉ dừng lại chứng minh sự sáng tạo của Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, mà còn vận dụng sự
sáng tạo đó vào một tổ chức đảng ở một tỉnh của đất nước. Đó chính cũng là
một giải pháp quan trọng để tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với cuộc sống hơn,
gần gũi với cán bộ, đảng viên của Đảng nhằm nâng cao hiệu quả phong trào
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận án
Về mục tiêu, trình bày khái quát sự sáng tạo của Hồ Chí Minh về sự kết
hợp các nguyên lý phổ biến và yêu cầu đặc thù trong xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam và vận dụng di sản đó của Người vào xây dựng Đảng bộ tỉnh
Thừa Thiên Huế trong công cuộc đổi mới toàn diện hiện nay.
Về nhiệm vụ, nghiên cứu toàn diện, có chiều sâu các vấn đề đặt ra nhưng
được tập trung vào các nhiệm vụ chủ yếu sau:
-

Lập luận về lý luận, chứng minh bằng thực tiễn sự kết hợp các nguyên


lý phổ biến với yêu cầu đặc thù trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam là
-5-


sự sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự thành công to lớn của những
người cộng sản Việt Nam.
-

Đánh giá về mặt phương pháp luận những kết quả và hạn chế trong

nhận thức và vận dụng sự sáng tạo Hồ Chí Minh vào xây dựng Đảng bộ tỉnh
Thừa Thiên Huế.
-

Xây dựng các phương án có tính khả thi trong vận dụng có hiệu quả sự

sáng tạo Hồ Chí Minh vào xây dựng Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa trên các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác- Lênin về biện chứng giữa cái phổ biến và cái đặc thù trong xây dựng
Đảng Cộng sản; tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp các nguyên lý phổ biến và
yêu cầu đặc thù là vấn đề có tính quy luật trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam… Luận án cũng sử dụng các văn kiện của Đảng, kết quả xây dựng Đảng
bộ tỉnh Thừa Thiên Huế và các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học.
Người nghiên cứu vận dụng tổng hợp hệ thống phương pháp của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là phương
pháp: phân tích - tổng hợp, lôgíc - lịch sử, lý luận - thực tiễn, trừu tượng - cụ
thể… Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp xã hội học, tổng kết thực
tiễn…
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Luâṇ án đề cập đến các vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng cộng sản

Viêt

Nam theo tư tưởng của C hủ tịch Hồ Chí Minh. Song trong khôn khổ của một
luận án tiến sĩ triết hocc̣, nghiên cưu sinh c hỉ tập trung làm rõ mối quan hệ biện
chưng giưa tinh phổbiến va yêu cầu đăcc̣ thu trong xây dưngc̣ Đang côngc̣ san
́

ViêtNam theo tư tương HồChi Minh va v
xây dưngc̣ Đang bô T
c̣ inh Thưa Thiên Huếthơi ky mơi .

-6-

̃

̉

́


6. Đóng góp mới của luận án
-

Kết hợp các nguyên lý phổ biến với yêu cầu đặc thù trong xây dựng

Đảng Cộng sản Việt Nam là một khám phá mới trong tư tưởng triết học Hồ
Chí Minh.
-


Lần đầu tiên việc nhận thức và vận dụng sự sáng tạo Hồ Chí Minh về

kết hợp giữa các nguyên lý phổ biến với yêu cầu đặc thù đã được xác định vào
một địa chỉ cụ thể là Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế.
-

Đề xuất được một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả việc vận dụng sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong xây dựng
Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm sâu sắc, phong phú tư tưởng Hồ Chí
Minh, đặc biệt là khía cạnh tư duy triết học trong xây dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam. Các kết luận về luật, đặc biệt là những vấn đề có tính quy luật đã
xác định trong luận án là cơ sở, luận cứ để xác định các yêu cầu cụ thể cho
xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung, Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế
nói riêng. Các vấn đề lý luận và thực tiễn được đề cập trong luận án còn góp
phần phê phán phương pháp giáo điều và kinh nghiệm chủ nghĩa trong nhận
thức và triển khai công tác xây dựng Đảng.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài các phần: mở đầu, kết luận, công trình khoa học đã công bố của tác
giả, tài liệu tham khảo và phụ lục. Luận án được kết cấu gồm 3 chương, 7 tiết.

