Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Bài tập lớn học kỳ môn luật Quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.31 KB, 19 trang )

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ KHÓA II
MÔN LUẬT QUỐC TẾ
Đề số 10: Có nhận định cho rằng: tòa án công lý quốc tế (International Court of
Justice – ICJ) có đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của luật quốc tế.
Anh/chị hãy chứng minh trên cơ sở phân tích một số phán quyết điển hình của tòa
án này.
Tên sinh viên: Đoàn Thái Phong
Lớp: K2B

Hà Nội - 2016


A. LỜI MỞ ĐẦU:
Cùng với sự phát triển của hợp tác quốc tế, những mâu thuẫn và bất đồng
giữa các quốc gia hay các chủ thể khác của luật quốc tế cũng ngày càng tăng. Các
tranh chấp này được giải quyết bằng nhiều biện pháp khác nhau và một trong các
biện pháp đó là việc sử dụng hình thức tài phán quốc tế. Tòa án Công lý Quốc tế
(The International Court of Justice - ICJ) là một trong các cơ quan tài phán điển
hình hiện nay. Cùng với sự ra đời của Liên hợp quốc, Tòa án Công lý Quốc tế được
thành lập dựa trên Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 và bắt đầu đi vào hoạt
động vào năm 1946. Kể từ ra đời đến nay Tòa án Công lý quốc tế luôn hoạt động
đúng với chức năng và quyền hạn của nó, đóng vai trò rất quan trọng trong việc
giải quyết các tranh chấp, duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, đồng thời còn có
những đóng góp đối với sự phát triển của luật quốc tế. vậy vai trò của tòa án công
lý quốc tế dưới góc độ pháp lý như thế nào, hiệu quả của những hoạt động đó ra
sao, có những đóng góp gì trên các lĩnh vực của luật quốc tế… Bài viết sau đây sẽ
tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này.


B. NỘI DUNG:
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÒA ÁN CÔNG LÝ QUỐC TẾ:
Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, Liên hợp quốc được thành lập thay thế
Hội Quốc Liên với mục đích chấm dứt chiến tranh giữa các quốc gia và thiết lập
một cơ chế đối thoại cho các nước. Cùng với sự ra đời của Liên hợp quốc, ngày
6/2/1946, Tòa án công lý Quốc tế (TACLQT) - cơ quan pháp lý chính của Liên hợp
quốc chính thức đi vào hoạt động. TACLQT được thành lập và hoạt động dựa trên
cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và Quy chế TACLQT. Hiến chương Liên hợp
quốc dành toàn bộ chương XIV từ Điều 92 đến Điều 96 để qui định những vấn đề
cơ bản về tổ chức, thẩm quyền và hoạt động của Tòa. Quy chế TACLQT gồm 70
điều được coi là phần phụ lục gắn bó hữu cơ với Hiến chương Liên hợp quốc. Điều
92 Hiến chương Liên hợp quốc quy định: “Tòa án quốc tế là cơ quan tư pháp


chính của Liên hợp quốc. Tòa án này hoạt động theo một quy chế, được xây dựng
trên cơ sở quy chế tòa án quốc tế thường trực. Quy chế của Tòa án quốc tế kèm
theo Hiến chương này là một bộ phận cấu thành Hiến chương”. Cùng với hiến
chương và quy chế, cơ sở pháp lý để tòa tiến hành các hoạt động còn bao gồm các
nguyên tắc do chính Tòa án tự đưa ra năm 1978. Ngoài ra, Sau khi xem xét các
nguyên tắc và phương pháp làm việc của mình, Tòa án đã ban hành bản Hướng dẫn
thực hành các Nguyên tắc của Tòa án (Practice Directions) năm 2001. TACLQT có
trụ sở đặt tại Lahaye, Hà Lan.
TACLQT là một trong sáu cơ quan chuyên môn chính của Liên hợp quốc.
Điều 7 Hiến chương Liên hợp quốc qui định các cơ quan chính của Liên hợp quốc
là Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội đồng kinh tế và xã hội (ACOSOC), Hội
đồng quản thác, Ban thư ký và Tòa án công lý Quốc tế . TACLQT là cơ quan pháp
lý chính trị của Liên hợp quốc. Đây không phải là một tổ chức lập pháp mà chỉ là
một cơ quan tài phán đưa ra các phán quyết và các kết luận tư vấn trong chừng mực
thẩm quyền cho phép. Các phán quyết và kết luận tư vấn của Tòa đề cập mọi khía
cạnh nhau của công pháp cũng như tư pháp quốc tế. Tòa đã chứng tỏ vấn đề không

phải ở chỗ các vụ tranh chấp đưa ra trước Tòa có tầm quan trọng đặc biệt hay
không mà chính là thông qua việc giải quyết giải quyết các tranh chấp, Tòa cùng
các cơ quan chính khác của Liên hợp quốc thúc đẩy quá trình duy trì hòa bình và an
ninh quốc tế và phát triển các quan hệ hợp tác giữa các quốc gia.
1. Về cơ cấu tổ chức:
TACLQT bao gồm 15 thẩm phán được Hội đồng Bảo an và Đại hội đồng
Liên hợp quốc bổ nhiệm theo nguyên tắc có số phiếu bầu tối đa dựa trên danh sách
được Tòa Trọng tài Thường trực (the Permanent Court of Arbitration - PCA) tiến
cử. Tiêu chuẩn để bầu thẩm phán TACLQT căn cứ vào năng lực cá nhân, tương
quan vị trí địa lý và đại diện cho các hệ thống pháp luật trên thế giới. Thẩm phán
của tòa không được đảm nhiệm chức vụ chính trị, hành chính hoặc nghề nghiệp nào
trong thời gian đương nhiệm. Nhiệm kỳ của thẩm phán là 9 năm và không hạn chế


