Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên huyện ứng hòa – hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.38 KB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------



---------

TRƢƠNG THỊ KIM HÀ

GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH
MẠNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
HUYỆN ỨNG HÒA – HÀ NỘI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------



---------

TRƢƠNG THỊ KIM HÀ

GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH
MẠNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN


HUYỆN ỨNG HÒA – HÀ NỘI HIỆN NAY

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã sô: 60 22 03 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Thanh Bình

Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong
bất kì công trình nào khác.
Hà Nội, tháng 9 năm 2014
Học viên

Trương Thị Kim Hà


LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới PGS. TS Nguyễn Thanh
Bình - người thầy đã giúp đỡ và hướng dẫn em rất tận tình trong quá trình
thực hiện đề tài nghiên cứu.
Em cũng xin chân thành cảm ơn những ý kiến nhận xét thiết thực của
thầy - cô phản biện đã giúp cho đề tài được hoàn thiện hơn
Cuối cùng là những tình cảm biết ơn chân thành em xin được gửi tới
toàn thể các thầy cô trong khoa Triết học đã tạo điều kiện cho em được học

tập, rèn luyện và hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp này.

Hà Nội, tháng 9 năm 2014
Học viên

Trương Thị Kim Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu......................................................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................. 5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................................. 5
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu......................................................... 6
6. Đóng góp mới của luận văn............................................................................................ 6
7. Kết cấu của luận văn.......................................................................................................... 6
NỘI DUNG.......................................................................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC, RÈN
LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN...............7
1.1 Khái quát chung về đạo đức cách mạng............................................................. 7
1.1.1 Khái niệm đạo đức cách mạng............................................................................ 7
1.1.2

Khái quát những nội dung chủ yếu của đạo đức cách mạng...........9

1.2 Tầm quan trọng của việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay.................................................................... 19
1.3 Các yếu tố tác động đến giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay.............................................................................. 27

1.3.1 Nhân tố kinh tế........................................................................................................... 27
1.3.2 Nhân tố truyền thống văn hóa, đạo đức, tâm lý dân tộc......................30
1.3.3 Nhân tố thời đại........................................................................................................ 33
1.4 Khái quát chung về huyện Ứng Hoà – Hà Nội............................................. 37
Tiểu kết chƣơng 1................................................................................................................... 42
CHƢƠNG 2. GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO

CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HUYỆN ỨNG HÒA, HÀ NỘI HIỆN NAY:.........44
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP....................................................................................... 44


2.1 Thực trạng công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên huyện Ứng Hoà hiện nay................................................. 44
2.1.1 Những kết quả đạt được trong công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức

cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên huyện Ứng Hoà hiện nay.......44
2.1.2 Những hạn chế trong công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên huyện Ứng Hòa hiện nay......................................... 58
2.2 Một số vấn đề đặt ra trong công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức
cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên huyện Ứng Hòa hiện nay.....63
2.3 Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của công tác
giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên huyện
Ứng Hòa hiện nay................................................................................................................... 68
2.3.1 Cần thường xuyên quan tâm đúng mức, đánh giá đúng tầm quan
trọng của việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên trên địa bàn huyện................................................................................ 68
2.3.2 Cấp ủy, tổ chức đảng cần xây dựng môi trường thật sự trong sạch,
vững mạnh................................................................................................................................ 72
2.3.3 Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ
bồi dưỡng đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.......................................... 75

2.3.4 Phát huy vai trò tự giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng của
cán bộ, đảng viên huyện Ứng Hòa.............................................................................. 77
2.3.5 Cần có sự thống nhất trong quá trình tổ chức và thực hiện công tác giáo

dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên...........80
Tiểu kết chƣơng 2................................................................................................................... 83
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................... 88


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn
quan tâm đến đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là công tác giáo dục, rèn
luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bởi mỗi cán bộ,
đảng viên có tốt thì chi bộ mới tốt và chi bộ tốt thì Đảng ta mới mạnh.
Trong bối cảnh cải cách, mở cửa và hội nhập quốc tế sâu rộng, mỗi cán
bộ, đảng viên hằng ngày, hằng giờ phải đối mặt với những tác động tiêu cực
từ đời sống xã hội. Thực trạng suy thoái về đạo đức trong cán bộ, đảng viên
đã và đang có những diễn biến phức tạp, như trong Nghị quyết Trung ương 4
khoá XI đã đánh giá: Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có chức
quyền, kể cả một số cán bộ cấp cao sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội,
thực dụng, tham ô, hối lộ, độc đoán, chuyên quyền, coi thường tập thể, xa rời
quần chúng; tình trạng cục bộ địa phương diễn biến khó lường. Một số tổ
chức cơ sở đảng xem nhẹ việc giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng
viên; thậm chí thiếu sức chiến đấu, trong nội bộ có những biểu hiện xa rời
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” nhưng không
chủ động đấu tranh ngăn chặn. Những vấn đề đó đã và đang trở thành vấn đề
bức xúc của toàn xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, là lực
cản lớn trong công tác xây dựng Đảng, ảnh hưởng đến sự tồn vong của Đảng,