-7-


CHƢƠNG I
SỰ SÁNG TẠO CỦA HỒ CHÍ MINH
TRONG XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

1.1. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng
Đảng Cộng sản.
1.1.1. Nhận thức thực chất cái phổ biến và cái đặc thù trong xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ góc độ triết học, duy vật biện chứng cái phổ biến là những quy luật
tất yếu khách quan chi phối mọi quá trình vận động và phát triển của sự vật và
hiện tượng. Có nghĩa là, cái phổ biến là cái chung nhất, cái bao trùm, quy định
sự phát triển của nhiều đối tượng trong nhiều mối liên hệ nhất định. Với quan
niệm đó, cái phổ biến trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản chính là những
nguyên lý phổ biến có ý nghĩa bao trùm trong di sản của chủ nghĩa MácLênin. Đó là những nguyên lý chung nhất, định hướng cho công tác xây dựng
Đảng đối với tất cả các Đảng Cộng sản trên toàn thế giới. Dưới góc độ
phương pháp luận có thể xem xét các giá trị phổ biến của chủ nghĩa MácLênin về xây dựng Đảng Cộng sản từ các yếu tố sau đây:
Trước hết, Hồ Chí Minh đã nắm vững quan điểm của chủ nghĩa MácLênin khẳng định tính tất yếu phải có Đảng Cộng sản để lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng của giai cấp vô sản đi tới thắng lợi cuối cùng, vì mục tiêu chủ
nghĩa cộng sản. Mác và Ăngghen đã nhận thức được vai trò lịch sử của giai
cấp vô sản trong sự ra đời của Đảng Cộng sản. "Trong tất cả các giai cấp hiện
đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự
cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát
triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân
nền đại công nghiệp"[7,610].
Thứ hai, Hồ Chí Minh nắm vững nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin đã
khẳng định rằng: Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa
xã hội khoa học và phong trào công nhân. Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội là vũ
-8-


khí tinh thần của giai cấp vô sản, còn phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân chống chủ nghĩa tư bản là vũ khí vật chất của giai cấp vô sản.
Thứ ba, Hồ Chí Minh đã quan niệm khoa học bản chất của Đảng Cộng
sản chính là bản chất của giai cấp vô sản. Về lý luận, những người cộng sản là

những người nắm được tiến trình vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài
người. Về thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận trung kiên nhất, hăng
hái nhất trong hàng ngũ giai cấp vô sản. Do đó, bản chất của Đảng Cộng sản
là bản chất cách mạng và khoa học, là thuộc tính bản chất vốn có của giai cấp
công nhân.
Thứ tư, Hồ Chí Minh rất coi trọng vận dụng tư tưởng Lênin là người kế
thừa và phát triển chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Ông đã
khẳng định những nguyên tắc của một Đảng kiểu mới - Đảng đại biểu cho giai
cấp công nhân. Những nguyên tắc đó đòi hỏi Đảng phải là tổ chức cao nhất,
giác ngộ nhất của giai cấp mình, lãnh đạo toàn diện hệ thống chính trị. Đồng
thời, Lênin cũng nêu rõ: phê bình và tự phê bình là động lực thúc đẩy sự phát
triển lành mạnh của Đảng. Đảng phải đề cao dân chủ, gắn bó máu thịt với
quần chúng nhân dân, hy sinh vì lợi ích của nhân dân và vì mục tiêu chủ nghĩa
xã hội.
Những tư tưởng về Đảng Cộng sản trong quan niệm của Mác, Ăngghen
hay Lênin là những chân lý phổ biến để định hướng cho phong trào cộng sản,
công nhân và phong trào yêu nước của các quốc gia dân tộc hướng đến sự
phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Các Đảng Cộng sản muốn mình
trở thành đội tiên phong của giai cấp công nhân và dân tộc cần nắm vững các
nguyên lý chung đó để vận dụng vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Đó chính là sự
sáng tạo đầu tiên của Người trong xây dựng Đảng Cộng sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấu hiểu sâu sắc “cái chung”, “cái riêng”, cái
đơn nhất trong xây dựng Đảng Cộng sản. Từ đó vận dụng phân tích sự hình
thành, phát triển của các nhóm nước có điều kiện hoàn cảnh tương đồng có
những nét đặc thù so với “cái chung”, “cái đơn nhất”.
-9-