việc tái đắc cử. Chủ tịch , Phó Chủ tịch có nhiệm kỳ 03 năm và do 15 thành viên
của ICJ lựa chọn theo nguyên tắc bỏ phiếu kín.. Tuy nhiên, một quy tắc quan trọng
về việc bổ nhiệm là phải đảm bảo không có hai thẩm phán cùng một quốc tịch. Cứ
sau 3 năm, một phần ba số thẩm phán của Tòa sẽ được bổ nhiệm lại. Năm nước
thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an luôn có đại diện của mình trong Tòa.
Thông thường, các vụ tranh chấp sẽ được xét xử bởi toàn bộ Hội đồng xét xử
gồm 15 thành viên. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp hội đồng xét xử được
thành lập với số thành viên ít hơn (thường là 5 thành viên), tùy vào ý chí của các
bên tranh chấp. Cũng có những trường hợp mỗi bên trong tranh chấp yêu cầu bổ
nhiệm một thẩm phán vụ việc đại diện lợi ích của mình trong hội đồng xét xử, các
thẩm phán vụ việc này chỉ làm thành viên của Tòa trong vụ tranh chấp cụ thể đó mà
thôi. Để đảm bảo tính công bằng trong xét xử, tại Điều 31 Quy chế của ICJ có quy
định về việc: nếu một bên tham gia tranh tụng có thẩm phán của quốc gia mình thì
mỗi bên sẽ được chọn thêm một thẩm phán ad-hoc. Thẩm phán ad-hoc tốt nhất nên
chọn một trong những thẩm phán có tên trong danh sách ứng cử thành viên của ICJ.
Các thẩm phán ad-hoc trong quá trình xét xử có quyền và nghĩa vụ như thẩm phán

thành viên của ICJ. Như vậy, trên thực tế, thành phần của hội đồng xét xử được
quyết định bởi các bên, và như vậy làm cho quá trình tố tụng nhìn từ khía cạnh này
giống như trọng tài.
Phán quyết của Tòa được đưa ra theo nguyên tắc đa số, mang tính chung
thẩm và có giá trị ràng buộc thực hiện với các bên.
2. Về chức năng:
Tòa án công lý quốc tế có hai chức năng chính là giải quyết tranh chấp quốc
tế và đưa ra kết luận tư vấn. Tòa án công lý quốc tế giải quyết hòa bình, trên cơ sở
luật quốc tế, các tranh chấp pháp lý quốc tế phát sinh giữa các quốc gia trong các
quan hệ quốc tế. Tòa án giúp Liên hợp quốc đạt được một trong những nhiệm vụ cơ
bản của mình là giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với
các nguyên tắc của công lý và luậtquốc tế.


- Chức năng giải quyết tranh chấp quốc tế:
Tòa án công lý quốc tế là cơ quan có chức năng giải quyết tranh chấp phát
sinh giữa các quốc gia thành viên Liên hợp quốc. Các quốc gia không phải là thành
viên của Liên hợp quốc nhưng muốn tham gia Quy chế Tòa án công lý quốc tế và
đưa tranh chấp ra Tòa thì phải thỏa mãn những điều kiện do Đại hội đồng quyết
định trong từng trường hợp cụ thể theo kiến nghị của Hội đồng bảo an. Tòa án công
lý có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia nhưng thẩm quyền này
không phải đương nhiên mà phải dựa trên sự đồng ý rõ ràng của các bên tranh
chấp. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa được xác lập theo ba phương
thức:
+) Chấp nhận thẩm quyền của Tòa theo từng vụ việc:
Khi có tranh chấp phát sinh các quốc gia tranh chấp sẽ kí thỏa thuận
đề nghị tòa giải quyết tranh chấp. Trong thỏa thuận này, các quốc gia nêu rõ
đối tượng tranh chấp, những vấn đề cần giải quyết, phạm vi thẩm quyền của
tòa… Nếu chỉ có một bên yêu cầu tòa án giải quyết nhưng bên kia không
chấp nhận thì tòa không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó.

Ví dụ: Trong vụ Thềm lục địa Biển Bắc năm 1969, để giải quyết tranh
chấp về phân định thềm lục địa giữa Đức - Đan Mạch - Hà Lan, hai thỏa
thuận đã được kí kết giữa Đức - Đan Mạch và giữa Đức - Hà Lan nhằm chấp
nhận thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TACLQT.
+) Chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa trong các điều ước quốc tế:
Trong một số điều ước quốc tế song phương cũng như đa phương, các
quốc gia thành viên có thể đưa vào một điều khoản đặc biệt theo đó các bên
thỏa thuận rằng trước khi xảy ra tranh chấp liên quan đến việc giải thích và
thực hiện điều ước quốc tế, một bên có thể đưa tranh chấp ra trước tòa.
Ví dụ: Theo Điều 287, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm
1982, một quốc gia được quyền tự do lựa chọn một hay nhiều biện pháp sau