của chế độ. Đứng trước thực trạng trên, để góp phần xây dựng đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ đảng viên, Đảng ta cần phải chú trọng và thường
xuyên quan tâm đến công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.
Giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên huyện Ứng
Hòa, thành phố Hà Nội hiện nay vì thế cũng là một nhiệm vụ trọng yếu. Sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất

1


lượng cao mà trong đó đội ngũ cán bộ, đảng viên là nòng cốt. Nếu họ không
có đủ uy tín sẽ khó hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhà nước ta là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân càng
cần có đội ngũ cán bộ, đảng viên có tài đức. Những người đảm nhận chức
trách, quyền hạn ở huyện Ứng Hòa, Hà Nội, đại diện cho lợi ích của quần
chúng nhân dân mà không có đủ uy tín hoặc mất uy tín trước dân có tác hại to
lớn không thể lường hết, trước hết là đối với nhân dân trong huyện, sau đó là
ảnh hưởng tới sự phát triển của đất nước. Vì vậy, cần phải nâng cao uy tín cho
cán bộ, đảng viên huyện Ứng Hòa nhằm đáp ứng yêu cầu như Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rõ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong
sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu của tình hình mới”.
Là học viên cao học chuyên ngành Triết học và hiện nay tham gia công
tác xây dựng Đảng trong Huyện ủy Ứng Hòa, Hà Nội, tôi nhận thức được tầm
quan trọng của công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên nói chung và trong toàn huyện nói riêng. Xuất phát từ
những lý do trên, tôi quyết định chọn vấn đề: “Giáo dục, rèn luyện đạo đức
cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên huyện Ứng Hòa, Hà Nội hiện nay”
làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ của mình với hy vọng, những
đóng góp mà đề tài đem lại sẽ góp phần vào việc giáo dục và nâng cao phẩm

chất chính trị, đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn
Huyện nói riêng và trong cả nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề đạo đức cách mạng và giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng đối
với đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta đã có rất nhiều tài liệu tham khảo và
công trình nghiên cứu. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến các tác phẩm và bài
viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết về đạo đức cách mạng như: tác phẩm Sửa
đổi lối làm việc, Nhà xuất bản Sự thật, xuất bản năm 1948; tác phẩm Cần

2


kiệm liêm chính, xuất bản năm 1949; Bài viết Thực hành tiết kiệm, chống
tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu năm 1952; Bài viết về Đạo đức cách
mạng, đăng trên báo Nhân dân, số 460, ngày 6-6-1955 và tạp chí Học tập, số
12, năm 1958, bài viết Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá
nhân, đăng trên báo Nhân dân, số 5409, năm 1969. Các tác phẩm, bài viết của
Người đã trực tiếp đề cập đến thuật ngữ, nội dung đạo đức cách mạng đối với
người cán bộ, đảng viên cũng như tầm quan trọng của đạo đức cách mạng
trong việc hoàn thiện nhân cách của mỗi cán bộ, đảng viên. Trong các tác
phẩm, bài viết trên, Người nhấn mạnh, mỗi cán bộ, đảng viên muốn giữ gìn
được phẩm chất, đạo đức cách mạng của mình thì phải không ngừng học tập,
rèn luyện, giáo dục một cách thường xuyên và kiên nhẫn, xem nó như việc
rửa mặt hàng ngày vậy.
Đi sâu vào nghiên cứu các tác phẩm gốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
đạo đức cách mạng, các công trình nghiên cứu của các tác giả sau này tiếp tục
làm rõ hơn tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò, nội dung đạo đức
cách mạng cũng như sự cần thiết phải giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng
đối với cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay. Trong đó có thể kể đến một vài
công trình tiêu biểu như: Cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức do PGS. TS