Trong tự nhiên, xã hội, cái đặc thù luôn luôn tồn tại, vận động và phát
triển, dù đó là bất cứ lĩnh vực nào, sự vật, hiện tượng nào. Cái đặc thù, vì vậy,

có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế
giới khách quan có quan hệ chặt chẽ với cái chung.
Bản chất của thế giới khách quan là tồn tại và phát triển trong vô vàn các
mối liên hệ, các mặt, các thuộc tính chuyển hoá và tác động lẫn nhau. Cái đặc
thù chính là biểu hiện sinh động của sự vật và hiện tượng trong một hoàn
cảnh, điều kiện lịch sử - cụ thể nhất định. Do đó, cái đặc thù làm nên tính
riêng biệt, sự sống và giá trị tự thân của sự vật và hiện tượng trong thế giới.
Từ góc độ tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, cái đặc thù
biểu hiện trong hệ thống lý luận sáng tạo của Người trên cơ sở tiếp nhận
những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin về Đảng Cộng sản. Có
thể khái quát một số giá trị đặc thù của tư tưởng Hồ Chí Minh sau đây:
Trước hết, nét đặc thù trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
Cộng sản là sự nhận thức thực tiễn cách mạng Việt Nam và các yêu cầu cụ thể
trong xây dựng Đảng. Thực tiễn lịch sử Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ
XX là một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Chính hoàn cảnh lịch sử này đã
quy định nét sáng tạo trong việc vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin để
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930. Di sản lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin có tính lịch sử của thời đại giữa thế kỷ XIX ở các nước châu
Âu, đặc biệt là Anh, Pháp, Đức, nên đối tượng chủ yếu là xã hội công nghiệp
tư bản chủ nghĩa. Trong xã hội đó, phong trào công nhân đóng vai trò chủ yếu
và quyết định. Còn trong xã hội Việt Nam, với hơn 90 phần trăm là nông dân,
thì phong trào công nhân chỉ đóng vai trò là hạt nhân, nòng cốt, còn lực lượng
đông đảo chính là phong trào yêu nước của nhân dân lao động, mà chủ yếu là
nông dân.
Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng tạo trong viêcc̣ chuẩn bị một
phong trào quần chúng rộng khắp nhằm tổ chức đội tiên phong của phong trào
đó vì để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, Hồ
-10-



Chí Minh đã từng bước truyền bá lý luận về chủ nghĩa cộng sản vào cả những
người trí thức trẻ tuổi của phong trào công nhân và từng bước tuyên truyền
vào phong trào yêu nước rộng lớn từ Nam chí Bắc. Đây là bước chuẩn bị về
tư tưởng chính trị có ý nghĩa rất quan trọng để tạo nên sự chuyển hoá về chính
trị của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Thứ ba, nguyên lý sáng tạo có ý nghĩa quan trọng nhất của Hồ Chí Minh
là công thức thành lập Đảng Cộng sản. Ở Việt Nam, xuất phát từ điều kiện
lịch sử lúc đó, Hồ Chí Minh đã xây dựng và tạo nên một giá trị lý luận có tính
sáng tạo sâu sắc, đó là sự kết hợp hữu cơ giữa chủ nghĩa Mác- Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam để hình thành Đảng
Cộng sản. Đây là công thức thành lập Đảng Cộng sản có ý nghĩa sáng tạo to
lớn mà Hồ Chí Minh đã đóng góp cho phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế trong thời đại ngày nay. Lý luận có ý nghĩa đặc thù đó của Hồ Chí
Minh đã soi đường cho việc thực hiện một cách xuất sắc sự thành lập, phát
triển của Đảng Cộng sản trong điều kiện một nước thuộc địa, nửa phong kiến


Việt Nam.
Thứ tư, nét đặc thù trong tư tưởng về xây dựng Đảng của Hồ Chí Minh

chính là từng bước khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong
hàng ngũ những người cộng sản Việt Nam. Dù là đội ngũ đảng viên đó xuất
thân từ thành phần nào, thì bản chất giai cấp công nhân Việt Nam cần rèn
luyện là bản chất cách mạng và khoa học. Cách mạng và khoa học là hai
thuộc tính chung của mọi đảng viên cộng sản, dù tồn tại trong quốc gia, dân
tộc nào. Nhưng bản chất cách mạng và khoa học đó được thể hiện trong hoàn
cảnh, điều kiện lịch sử Việt Nam và sự phát triển của phong trào công nhân,
phong trào yêu nước thấm nhuần tinh thần lịch sử và truyền thống dân tộc, để
tất cả mọi đảng viên và quần chúng công nông theo Đảng làm cách mạng, cần
có một tư duy khoa học sáng tạo và một tinh thần triệt để cách mạng và đó là

giá trị độc đáo trong bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Công lao rèn luyện để bản chất cách mạng và khoa học của Đảng Cộng
-11-