đây để giải quyết các tranh chấp quốc tế có liên quan đến việc giải thích hay
áp dụng Công ước: Tòa án Quốc tế về luật Biển, Tòa án Công lý quốc tế, Tòa
trọng tài Quốc tế…
+) Tuyên bố đơn phương chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa án:
Việc đưa ra Tuyên bố này hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của quốc gia.
Tòa án Công lý quốc tế sẽ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nếu như các
quốc gia tranh chấp đều có tuyên bố đơn phương chấp nhận trước thẩm
quyền của tòa và các tuyên bố này đồng thời cùng có hiệu lực đối với các
tranh chấp phái sinh.
Ví dụ: Trong vụ tranh chấp Nicaragoa kiện Mỹ về các hoạt động quân
sự và bán quân sự mà Mỹ thực hiện tại Nicaragoa và chống lại Nicaragoa
năm 1984, thẩm quyền của Tòa án công lý quốc tế đã được xác lập thông qua
hai tuyên bố đơn phương là Tuyên bố của Mỹ ngày 14/8/1946 chấp nhận
thẩm quyền của Pháp viện thường trực quốc tế (cơ quan Tài phán trong
khuôn khổ Hội quốc liên – tổ chức tiền thân của Liên hợp quốc. Theo Điều
36, Qui chế Tòa án Công lý quốc tế, những quốc gia nào chấp nhận thẩm
quyền của Pháp viện thường trực quốc tế thì có thể được coi như chấp nhận

thẩm quyền của Tòa án công lý quốc tế).
- Chức năng đưa ra kết luận tư vấn:
Ngoài chức năng giải quyết tranh chấp quốc tế, hoạt động thực tiễn của Tòa
còn để thực thi một chức năng quan trọng khác là đưa ra các kết luận tư vấn được
xác định theo Điều 96 Hiến chương Liên hợp quốc. Tòa thực hiện chức năng đưa ra
kết luận tư vấn khi đại hội đồng hay hội đồng bảo an liên hợp quốc yêu cầu, liên
quan đến những vấn đề pháp lý phát sinh trong thực tiễn hoạt động của các cơ
quan. Các quốc gia không được quyền yêu cầu Tòa cho các kết luận tư vấn về tranh
chấp của mình. Tòa còn có các thẩm quyền phụ như chỉ định các chánh án của Tòa


trọng tài, Ủy ban trọng tài hoặc hòa giải và các ủy viên khi cần hoặc theo yêu cầu
của các quốc gia. Các ý kiến tư vấn của Tòa chỉ mang tính chất khuyến nghị.
3. Về thủ tục tố tụng:
Thủ tục xét xử một vụ tranh chấp trước Tòa gồm hai phần: thủ tục viết và thủ
tục nói. Theo quy chế tại Điều 43, Thủ tục viết bao gồm viết thông báo cho Tòa án
và cho các bên các bản bị vong lục, và nếu cần, những câu trả lời các vấn đề đó
cũng như tất cả các giấy tờ và tài liệu xác nhận các bản đó. Tất cả các thông báo
này phải được chuyển qua thư ký theo trình tự và thời hạn mà Tòa án đã quy định,
sau đó, được thư ký gửi trực tiếp cho chính phủ của quốc gia mà Tòa án muốn
chuyển thông bào.
Thủ tục nói là Tòa án nghe các nhân chứng, các giám định viên, các đại diện,
các luật sư và các trạng sư một cách công khai. Ngược lại, ở thủ tục nghị án, Tòa án
tiến hành các phiên họp không công hkai và được giữ bí mật. Tất cả các vấn đề
được quyết định bằng đại đa số số phiếu của Thẩm phán có mặt. Phán quyết của
Tòa, sau khi thông báo chính thức cho các đại diện các bên, sẽ được đọc trong các
phiến họp công khai của Tòa án.
Mặc dù phán quyết đã đưa ra thì không thể bị kháng cáo nhưng các bên tranh
chấp có thể yêu cầu xem xét lại phán quyết trên cơ sở những tình tiết mới được
phát hiện, mà cả Tòa án và cả bên yêu cầu xem xét lại đều không hề biết, có ảnh

hưởng quyết định đến xuất phát điểm của vụ tranh chấp. Yêu cầu xem xét lại phải
được công bố chậm nhất là 6 tháng sau khi phát hiện ra các tình tiết mới và trước
10 năm kể từ lúc ra phán quyết. Tuy nhiên, phán quyết trước đó vẫn có thể được
Tòa án yêu cầu thi hành trước khi tiến hành xem xét lại.
4. Về thành viên:
Tại Điều 93.1 Hiến chương Liên hợp quốc đưa ra hai đối tượng có thể trở
thành thành viên gia nhập Quy chế ICJ. Đó là: tất cả các thành viên của UN – vốn
mặc nhiên được coi là thành viên của Quy chế ICJ, và các quốc gia/vùng lãnh thổ