Đinh Xuân Dũng (chủ biên), Nhà xuất bản Giáo dục; Cuốn Di sản Hồ Chí
Minh về văn hóa, đạo đức, do GS.TS.NGND Trần Văn Bính (chủ biên), Nhà
xuất bản Thông tin và Truyền thông, năm 2010; Cuốn Hồ Chí Minh với vấn
đề đạo đức cán bộ của tác giả Đức Vượng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, năm 1995; Cuốn Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của công chức
theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tác giả Thang Văn Phúc (chủ biên), Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1998; Cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn
luyện đạo đức cách mạng đối với cán bộ, đảng viên của tác giả Phạm Quốc
Thành, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1994; Cuốn Tu dưỡng,

3


rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay và đời sau theo tư
tưởng Hồ Chí Minh – Những vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng, chính sách, xã
hội giai đoạn 2010 – 2020, do Nhà xuất bản Thời đại xuất bản năm 2012.

Bên cạnh các công trình trên, vấn đề đạo đức cách mạng và giáo dục đạo
đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên cũng được nghiên cứu ở một số
luận văn, luận án và bài viết được đăng trên tạp chí…. Trong đó có thể kể
đến: Tạp chí Triết học, (số 160) tháng 9 năm 2004 có bài Giáo dục, rèn luyện
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo Di chúc của Hồ Chí Minh của
tác giả Hữu Cát và Mạc Văn Nam. Tạp chí Triết học, (số 164) tháng 1 năm
2005 có bài Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của tác giả Lê Trọng Ân…
Trong những công trình của mình, các tác giả đã nêu lên yêu cầu khách quan
đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh để trở thành những cán bộ, đảng viên chân chính,
cách mạng.
Ngoài ra, một số luận văn, luận án có liên quan đến đề tài nghiên cứu
như: Luận án tiến sỹ triết học của tác giả Phạm Huy Kỳ, năm 2001 về Quan

hệ cá nhân – xã hội trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với vấn đề giáo dục
đạo đức cách mạng cho cán bộ quản lý lãnh đạo hiện nay; Luận văn Thạc sỹ
triết học của tác giả Đặng Thanh Giang, năm 2001 về Vấn đề xây dựng đạo
đức cách mạng cho cán bộ cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay (qua thực tế ở tỉnh Thái Bình); Luận văn thạc sỹ triết học của
tác giả Dương Xuân Lộc, năm 2001 về Quan hệ kinh tế và đạo đức trong việc
xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ, đảng viên cơ sở hiện nay ….
Những công trình của các tác giả đi trước là tài liệu tham khảo có ý nghĩa
quan trọng cho tác giả trong việc nghiên cứu đề tài về đạo đức cách mạng và
việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay.
Tuy nhiên, khi đi vào nghiên cứu tình hình thực tế về công tác giáo dục, rèn

4


luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên cả nước nói chung và
đội ngũ cán bộ, đảng viên huyện Ứng Hòa, Hà Nội nói riêng thì những công
trình trên vẫn chưa đề cập được toàn bộ những nội dung mà tác giả quan tâm
và hướng đến. Vì vậy, thực hiện đề tài này, chúng tôi hy vọng góp phần phản
ánh về thực trạng và giải pháp để nâng cao việc giáo dục, rèn luyện đạo đức
cách mạng đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta nói chung và huyện
Ứng Hòa, Hà Nội nói riêng hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
-

Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích thực trạng đạo đức cách mạng

và việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
huyện Ứng Hòa, tác giả đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần nâng
cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng đội

ngũ cán bộ, đảng viên huyện Ứng Hòa trong giai đoạn hiện nay.
-

Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung

làm rõ những nội dung chủ yếu sau đây:
+ Trình bày những nội dung chủ yếu về đạo đức cách mạng và việc giáo
dục, rèn luyện đạo đức cách mạng đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung.
+ Trình bày thực trạng đạo đức cách mạng và việc giáo dục, rèn luyện đạo
đức cách mạng đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên huyện Ứng Hòa hiện nay.

+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác
giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên huyện
Ứng Hòa trong giai đoạn hiện nay.
4.
-

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Đạo đức cách mạng và việc giáo

dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ đảng viên huyện Ứng
Hòa trong giai đoạn hiện nay.