sản Việt Nam ngày càng được phát huy một cách bền vững trong truyền thống
lịch sử dân tộc Việt Nam thuộc về Hồ Chí Minh.
Thứ năm, tính độc đáo, nét sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng Đảng biểu hiện trong ý thức xây dựng khối đại đoàn kết thống nhất về
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Dưới sự lãnh đạo và rèn luyện của Hồ Chí
Minh, trong lịch sử vận động phát triển và tiến lên của Đảng bao giờ cũng có
tính thống nhất, tính đoàn kết rất cao. Bởi vì, đối với Hồ Chí Minh, đoàn kết
là sức mạnh, là truyền thống của Đảng ta. Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất
trong Đảng có vai trò quyết định đối với công cuộc lãnh đạo của Đảng, có ý
nghĩa quan trọng như "Giữ gìn con ngươi của mắt mình". Vì vậy, dù lịch sử
có nhiều biến động, thay đổi, nhưng tính thống nhất trong Đảng Cộng sản Việt
Nam từ khi thành lập cho đến nay đã trở thành một truyền thống, một giá trị
lý luận nổi bật, trên cơ sở nguyên tắc tự phê bình và phê bình làm quy luật
phát triển. Do vậy, cần nhận thức truyền thống đoàn kết, thống nhất trong
Đảng Cộng sản là một di sản lý luận vô cùng quý báu, là sản phẩm tinh thần
và tư tưởng với sự sáng tạo cao của Hồ Chí Minh.
Từ sự khái quát trên, để chúng ta hiểu sâu sắc hơn rằng, Mác, Ăngghen,
Lênin là người xác định các nguyên lý phổ biến cho xây dựng Đảng Cộng sản
nói chung còn xây dựng các Đảng Cộng sản cụ thể còn phải vận dụng các
nguyên lý chung và hoàn cảnh cụ thể, đặc biệt là việc xác định các yêu cầu
đặc thù. Đó là một sáng tạo lớn, thành tựu đó trước hết thuộc về Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
Nhận thức và vận dụng quan hệ biện chứng giữa cái phổ biến và cái đặc
thù trong xây dựng Đảng Cộng sản.
Bản chất của thế giới khách quan là liên hệ và chuyển hoá lẫn nhau, luôn

luôn vận động và phát triển. Hệ thống các phạm trù khoa học, từ sự khái quát
một cách đúng đắn thực tại khách quan, cũng luôn liên hệ và chuyển hoá lẫn
nhau, phát triển từ thấp đến cao theo quy luật tiến lên của nhân loại. Vì vậy,
các phạm trù triết học như cái phổ biến, cái đặc thù và vận dụng nó vào lĩnh
-12-


vực xây dựng Đảng luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động và chuyển hoá
lẫn nhau, không tách rời. Tính biện chứng của cái phổ biến và cái đặc thù biểu
hiện:
Thứ nhất, trong quá trình phát triển giá trị của các phạm trù trên, cái phổ
biến và cái đặc thù luôn luôn liên hệ và chuyển hoá lẫn nhau, không tách rời.
Chính sự tương tác giữa hai giá trị này làm cho hệ giá trị tổng hợp của nó
ngày càng phát triển và hoàn thiện. Các nguyên lý phổ biến trong xây dựng
Đảng Cộng sản làm sâu sắc các yêu cầu đặc thù, định hướng cho sự phát triển
của từng Đảng theo yêu cầu chung. Việc phát hiện các yêu cầu cụ thể làm
phong phú những nguyên lý phổ biến, làm cho những nguyên tắc phương
pháp luận ăn sâu bám rễ trong đời sống thực tế.
Thứ hai, trong mối liên hệ biện chứng, các nguyên lý phổ biến trong xây
dựng Đảng Cộng sản đóng vai trò định hướng giá trị chung, tạo nên khuynh
hướng có ý nghĩa chỉ đạo xuyên suốt cho toàn bộ quá trình phát triển lý luận
và thực tiễn xây dựng Đảng. Yêu cầu đặc thù đóng vai trò làm cho các nguyên
lý phổ biến có chỗ đứng trong hiện thực một cách sinh động với sắc thái của
dấu ấn con người và hoàn cảnh cụ thể. Cho nên, yêu cầu đặc thù là sản phẩm
có ý nghĩa đặc trưng do định hướng giá trị của các nguyên lý đem lại. Nói
cách khác, yêu cầu đặc thù chính là các nguyên lý phổ biến được vận dụng
trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Thứ ba, cái phổ biến và cái đặc thù đều có vai trò quan trọng đối với sự
phát triển của thế giới khách quan cũng như của hệ thống khái niệm, phạm trù
khoa học. Mối quan hệ giữa các nguyên lý phổ biến và các yêu cầu đặc thù