không phải thành viên của Liên hợp quốc cũng có thể trở thành thành viên của Quy
chế này nhưng sẽ phải áp dụng những điều kiện do Đại Hội đồng quyết định (với
sự đề xuất của Hội đồng Bảo an) trong từng trường hợp. San Marino và Thụy Sỹ đã
gia nhập Quy chế Tòa theo cách thứ hai nói trên.
Hiện nay TACLQT có 193 quốc gia thành viên, trong đó Vương quốc Anh và
Albania là những quốc gia đầu tiên đưa tranh chấp ra giải quyết trước Tòa vào ngày
22/05/1947. Kể từ đó tới ngày 26/11/2013, 154 vụ tranh chấp đã được thụ lý và giải
quyết cho thấy uy tín của tòa đối với cộng đồng quốc tế.
II – TÒA ÁN CÔNG LÝ QUỐC TẾ ĐÓNG GÓP PHÁT TRIỂN LUẬT QUỐC
TẾ:
Thực tế trong hơn 60 năm tồn tại của mình, tuy số lượng vụ việc được đưa ra
giải quyết tại Tòa không lớn nhưng đối với kết quả giải quyết của Tòa, ngoài việc
xem xét các tranh chấp quốc tế phát sinh, Tòa đã đóng góp nhiều ý kiến tư vấn về
pháp lý cho Liên hợp quốc cũng như góp phần phát triển Luật quốc tế và khoa học
pháp lý quốc tế. Vai trò phát triển LQT của Tòa thể hiện ở chỗ nếu những QPPLQT
quy định chưa chính xác, thiếu tính khoa học, thì bằng các phán quyết của mình và
các kết luận tư vấn Tòa làm sáng tỏ quy phạm đó, đưa ra những cách kiến giải phù
hợp và khoa học hơn. Từ các phán quyết của Tòa mà QPPL mới đã được ghi nhận
hay sửa chữa bổ sung, qua đó phần nào đã mở đường cho các quốc gia phát triển
tiếp nhận LQT. Điều này lý giải tại sao, dù con đường tài phán quốc tế thông qua

TACLQT của Liên hợp quốc không phải là phương pháp hòa bình được sử dụng
thường xuyên trong giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể Luật quốc tế nhưng Tòa
vẫn tồn tại và phát huy vai trò quan trọng của mình trong quan hệ quốc tế hiện đại.
1. Đóng góp trong lĩnh vực chung của Luật quốc tế:
Tòa án Công lý quốc tế đã phát triển liên tục những thực tiễn trong các thủ
tục của mình và đã góp phần vào sự phát triển của luật quốc tế. Các tranh chấp đưa


ra tại Tòa án quốc tế sẽ được giải quyết theo luật quốc tế và Tòa áp dụng nguồn của
luật quốc tế theo Điều 38 của Quy chế Tòa án quốc tế.
Theo Điều 59 Quy chế của Tòa: “Quyết định của Tòa có giá trị bắt buộc chỉ
đối với các bên tham gia vụ án mà chỉ đối với các vụ án cụ thể đó”. Tuy nhiên cách
giải thích của Tòa nhiều khi đã vượt ra khỏi phạm vi các quốc gia tham gia vụ kiện
mà có tác động nhất định với cả các quốc gia ký kết điều ước nhưng không tham
kiện đồng thời mỗi phán quyết của Tòa không đương nhiên có giá trị là tập quán
quốc tế nhưng trên thực tế vẫn gián tiếp tác động tới thái độ của các quốc gia đối
với vấn đề mà Tòa đã phân xử từ đó tác động tới cách quan niệm và ý chí của các
chủ thể luật quốc tế. Vì vậy, trên bình diện chung, có thể đánh giá đóng góp quan
trọng mà các bản án của Tòa đưa ra đối với sự phát triển của Luật quốc tế là việc,
các chủ thể của Luật quốc tế ngoài việc viện dẫn kết quả giải quyết của Tòa với
tính chất là tập quán quốc tế thì hoàn toàn có thể chấp nhận áp dụng từng phần hay
toàn bộ phán quyết của Tòa với tư cách là phương tiện bổ trợ nguồn của Luật quốc
tế. Cụ thể là các phán quyết sau này thường căn cứ vào những án lệ đã có từ trước
để xác định những quy tắc. Có thể nói, các phán quyết của Tòa án không chỉ dàn
xếp được tranh chấp mà nó còn được xem như nguồn bổ trợ, là tiền đề để hình
thành nên tập quán, điều ước quốc tế.
Về vấn đề chủ thể của luật quốc tế, Tòa đã có những cống hiến trong việc
xây dựng các yếu tố hình thành nên quốc gia cũng như tổ chức quốc tế. Một số vụ
việc điển hình được Tòa giải quyết như: Quyền qua lại trên lãnh thổ ấn độ; Chủ
quyền trên một số vùng đất (Bỉ-Hà Lan); Tranh chấp biên giới Buốckina phaso/

Mali; Các hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragoa và chống lại
Nicaragoa; Tranh chấp biên giới đất liền, đảo và 5 biển (Sanvado/Ônđurant) …tất
cả những vụ việc đó tòa đã phát triển các lý luận về thụ đắc lãnh thổ, về nguyên tắc
chiếm hữu thật sự góp phần tích cực giải quyết hòa bình các tranh chấp lãnh thổ.
Tòa cũng đã làm sáng tỏ thêm lý thuyết về quyền năng chủ thể, khẳng định
tổ chức quốc tế là một chủ thể phát sinh của luật quốc tế. Trong kết luận ngày