5


Phạm vi nghiên cứu: Công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho

-


đội ngũ cán bộ đảng viện huyện Ứng Hòa những năm vừa qua và hiện nay.
5.
-

Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức,
đạo đức cách mạng và vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên. Ngoài ra tác giả kế thừa có chọn lọc các công trình
nghiên cứu khác có liên quan đến nội dung của đề tài.
-

Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện

chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số phương pháp nghiên
cứu khoa học khác như: lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, so sánh, khái
quát v.v. trên cơ sở quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
để làm rõ nội dung của đề tài nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của luận văn
-

Ý nghĩa lý luận:

Góp phần làm rõ các khái niệm và những vấn đề liên quan đến đạo đức
cách mạng và công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên.
-

Ý nghĩa thực tiễn:


Góp phần vào việc nhận thức đầy đủ hơn về tầm quan trọng của việc giáo
dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung và
làm cơ sở phục vụ công tác nghiên cứu và thực tiễn công tác giáo dục, rèn
luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên huyện Ứng Hòa, Hà
Nội nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 2 chương và 7 tiết.

6


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC,
RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
1.1 Khái quát chung về đạo đức cách mạng
1.1.1 Khái niệm đạo đức cách mạng
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, đạo đức là phạm trù có tính
lịch sử, ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với những điều kiện tồn tại của xã
hội. Với tính cách là một trong những hình thái sớm ra đời nhất của ý thức xã
hội, đạo đức bao gồm những chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi của
con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng (gia đình, làng
xóm, giai cấp, dân tộc hoặc toàn xã hội). Căn cứ vào các chuẩn mực ấy, người
ta đánh giá hành vi của mỗi người theo các quan niệm thiện và ác, về cái
không làm được và về nghĩa vụ phải làm. Khác với pháp luật, các chuẩn mực
đạo đức không ghi thành văn bản pháp quy có tính cưỡng chế, song mọi
người đều phải thực hiện do sự thôi thúc của lương tâm và dư luận xã hội.
Đạo đức ra đời và phát triển do nhu cầu xã hội phải điều tiết mối quan hệ giữa
các cá nhân và hoạt động chung của con người trong xã hội. Tính đạo đức

biểu hiện bản chất xã hội của con người, là nét cơ bản trong tính người; sự
tiến bộ của ý thức đạo đức là cái không thể thiếu được trong sự tiến bộ chung
của xã hội.
Quan hệ đạo đức là một dạng quan hệ xã hội, là yếu tố tạo nên tính hiện
thực trong bản chất của con người, đó là hệ thống những quan hệ xác định
giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội về mặt đạo đức, hay nói
cách khác, “quan hệ đạo đức tiềm ẩn trong quan hệ xã hội”. Khi đề cập đến
bản chất của con người, C. Mác cho rằng: “Trong tính hiện thực của nó, bản
chất của con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Đúng vậy, mỗi con
người từ khi sinh ra cho đến khi lớn lên luôn sống và hoạt động trong các mối

7


quan hệ xã hội khác nhau. Trong những mối quan hệ đó, có những mối quan
hệ chỉ nhằm phục vụ cho công việc trước mắt nhưng cũng có những mối quan
hệ xã hội gắn liền với mỗi người trong suốt cả cuộc đời. Và có thể nói, một
trong những yếu tố để làm nên sợi dây gắn bó bền chặt giữa các mối quan hệ
đó chính là nền tảng đạo đức, giá trị luân lý tốt đẹp luôn được đề cao trong xã
hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của giá trị đạo đức trong việc làm nên
sợi dây gắn kết bền chặt của các mối quan hệ xã hội, nên trong xã hội hiện
nay, chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều các thuật ngữ đạo đức khác nhau được
gắn liền với từng ngành nghề, công việc và đối tượng đạo đức hướng đến như:
đạo đức kinh doanh; đạo đức trong nhà trường; đạo đức nhà báo, đạo đức y
bác sỹ…. và một trong số đó có đạo đức cách mạng mà đối tượng
hướng đến của luận văn này là đội ngũ cán bộ, đảng viên – một trong những
bộ phận đóng vai trò quyết định trong việc lãnh đạo và phát triển đất nước.
Nói đến đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta được đặt trong các mối quan hệ
xác định: Cán bộ, đảng viên với đường lối, chính sách, nhiệm vụ chính trị; cán

bộ, đảng viên với tổ chức, bộ máy; cán bộ, đảng viên với phong trào cách
mạng của quần chúng. Trong các mối quan hệ đó, mối quan hệ giữa cán bộ,
đảng viên với nhân dân mà lâu nay chúng ta vẫn gọi là quan hệ cán bộ, đảng
viên với quần chúng nhân dân trước hết là một quan hệ xã hội.
Đạo đức cách mạng hay còn được gọi là đạo đức mới, đạo đức cộng sản
là một khái niệm dùng để phân biệt với đạo đức thủ cựu, nó đối lập hoàn toàn
với đạo đức của giai cấp tư sản và các giai cấp bóc lột khác. Đạo đức cách
mạng mang bản chất của giai cấp công nhân, là vũ khí tinh thần mạnh mẽ để
giai cấp công nhân, những người cộng sản chân chính đứng lên đấu tranh vì