trong xây dựng Đảng Cộng sản là sự phát sinh của quan hệ trên. Vì vậy,
không nên tuyệt đối hoá có thể dẫn đến tính trừu tượng, hư vô chủ nghĩa hoặc
chủ nghĩa kinh nghiệm. Điều đó, dẫn đến những hậu quả sai lầm trong thực
tiễn cách mạng. Trong điều kiện ở Việt Nam, qua lịch sử hình thành và phát
triển của Đảng đã chứng minh một cách sinh động cho sự liên hệ và đề cao
vai trò, vị trí của cái phổ biến và cái đặc thù đối với sự phát triển. Đó cũng
-13-


chính là phương pháp phong cách Hồ Chí Minh trong lãnh đạo cách mạng nói
chung, trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.
Vấn đề quan trọng nhất cần làm rõ là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận
thức mối quan hệ giữa cái phổ biến và nghệ thuật của Người đã kết hợp các
nguyên lý phổ biến với các yêu cầu đặc thù trong lịch sử trưởng thành và
chiến thắng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Như vậy, Hồ Chí Minh luôn trung thành với những nguyên lý có tính
phổ biến của chủ nghĩa Mác- Lênin, về xây dựng Đảng Cộng sản dựa trên nền
tảng vững chắc đó để vận dụng các quy luật chung và phát triển sáng tạo, để
phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện lịch sử cụ thể ở Việt Nam. Mặc khác, Hồ
Chí Minh là một nhà yêu nước, một lãnh tụ cách mạng luôn đề cao yếu tố dân
tộc trong cộng đồng nhân loại. Do đó, tính sáng tạo từ những nguyên lý chung
được vận dụng vào mọi lúc, mọi nơi trong quá trình xây dựng và phát triển
Đảng. Sáng tạo là đặc điểm nổi bật trong văn hoá xây dựng và phát triển Đảng
của Hồ Chí Minh. Chính từ tư duy sáng tạo này mà Hồ Chí Minh đã vận dụng
rất thành công những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin, hiện thực
hoá, cụ thể hoá các nguyên tắc chung đối với sự hình thành, phát triển của
Đảng Cộng sản.
1.1.2. Những quan điểm cơ bản của Mác, Ăngghen, Lênin về xây
dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản được Hồ Chí Minh nhận thức.
Tiếp cận những vấn đề triết học của các nhà kinh điển về xây dựng đảng

kiểu mới của giai cấp vô sản khác với những vấn đề cụ thể mà các nhà kinh
điển đề cập đến công tác xây dựng đảng. Do vậy, yêu cầu sự tiếp cận này cần
làm rõ những quy luật chung, rút ra được các nguyên lý chung trong xây dựng
Đảng cách mạng.
Lịch sử vận động và phát triển của giai cấp công nhân hiện đại đã chứng
minh rằng, không có chính Đảng của giai cấp mình thì giai cấp vô sản không
thể tiến hành cuộc cách mạng vô sản nhằm lật đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng

-14-


xã hội cộng sản. Đó là tính tất yếu, là quy luật phát triển chung của lịch sử
nhân loại.
Trong tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", Mác và Ăngghen đã
nhấn mạnh rằng, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là người đào huyệt chôn
chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, sứ mệnh đó phải được biểu hiện trong mối quan
hệ biện chứng giữa lý luận triết học và giai cấp vô sản. Chỉ khi nào, giai cấp
vô sản tìm thấy sức mạnh tinh thần của mình trong lý luận triết học về Đảng
Cộng sản, thì cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản mới chuyển từ tự phát thành
tự giác.
Mác và Ăngghen đã làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa lý luận khoa
học và vai trò, vị trí lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại trong quá trình phát
triển. Thực chất, sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa lý luận
khoa học và phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản. Đây thực sự là tư tưởng
hết sức sâu sắc khi chỉ vai trò của lý luận khoa học dẫn đường cho phong trào
cách mạng của giai cấp vô sản, cũng như sức mạnh vật chất của giai cấp vô
sản là điều kiện để đảm bảo cho lý luận khoa học từ chỗ là lý luận trừu tượng
biến thành hiện thực sinh động trong thực tiễn.
Từ nghiên cứu vai trò của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng của xã hội các nhà kinh điển đã khám phá ra sự vận động của