11/4/1949 về Bồi thường các thiệt hại gây ra cho hoạt động của Liên hợp quốc, Tòa
đã kết luận rằng: “ Tổ chức (Liên hợp quốc) có quyền năng chủ thể. Điều đó không
có nghĩa là nói Tổ chức là một quốc gia, nó hoàn toàn không đúng vậy, hoặc quyền
năng chủ thể của nó, các quyền và nghĩa vụ của nó cũng giống như các quyền và
nghĩa vụ của quốc gia. Càng không đúng khi nói rằng Tổ chức là một “siêu quốc
gia” dù nghĩa của cách biểu thị này như thế nào…Điều này có nghĩa rằng tổ chức
là một chủ thể của Luật quốc tế, rằng nó có khả năng là bên thụ hưởng các quyền
và nghĩa vụ quốc tế và nó có khả năng thể hiện các quyền của mình bằng con
đường yêu sách quốc tế”.
Trong lĩnh vực phi thực dân hóa, tòa đã làm sáng tỏ jus cogens của nguyên
tắc quyền dân tộc tự quyết. Trong vụ Các hệ quả pháp lý đối với các quốc gia từ
việc tiếp tục hiện diện của Nam Phi tại Namibia (Tây Nam Phi), Tòa đã lên án các
hành động được coi là vi phạm các mục tiêu và nguyên tắc của hiến chương liên
hợp quốc.
Trong lĩnh vực luật điều ước, Tòa đã khẳng định nguyên tắc: tập quán và
điều ước là hai nguồn độc lập, tương đương nhau của luật quốc tế; mọi văn kiện
quốc tế cần phải được giải thích và áp dụng trong khuôn khổ hệ thống pháp lý có
hiệu lực vào thời điểm tiến hành giải thích. Qua các vụ Các đảo Minquier et
Ecrehous; Đền Preah Vihear; Tranh chấp lãnh thổ Libi-Sat…Tòa đã cũng cố lý
thuyết về luật thời điểm và các vấn đề về thời điểm kết tinh tranh chấp, cũng như
các khía cạnh của việc giải thích và áp dụng điều ước.
Trong lĩnh vực luật kinh tế, Tòa cũng có những đóng góp nhất định trong

việc bảo vệ đầu tư nước ngoài giải thích luật áp dụng và nêu ra những thiếu sót
cũng như phương cách bổ sung, qua đó thúc đẩy quá trình pháp điển hóa. Tòa đã
can thiệp tới những vấn đề về bảo hộ ngoại giao, vai trò của các công ty và mối
quan hệ giữa chúng với các nhà nước trong các vụ Ambatelios, Nottebohm, Công ty
đầu lửa Anh-Iran…


Trong lĩnh vực luật môi trường, Tòa cũng có nhiều đóng góp trong việc
xác định các nguyên tắc điều chỉnh trách nhiệm pháp lý quốc tế của các quốc
gia.các phán quyết của tòa về quy thuộc trách nhiệm cho một quốc gia (phái đoàn
ngoại giao và lãnh sự Mỹ tại Têhêran, các hoạt động quân sự tại Nicaragoa và
chống lại Nicaragoa) đóng vai trò không nhỏ trong quá trình pháp điển hóa các
nguyên tắc liên quan tới trách nhiệm pháp lý quốc tế của các quốc gia đối với các
hành vi bất hợp pháp quốc tế. Các phán quyết của tòa về các lĩnh vực khác như đe
dọa hoặc sử dụng vú khí hạt nhân, quyền quá cảnh, quyền tị nạn…cũng làm rõ
thêm vai trò của tòa án trong quá trình phát triển luật quốc tế.
2. Đóng góp trong lĩnh vực luật biển:
Có thể nói, những đóng góp lớn nhất, hệ thống nhất, hiệu quả nhất của
TACLQT đều được thể hiện trong lĩnh vực luật biển, một lĩnh vực phức tạp, nhiều
đổi mới và đã trải qua một quá trình pháp điển hóa đầy trắc trở, lâu dài và gay go.
Các phán quyết của Tòa về lĩnh vực luật biển chiếm một tỷ trọng đáng kể. Luật
biển đã được hiểu thêm và phát triển thêm rất nhiều do xét xử của Tòa mang lại.
Vai trò đóng góp của Tòa thể hiện trong một số vấn đề cụ thể như:
a. Trong vấn đề quy chế pháp lý của eo biển quốc tế:
Phán quyết đầu tiên của Tòa là một phán quyết về biển, vụ Eo biển Corfou
(giữa Anh, Bắc Ai-len và Albania). Trong phán quyết năm 1949 này, Tòa đã góp
phần làm sáng tỏ khái niệm pháp lý eo biển quốc tế và nguyên tắc quyền qua lại
không gây hại qua eo biển quốc tế, góp phần giải thích và thúc đẩy pháp điển hóa
Luật biển quốc tế. Các eo biển quốc tế là các eo biển nối liền hai phần của biển cả
và phục vụ cho hàng hải quốc tế. Tòa cho rằng các quốc gia vào thời kỳ hòa bình

có quyền cho các tàu chiến của họ đi lại qua các eo biển quốc tế mà không phải báo
trước, quốc gia ven biển không được cản trở việc thực hiện quyền này nếu các tàu
chiến không làm gì ảnh hưởng đến hòa bình an ninh trật tự, chủ quyền và các
quyền tài phán khác của quốc gia ven biển. Đồng thời Quốc gia ven biển phải có
nghĩa vụ thông báo cho tàu thuyền qua lại eo biển về bất kỳ mối nguy hiểm nào có