8


một lý tưởng cao đẹp là đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho con người,
cho mọi người.
Đạo đức cách mạng mà cán bộ, đảng viên phải tu dưỡng, rèn luyện là
những chuẩn mực giá trị và hệ thống các quy tắc ứng xử xã hội của những
người cách mạng, được xây dựng trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta, có sự kế thừa và phát triển
những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong quá trình phát
triển, phản ánh những quan hệ xã hội mẫu mực, thuộc về bản chất của xã hội
mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Đạo đức cách mạng là bộ phận tiên tiến, tiêu
biểu nhất của những giá trị đạo đức xã hội xã hội chủ nghĩa mà toàn Đảng,
toàn dân ta đang nỗ lực phấn đấu xây dựng. Nội hàm của khái niệm đạo đức
cách mạng phản ánh những thuộc tính bản chất của đạo đức xã hội chủ nghĩa,
nhưng không bao quát hết nội dung của đạo đức xã hội chủ nghĩa.
1.1.2 Khái quát những nội dung chủ yếu của đạo đức cách mạng
1.1.2.1 Quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen và V. I. Lênin
Trong một số tác phẩm của mình, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định,
để lật đổ giai cấp tư sản và xã hội tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản thì giai

cấp vô sản nhất thiết phải thành lập chính đảng của mình. Hiện thực hóa quan
điểm này, “Liên đoàn những người cộng sản” - chính đảng cách mạng đầu
tiên trên thế giới của giai cấp vô sản đã được thành lập, cùng với đó, hai ông
cũng đưa ra những quan điểm cơ bản đối với đạo đức của người cộng sản.
Một câu hỏi lớn được C. Mác và Ph. Ăngghen quan tâm là: Ai có thể là
đảng viên của Đảng? Trong Điều 2, Chương 1 Điều lệ của Liên đoàn những
người cộng sản, C. Mác viết:
“ Điều kiện làm hội viên là:

9


a, Lối sống và hoạt động phù hợp với mục đích âý (tức mục đích của
Liên đoàn - TG);
b, Nghị lực cách mạng và lòng nhiệt thành trong công tác tuyên truyền;
c, Thừa nhận chủ nghĩa cộng sản;
d, Không tham gia vào mọi tổ chức – tổ chức chính trị hoặc tổ chức dân
tộc – chống cộng sản, và có nghĩa vụ báo cáo với cơ quan lãnh đạo hữu quan
về việc mình tham gia vào một tổ chức đó;
e, Phục tùng các nghị quyết của Liên đoàn;
f, Giữ bí mật mọi công việc của Liên Đoàn;
g, Được một chi bộ nhất trí kết nạp.
Ai không còn đủ những điều kiện ấy sẽ bị khai trừ”[37, tr. 732-733].
Đó là những đòi hỏi nghiêm ngặt đối với người đảng viên về phẩm chất
chính trị đạo đức, lối sống, năng lực hoạt động thực tiễn, ý thức tổ chức kỷ
luật trong điều kiện Đảng hoạt động bí mật, đấu tranh lãnh đạo giành chính
quyền.
Qua thực tiễn cách mạng, C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp tục phát triển,
hoàn thiện và khái quát những nội dung cơ bản về hình mẫu, tiêu chuẩn người
cộng sản đó là: sự sáng suốt về trí tuệ, sự kiên định lý tưởng cộng sản, phẩm

chất đạo đức, sự tận tụy với mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, vai trò tiên phong
gương mẫu trong mọi hành động… Theo hai ông, những người cộng sản “là
những đầu óc tích cực nhất, sáng suốt nhất và cương quyết nhất… Đó là
những nhân vật vô cùng chung thực, chân thực, thông minh, tận tụy trong
sạch và cuồng tín, hiểu theo nghĩa tốt nhất của chữ đó” [38, tr. 481]. Đó là
những người “dù cuộc đấu tranh giai cấp biểu hiện ra ở đâu và trong điều kiện
nào, dù cuộc đấu tranh đó mang hình thức nào, đương nhiên là các hội viên
của Hội Liên hiệp chúng ta cũng đều đứng ở hàng đầu” [38, tr. 481].