hai quy luật cơ bản: Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ lực lượng sản
xuất; cơ sở kinh tế quyết định kiến trúc thượng tầng và sự tác động trở lại của
kiến trúc thượng tầng. Trong xã hội có giai cấp đối kháng sự vận động của
quy luật đó phải thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Do vậy,
mà "Lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày nay, chỉ là lịch sử đấu tranh giai
cấp" [1,540].
Trên cơ sở đó Mác và Ăngghen đã chỉ rõ vai trò sứ mệnh lịch sử của giai
cấp vô sản bắt nguồn từ nền sản xuất đại công nghiệp trong xã hội tư sản:
"Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản, thì chỉ có giai
cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Các giai cấp khác đều suy tàn và
-15-


tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, giai cấp vô sản, trái lại,
là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp"[1,554].
Xuất phát từ thực tiễn của xã hội tư bản trước hết là sản xuất vật chất của
nó mà Mác và Ăngghen phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản cách
mạng, hai ông chỉ rõ: "Như vậy là sự phát triển của đại công nghiệp đã phá
sập, dưới chân của giai cấp tư sản, chính ngay cái nền tảng trên đó giai cấp tư
sản xây dựng nên chế độ sản xuất và chiếm hữu của nó. Trước hết, giai cấp tư
sản tạo ra những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư
sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu như nhau"[1,557]. Tính tất yếu
khách quan và yêu cầu thực tế của cuộc đấu tranh đặc biệt đó đưa đến nhu cầu
khách quan trong xây dựng Bộ Tham mưu cho cuộc đấu tranh lịch sử đó.
Quy luật hình thành Đảng Cộng sản đã được Mác và Ăngghen chỉ ra
rằng, đó là sự kết hợp giữa lý luận cách mạng và phong trào đấu tranh của giai
cấp vô sản. Mối quan hệ giữa những người cộng sản và giai cấp vô sản đã
được Mác và Ăngghen xem xét trong mối quan hệ biện chứng, thống nhất
trong sự khác biệt. Các vấn đề có tính nguyên tắc chung để phân biệt đội tiên
phong và giai cấp vô sản có ý nghĩa chỉ đạo cụ thể đối với các Đảng Cộng sản

cụ thể.
Nguyên tắc phương pháp luận đó vừa đòi hỏi nhận thức đúng sự thống
nhất, vừa không thừa nhận không có sự khác biệt trong quá trình hình thành
và phát triển của các Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế.
Sự thống nhất giữa những người Cộng sản và giai cấp vô sản biểu hiện
trước hết ở sự thống nhất về lợi ích và mục đích cuối cùng của cuộc đấu tranh,
đó là lật đổ chế độ tư sản. "Mục đích trước mắt của những người cộng sản
cũng là mục đích trước mắt của tất cả các Đảng vô sản khác, tổ chức những
người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô
sản giành lấy chính quyền"[1,558].
Sự khác nhau có ý nghĩa rất căn bản giữa những người Cộng sản và giai
cấp vô sản chính là những người Cộng sản luôn nắm vững quy luật vận
-16-


động, phát triển của lịch sử xã hội, nắm được mục đích cuối cùng của phong
trào vô sản. Đó là biểu hiện cao nhất của bản chất cách mạng và khoa học của
những người Cộng sản, của Đảng Cộng sản. Mặt khác, tính triệt để cách mạng
của những người Cộng sản không chỉ về mặt lý luận, mà cao hơn, là biểu hiện
trong thực tiễn cách mạng, trong cuộc đấu tranh sinh tử giữa giai cấp tư sản và
giai cấp vô sản. "Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên
quyết nhất trong các Đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận cổ vũ tất
cả những bộ phận khác; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô
sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong
trào vô sản"[1,558].
Mác và Ăngghen cũng nhấn mạnh các giai đoạn khác nhau của cách
mạng Cộng sản chủ nghĩa, phân biệt một cách bản chất sự khác nhau giữa
cách mạng Cộng sản chủ nghĩa với cách mạng khác: "Cách mạng Cộng sản
chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với chế độ sở hữu cổ truyền; không có
gì đáng lấy làm lạ khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn

tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng cổ truyền''[1,567].
Trong cuộc cách mạng đó, những người Cộng sản trước hết phải giành
lấy quyền lực chính trị, sau đó, dùng các quyền lực chính trị để thống trị các
giai cấp đối lập, xây dựng nền kinh tế mới, nền văn hoá mới. Đó là con đường
để xây dựng một xã hội mới tuân theo quy luật của các cuộc cách mạng xã hội
trong lịch sử. Mục tiêu cuối cùng của những người Cộng sản, theo Mác và
Ăngghen là xóa bỏ chế độ tư hữu, xây dựng một xã hội mới, xã hội Cộng sản
chủ nghĩa. Tính mục đích của những người Cộng sản không cần che dấu trước
các giai cấp đối lập mà luôn được công khai tuyên bố, bởi vì đó là quy luật
của sự phát triển lịch sử. Mác và Ăngghen đã viết rằng: "Những người Cộng
sản không tự hạ mình xuống đến chỗ dấu giếm những ý kiến và dự định của
mình. Họ công khai tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng
cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện có. Mặc cho các giai cấp
thống trị run sợ khi nghĩ đến một cuộc cách mạng Cộng sản chủ nghĩa! Trong
-17-


cuộc cách mạng ấy, họ giành được cả một thế giới cho mình" [7,586]. Thực
hiện được mục tiêu trên, chỉ có thể thống nhất trong toàn bộ giai cấp vô sản
toàn thế giới. Đoàn kết là cơ sở, là động lực để khẳng định sức mạnh bản chất
của những người Cộng sản và giai cấp vô sản. "Vô sản tất cả các nước, đoàn
kết lại" là khẩu hiệu nổi tiếng của Mác và Ăngghen nhằm thống nhất sức
mạnh của giai cấp vô sản toàn thế giới để thực hiện mục đích cuối cùng: xây
dựng một xã hội mới - xã hội Cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, tiêu đề về tư tưởng triết học của Mác và Ăngghen nói về quy
luật phát triển Đảng có thể tóm tắt trong các yếu tố sau đây:
Thứ nhất, sự ra đời của Đảng Cộng sản là một tất yếu lịch sử, do sự vận
động thông qua đấu tranh giai cấp, sự phát triển của nền đại công nghiệp tư
bản chủ nghĩa.
Thứ hai, giai cấp vô sản có vai trò sứ mệnh lịch sử hết sức lớn lao, là đào

huyệt chôn chủ nghĩa tư bản. Đó là giai cấp triệt để cách mạng, xoá bỏ xã hội
cũ, xây dựng xã hội mới.
Thứ ba, sự ra đời của Đảng Cộng sản là kết quả tất yếu của mối quan hệ
kết hợp giữa lý luận cách mạng với phong trào công nhân trong các nước tư
bản.
Thứ tư, Đảng Cộng sản là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, là tập
hợp đội ngũ trung kiên nhất, kiên quyết cách mạng nhất, nhằm mục đích
hướng tới xoá bỏ chế độ tư hữu, xây dựng xã hội Cộng sản chủ nghĩa.
Thứ năm, Đảng Cộng sản, trong toàn bộ hoạt động của mình, phải trải
qua các giai đoạn khác nhau mà trước hết đó là giành lấy chính quyền về tay
giai cấp vô sản, để tiếp tục thực hiện cách mạng triệt để trên tất cả mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Lịch sử bước sang thời kỳ mới, là người kế tục sự nghiệp của Mác và
Ăngghen, phát triển toàn diện chủ nghĩa Mác đặc biệt trong lĩnh vực: triết
học, kinh tế - chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học, Lênin đã có những
cống hiến lớn lao và đã tạo nên một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn Lênin
-18-


trong thuyết học Mác- Lênin đã có những luận điểm thiên tài về giải quyết cái
phổ biến và cái đặc thù, trong đó Người đã có một sự chú ý đặc biệt đến xây
dựng và phát triển Đảng Cộng sản. Thực tiễn phong trào trong các nước tư
bản và tính chất chung của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản đã tác động
vào tư duy của Lênin trong giải quyết vấn đề chung của phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế và các vấn đề đặc thù của từng nước.
Trước hết, nhận thức tính tất yếu sự ra đời của Đảng Cộng sản đã được
Mác và Ăngghen phát hiện. Trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước Nga,
Lênin là người vận dụng phát triển tư tưởng đó và đã tổ chức thành lập Đảng
Cộng sản Nga (Bôn-sê-vích). Không còn nghi ngờ gì nữa, Đảng ra đời là nhu
cầu tất yếu của lịch sử xã hội, là yêu cầu bức thiết cần phải có một tổ chức