thể xảy ra như xác tàu đắm, mìn, đá ngầm…quyền này đã được Công ước Giơ-nevơ về lãnh hải và vùng tiếp giáp năm 1958 công nhận và sau đó được phát triển,
điều chỉnh trở thành quyền quá cảnh qua các eo biển quốc tế ghi trong Công ước
của liên hợp quốc về luật biển năm 1982 ( phần II, mục 3 - quyền qua lại không
gây hại trong lãnh hải; phần III - các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế).
Tòa đã có dịp trở lại vấn đề quy chế của eo biển quốc tế trong vụ Quyền qua
lại eo biển Great do Phần Lan kiện Đan Mạch trước Tòa. Sau khi yêu cầu chỉ ra
các biện pháp bảo đảm của Phần Lan bị tòa bác bỏ, hai nước đã thành công trong
việc đàm phán giải quyết vấn đề: Đan Mạch đồng ý trả cho Phần Lan một khoản
tiền bồi thường do việc thiết kế dàn khoan để có thể đi qua được dưới cầu bắc qua
eo biển. Vụ việc đã được gạch bỏ khỏi danh sách các vụ kiện trước tòa làm tòa
không có dịp phát triển lý luận về quyền tự do, quá cảnh qua các eo biển quốc tế,
một vấn đề lớn của luật biển quốc tế hiện nay.
b. Trong vấn đề về việc hình thành quy chế pháp lý của đường cơ sở thẳng:
Trong vụ ngư trường nghề cá Anh – Nauy, Anh đã tranh cãi về giá trị pháp lý
của sắc lệnh năm 1935 của Nauy về đường cơ sở thẳng dùng để tính chiều rộng
lãnh hải. Năm 1951 TACLQT đã ra phán quyết, Tòa đã tuyên bố: “Người ta không
thể khăng khăng biểu thị đường ngấn nước thủy triều thấp nhất như một nguyên
tắc bắt buộc chạy theo bờ biển tại tất cả các chỗ uốn gập của nó. Người ta cũng
không thể biểu thị như các ngoại lệ của quy tắc này, các vi phạm nhiều đến nỗi
chúng gợi lên các mấp mô của một bờ biển gồ ghề; quy tắc sẽ mất đi trước các
ngoại lệ, toàn bộ một đường bờ biển như vậy đòi hỏi phải áp dụng một phương
pháp khác: đó là đường cơ sở cách đường hình thể của bờ biển một khoảng cách
hợp lý”. Tòa đã công nhận việc phân định của NaUy dựa trên kỹ thuật đường cơ sở

thẳng “không trái với luật pháp quốc tế”. Các nguyên tắc áp dụng đường cơ sở
thẳng năm 1935 của Nauy đã trở thành các tiêu chuẩn mới của luật quốc tế, thể
hiện trong Điều 4 Công ước Giơnevơ về lãnh hải và vùng tiếp giáp năm 1958 và
Điều 7 Công ước 1982.


Ngày nay, đường cơ sở thẳng đã trở thành một quy phạm mang tính điều ước
và tập quán. Nó ra đời cũng xuất phát từ hoạt động phán quyết của TACLQT.
c. Vấn đề đóng góp về khái niệm thềm lục địa:
Mặc dù đã được đề cập trong Tuyên bố Truman năm 1945 và Công ước
Giơnevơ năm 1958, nhưng khái niệm cũng như bản chất pháp lý của thềm lục địa
đã được làm sáng tỏ nhất trong phán quyết thềm lục địa Biển Bắc (Cộng hòa Liên
bang Đức/Đan Mạch, Cộng hòa liên bang Đức/Hà Lan) năm 1969 của TACLQT.
Trong phán quyết lịch sử của mình, Tòa đã khôi phục và phát triển thêm nguyên tắc
kéo dài tự nhiên đã được đề cập trước đó. Đối với tòa, không phải tính tiếp giáp
cũng không phải tính kế cận có thể minh chứng cơ bản cho việc mở rộng thẩm
quyền quốc gia trên thềm lục địa nằm ngoài lãnh hải, mà chính là khái niệm sự kéo
dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền ra biển đã mang lại danh nghĩa quyền chủ quyền
cho quốc gia ven biển trên phần thềm lục địa đó.
“Trên thực tế, danh nghĩa mà luật pháp quốc tế quy thuộc một cách pháp lý
cho quốc gia ven biển trên thềm lục địa của họ bắt nguồn từ việc các vùng đáy biển
này có thể được coi như một phần lãnh thổ thực sự trên đó quốc gia ven biển từng
thực hiện quyền lực của mình: hay người ta có thể nói rằng, trong khi hoàn toàn bị
che phủ bởi nước, các vùng đáy biển này vẫn là một sự kéo dài, một sự tiếp nối,
một sự mở rộng lãnh thổ này dưới biển”. Bằng lập luận này của mình, Tòa đã chỉ
rõ bản chất, nguồn gốc pháp lý của thềm lục địa, tòa đã nêu được nguyên tắc: “đất
thống trị biển” và nguyên tắc “thềm lục địa là sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất
liền ra biển”. Chính chủ quyền của quốc gia ven biển trên lãnh thổ đã đem lại quyền
chủ quyền cho họ trên phần thềm lục địa kéo dài của lãnh thổ đất liền ra biển. Ngay
cả khi một vùng đáy biển là gần lãnh thổ của một quốc gia hơn là lãnh thổ của mọi

quốc gia khác, người ta cũng không thể coi rằng nó thuộc quốc gia này một khi nó
không phải là phần mở rộng tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó ra biển.
Nguyên tắc này đã được Công ước về luật biển năm 1982 ghi nhận tại Điều 76.
d. Vấn đề đóng góp về vịnh lịch sử:


Tại Điều 10 của Công ước luật biển 1982 đã đề cập đến như thế nào là vịnh,
tuy nhiên không đưa một định nghĩa nào về vịnh lịch sử. Trong vụ Tranh chấp biên
giới đất liền, đảo và biển giữa En Sanvađo và Ônđurát, Tòa đã đưa ra phán quyết
của mình, trong đó đã khẳng định vịnh Fonseca là vịnh lịch sử, mỗi nước ven bờ
vịnh có lãnh hải đa hải lý và vùng nước vịnh, nằm ngoài vùng nước thuộc chủ
quyền tiếp tục được đặt dưới chế độ cộng quản, đồng chủ quyền giữa 3 nước ven
bờ vịnh: En Sanvađo, Ônđurát và Nicaragoa. Phán quyết đã góp phần làm sáng tỏ
thêm quy chế của một vịnh lich sử, điều mà Công ước 1982 không nói rõ.
e. Vấn đề đóng góp trong việc xây dựng các quy định về các vùng đánh cá
và vùng đặc quyền kinh tế:
Trong vụ Thẩm quyền nghề cá năm 1974, Tòa đã có điều kiện để phát triển
các khái niệm về nghề cá. Phán quyết của tòa xảy ra khi hội nghị Luật biển lần thứ
3 đã bắt đầu và khái niệm vùng đặc quyền kinh tế đang trở thành một khái niệm
mang tính tập quán nên đã không có tiếng vang lớn. Tuy nhiên trong các phán
quyết Thềm lục địa Libi/Manta năm 1985, Phân định biển trong vịnh Maine 1984
và Phân định biển trong khu vực giữa Groenland và Jan Mayen 1993, Tòa đã có
dịp làm đầy đủ thêm khái niệm vùng đặc quyền kinh tế, nhất là trong quan hệ với
thềm lục địa.
f. Về vấn đề đóng góp về phân định biển:
Công ước luật biển 1982 đã có hiệu lực từ ngày 16/11/1994 đặt ra một trật tự
pháp lý mới trên biển và việc phân chia lại các nguồn tài nguyên biển cả. Công ước
đã đặt ra một vấn đề hết sức khó khăn: Xác định các đường biên giới biển. Đặc biệt
vấn đề xác định thềm lục địa là vấn đề được tranh cãi nhiều nhất và rất khó thỏa
thuận. Nội dung quy định tại Điều 74 và Điều 83 của Công ước quy định việc phân

định phải theo nguyên tắc công bằng nhưng không đề cập đến như thế nào là công
bằng. Trong hơn chục năm qua Tòa án đã tập trung nỗ lực của mình trong việc làm
rõ và phát triển các khái niệm về phân định biển mà Công ước này chưa nói rõ theo
phương châm “Công bằng không có nghĩa là bằng nhau”. Điều này được thể hiện


trong các phán quyết đối với các vụ Thềm lục địa biển Bắc, Thềm lục địa Tuynidi /
Libi, Vịnh Maine và Thềm lục địa Libi / Manta.
III – ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN CÔNG LÝ QUỐC TẾ
Từ góc độ pháp lý và thực tiễn hoạt động của Tòa, là một cơ quan của liên
hợp quốc, có nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan khác của liên hợp quốc trong việc
giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế, tòa đã hoàn thành được nhiệm vụ của mình và
có những đóng góp không nhỏ vào việc phát triển và hoàn thiện luật quốc tế.
Những phán quyết hợp lý và hợp pháp của tòa là cơ sở để lựa chọn khi xây dựng
các quy phạm của luật quốc tế sau này, có thể nói hoạt động của tòa có ảnh hưởng
rất lớn trong việc xây dựng luật quốc tế, và quan trọng hơn nữa là tòa đã thể hiện
đầy đủ vai trò của mình trong việc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế.
Tuy nhiên, những vai trò nêu trên có những trường hợp không được đề cao
xuất phát từ những hạn chế còn tồn tại của Tòa dưới góc độ pháp lý cũng như thực
tiễn hoạt động. Về vai trò xây dựng và phát triển LQT chưa được chú trọng đúng
mức. Số lượng QPPLQT được giải thích áp dụng còn chưa nhiều. Cho nên, LQT
vẫn còn quy định chung chung, nhiều cách hiểu.
Năng lực của tòa vẫn chưa thực sự được khai thác một cách đầy đủ. Năng lực
này bị hạn chế do cả sự tham gia chưa tích cực của các quốc gia vào công việc của
tòa cũng như do chính tầm quan trọng của những vụ việc tòa giải quyết. Những vấn
đề đưa ra trước tòa thường là những vấn đề không lớn, ví dụ: các vụ tai nạn máy
bay những năm 1950, vụ Electronica Sicala…những vụ mà tòa xét xử không phải
là những vụ tranh chấp biên giới lãnh thổ lớn. Có nhiều vụ tranh chấp lớn đã không
được giải quyết bằng con đường tài phán như tranh chấp casomia giữa Ấn độ và
Pkixtan, tranh chấp tây tạng giữa Ấn độ và Trung quốc… mỗi khi giải quyết một

vấn đề lớn của luật quốc tế có tầm quan trọng về kinh tế và chính trị như: Tây Nam
Phi, các vụ thử vũ khí hạt nhân về chính trị…tòa thường đưa ra các giải pháp mang
tính tranh cãi ( Vụ thềm lục địa Tuynidi/libi hay vụ Nicaragoa, Loccobi…), tòa