lãnh đạo của giai cấp công nhân và Người đã tạo ra tiền đề cho sự ra đời của
Đảng Cộng sản Bôn sê vích ở Nga. Đó là một minh chứng hùng hồn về sự
thống nhất giữa nguyên lý phổ biến và điều kiện đặc thù của từng nước.
Không phải là ý muốn chủ quan, càng không phải là ý tưởng tốt đẹp của cá
nhân từ đâu ban phát, mà đòi hỏi có ý nghĩa cách mạng của nhận thức khoa
học và cách mạng. Lênin đã khẳng định rằng: "Chỉ có một giai cấp nhất định tức công nhân thành thị và nói chung, công nhân nhà máy, công nhân công
nghiệp - mới có khả năng lãnh đạo được toàn thể quần chúng lao động và
những người bị bóc lột trong cuộc đấu tranh để lật đổ ách tư bản, trong chính
ngay quá trình lật đổ cách đó, trong cuộc đấu tranh để duy trì và củng cố
thắng lợi, trong sự nghiệp sáng tạo ra một chế độ xã hội chủ nghĩa, trong toàn
bộ cuộc đấu tranh xoá bỏ hoàn toàn các giai cấp"[19,375].
Xuất phát từ tính tất yếu sự ra đời của Đảng Cộng sản, như một quy luật
phổ biến, Lênin khẳng định vai trò của lý luận cách mạng, của hệ tư tưởng
làm hạt nhân cho sự phát triển của Đảng "Không thể có một Đảng xã hội chủ
nghĩa vững mạnh, nếu không có lý luận cách mạng để đoàn kết tất cả những
người xã hội chủ nghĩa lại để họ rút ra từ trong lý luận đó tất cả những điều
của họ và đem áp dụng lý luận đó vào phương pháp đấu tranh và phương sách
-19-


hành động" [19,232]. Rõ ràng, Đảng chỉ thật sự vững mạnh khi nó được một
lý luận tiên phong dẫn đường, làm cơ sở, làm hạt nhân về mặt tư tưởng và
phương pháp cách mạng, đó chính là chủ nghĩa Mác-Lênin.
Từ vai trò của đội tiên phong của giai cấp công nhân, xuất phát từ thực
tiễn nước Nga, Lênin có ý đồ nhấn mạnh các nguyên lý phổ biến như tính tổ
chức, tính kỷ luật: "Sức mạnh của giai cấp công nhân đó là tổ chức. Không có
tổ chức, giai cấp công nhân sẽ không là cái gì hết. Được tổ chức lại, nó sẽ là
tất cả. Tính tổ chức là sự thống nhất hành động thực tiễn" [19,232]. Sức mạnh
tổ chức đó của giai cấp công nhân cũng đồng thời là sức mạnh của Đảng, đội
tiên phong của giai cấp công nhân. Sức mạnh của tổ chức dựa trên cơ sở sự

thống nhất vô địch cho Đảng Cộng sản. Về tính kỷ luật, Lênin viết rằng:
"Chắc chắn là ngày nay, hầu hết mọi người đều thấy rằng những người Bônsê-vích sẽ không giữ vững được chính quyền, tôi không nói tới được hai năm
nữa, nếu Đảng ta không có kỷ luật hết sức nghiêm minh, kỷ luật sắt thật sự,
không được ủng hộ đầy đủ và hết lòng của quảng đại quần chúng giai cấp
công nhân…"[19,420]. Chấp hành kỷ luật nghiêm minh, có tổ chức là nhân tố
cực kỳ quan trọng để dẫn dắt phong trào cách mạng tiến lên.
Để đảm bảo cho sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản làm tròn nhiệm vụ
người chiến sĩ tiên phong, Lênin đã đặt ra những yêu cầu có ý nghĩa sống còn
đối với cá nhân và tổ chức Đảng. Đó là chỗ dựa về mặt tinh thần và tổ chức
cho mọi thắng lợi của Đảng. Lênin viết: "Thứ nhất, đó là sự giác ngộ của đội
tiên phong của giai cấp vô sản và lòng trung thành của nó đối với cách mạng,
tính kiên cường, tinh thần hy sinh và chí khí anh dũng của nó"[19,421]. Đây
là đức tính đầu tiên mà người Cộng sản cần có để làm gương cho quần chúng
nhân dân trong cuộc đấu tranh cực kỳ gian khổ, nhất là trong điều kiện khi
Đảng chưa giành được chính quyền cách mạng.
"Thứ hai, là khả năng của nó biết liên hệ, gần gũi và có thể nói là hoà
mình tới một mức độ nào đó với quần chúng lao động rộng rãi nhất, trước hết
là với quần chúng vô sản, nhưng cũng cả với quần chúng lao động không phải
-20-


×