không đối đầu với các cơ quan khác. Tòa chỉ thực sự hoạt động đúng năng lực và
chức năng của mình khi các quốc gia thành viên thực sự tin tưởng và coi tòa như
một giải pháp tài phán có thể sử dụng khi đàm phán trực tiếp không đạt được kết
quả khả quan.
Trong vấn đề thi hành các phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế. Về mặt
pháp lý, phán quyết của Tòa có giá trị chung thẩm và bắt buộc đối với các bên. Việc
giải quyết tranh chấp sẽ trở nên vô nghĩa nếu các quyết định giải quyết tranh chấp
của Tòa không được các bên thi hành, cũng đồng nghĩa với việc vai trò và chức
năng của Tòa không thực hiện được. Vì vậy, các quyết định giải quyết tranh chấp
của Tòa phải được thực hiện nghiêm túc nhất là đối với bên thua kiện. Tại Điều 94
bên cạnh quy định nghĩa vụ của các quốc gia đồng thời khẳng định nếu một trong
các bên không thi hành bản án, phía bên kia có quyền yêu cầu Hội đồng bảo an can
thiệp, buộc phải chấp hành.
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế cho thấy đa số các phán quyết của Tòa đều
được các bên chấp hành nghiêm chỉnh. Tuy nhiên trong một số ít vụ việc, đặc biệt
liên quan đến những vấn đề đấu tranh chống tội phạm, một số các phán quyết cũng
như các biện pháp bảo đảm tạm thời đã không được các bên thiện chí thi hành.
Ví dụ:
Vào năm 1980 tại Tòa án đã thảo luận Vụ đoàn ngoại giao và lãnh sự
Mỹ tại Têhêran, Tòa đã yêu cầu Iran phải nhanh chóng trá lại trụ sở ngoại
giao và lãnh sự cũng như thả ngay các công dân quốc tịch Mỹ bị bắt làm con
tin tại Đại sứ quán cũng như bất kỳ đâu. Lệnh này đã không được Iran tôn
trọng.
Trong vụ Đền Preah Vihear 15/6/1962 , Tòa đã công nhận ngôi đền
thuộc chủ quyền lãnh thổ Campuchia. Thái lan có nghĩa vụ rút hết quân đội,

cảnh sát, nhân viên bảo vệ và trả lại những đồ vật các loại của ngôi đền. dù là
thành viên của LHQ nhưng Thái Lan không chịu thực hiện các phán quyết ấy


ngay lập tức. khi ấy chính phủ Campuchia đã phải sử dụng biện pháp quân
sự để đuổi các đơn vị quân đội và cảnh sát vũ trang Thái Lan.
Hay trong vụ Các hành động quân sự và bán quân sự tại Nicaragoa
và chống lại Nicaragoa năm 1984, Tòa đã nêu ra vào năm 1986 yêu cầu Mỹ
phải chấm dứt và kiềm chế không có bất kỳ hành động nào phóng tỏa việc ra
vào các cảng của Nicaragoa và việc đặt mìn ở đó. Quyền chủ quyền của
Nicaragoa phải được tôn trọng và không bị xâm phạm. Tuy nhiên Mỹ đã
không thi hành các biện pháp này.
Qua đây, buộc phải đặt dấu chấm hỏi về hiệu lực của các biện pháp bảo đảm
tạm thời cũng như các phán quyết của Tòa đưa ra trong các vụ việc mang tính chất
chính trị cao. Có thể thấy rằng tiềm năng, vị thế cũng như lòng tin mà thế giới đặt
vào Tòa án Công lý quốc tế vẫn chưa được đáp ứng vì nhiều lý do khác nhau.
Chính vì vậy việc nghiên cứu để hoàn thiện hơn vai trò, hiệu quả hoạt động của
Tòa là vấn đề không chỉ của riêng Liên hợp quốc mà còn là của tất cả các quốc gia
trên thế giới bởi sự hợp tác, thiện chí của các chủ thể có một ý ghĩa hết sức to lớn
trong việc khẳng định hiệu quả hoạt động của Tòa.

C. KẾT LUẬN:
Qua các hoạt động của mình, mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhất định
nhưng những đóng góp của tòa án công lý quốc tế là không thể phủ nhận. Khi thực
hiện vai trò của mình, Tòa vừa giải quyết tranh chấp, vừa áp dụng, phát triển LQT
tạo ra một hệ thống LQT hoàn thiện hơn. Vai trò trong việc xây dựng và phát triển
LQT và trong giải quyết tranh chấp đều nhằm mục đích duy trì hòa bình và ổn định
an ninh quốc tế. Dù thể hiển vai trò trong khía cạnh nào, lĩnh vực nào, với tính chất
là một cơ quan tài phán, IJC cũng đều nhằm mục đích giải quyết các tranh chấp
bằng phương pháp hòa bình theo quy đinh của LQT. Do đó có thể khẳng định rằng

TACL đóng một vai trò không thể thiếu trong duy trì hòa bình và an ninh quốc tế,


xứng đáng là cơ quan tài phán chính của liên hợp quốc, đóng góp hiệu quả vào
công tác giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế nhất là trong tình hình quan hệ
giữa các quốc gia càng trở nên phức tạp hơn.
Do phạm vi nhận thức còn hạn chế nên bài viết không thể tránh khỏi những
thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ thầy, cô để bài viết của em được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Hiến chương Liên hợp quốc.
Quy chế Tòa án Công lý quốc tế.
Công ước Luật biển 1982.
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật quốc tế.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật quốc tế, Nxb. CAND.
Ths. Nguyễn Thị Kim Ngân – Ths. Chu Mạnh Hùng (Đồng chủ biên), Giáo

trình Luật quốc tế, Nxb Giáo dục Việt Nam.
7. TS. Nguyễn Hồng Thao, Tòa án Công lý quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia.
8. Vũ Thị Mai Liên, Vai trò của Tòa án quốc tế trong giải quyết hòa bình các

tranh chấp quốc tế, Tạp chí Luật học - Đặc san kỷ niệm 60 năm thành lập
Liên hợp quốc.



×