10


Tiếp tục kế thừa, phát triển và hoàn thiện quan điểm của chủ nghĩa Mác trên
cả ba bộ phận triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa cộng sản khoa học, Lê-nin
đã đưa ra lý luận về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản; lý luận về
bước chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới thành cách mạng xã hội chủ
nghĩa; lý luận về nhà nước chuyên chính vô sản; lý luận về vai trò vĩ đại của
quần chúng nhân dân mà nòng cốt là liên minh công - nông do Đảng Cộng sản
lãnh đạo; cương lĩnh về vấn đề dân tộc. Đặc biệt, trong tư tưởng và đạo đức của
Lê-nin, Người luôn nhấn mạnh đến phẩm chất cách mạng và sự giác ngộ về lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa của người cán bộ, đảng viên. Người khẳng định: “Chỉ
có những người chân thành đi theo chủ nghĩa cộng sản, chỉ những ai thành tâm
trung thành với nhà nước công nhân, chỉ có những người lao động trung thực,
chỉ có những đại biểu thật sự của quần chúng bị áp bức dưới thời chủ nghĩa tư
bản, mới vào Đảng được” [32, tr. 256]; “chỉ có Đảng Cộng sản, nếu nó thực sự là
đội tiên phong của giai cấp cách mạng, nếu nó bao gồm những đại biểu ưu tú
nhất của giai cấp đó, nếu nó gồm tất cả những chiến sĩ cộng sản hoàn toàn có ý
thức và trung thành, có học vấn và được tôi luyện bằng kinh nghiệm đấu tranh
cách mạng bền bỉ, nếu nó biết gắn liền với toàn bộ cuộc sống của giai cấp mình
và thông qua giai cấp đó, gắn liền với tất cả quần chúng bị bóc lột, và biết làm

cho giai cấp và quần chúng đó tin tưởng hoàn toàn vào mình, - chỉ có một đảng
như vậy mới có thể lãnh đạo được giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh cuối
cùng, kiên cường nhất, thẳng tay nhất chống lại tất cả mọi thế lực của chủ nghĩa
tư bản” [33, tr. 227].

Từ luận điểm trên, Lênin cho rằng, tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ,
đảng viên đảng cộng sản trong điều kiện đảng cầm quyền thể hiện ở những
nội dung sau:
Trước tiên, cán bộ, đảng viên cộng sản phải là người giác ngộ lý tưởng
cộng sản chủ nghĩa. Điều đó thể hiện ở sự tự nguyện, nhiệt thành đi theo chủ
nghĩa cộng sản, trung thành tuyệt đối với hệ tư tưởng của giai cấp công nhân,
11


với sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Sự giác
ngộ, lòng trung thành ấy phải được thể hiện bằng sự nhất trí, tin tưởng, gương
mẫu chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, không đòi hỏi lợi lộc, sẵn sàng gánh vác những công
việc vất vả hơn, nguy hiểm hơn.
Thứ hai, người cán bộ, đảng viên cộng sản phải có trình độ văn hóa, lý
luận, chuyên môn nghiệp vụ và năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao.
V.I. Lênin dạy rằng: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi
biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức
mà nhân loại đã tạo ra” [33, tr. 362]. Vì vậy, đảng viên cộng sản phải ra sức
học tập, học ở trong thực tiễn, học nhân dân, học chuyên gia tư sản… nhằm
nâng cao trình độ văn hóa, lý luận, chuyên môn nghiệp vụ và rèn luyện năng
lực tổ chức thực tiễn.
Thứ ba, người cán bộ, đảng viên cộng sản phải có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
V.I. Lênin đòi hỏi rất nghiêm khắc đối với đảng viên cộng sản về ý thức


tổ chức, tính kỷ luật. Người phê phán kịch liệt thói quen dẫn đến vi phạm kỷ
luật đảng như: tính tự do tiểu tư sản, tính tản mạn, vô kỷ luật, chia rẽ bè
phái… Đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những nước
giai cấp vô sản chiếm thiểu số trong dân cư thì “chính đảng của giai cấp vô
sản phải thực hiện được trong nội bộ của mình, một chế độ tập trung chặt chẽ
và một kỷ luật nghiêm ngặt” [33, tr. 34].
Thứ tư, người cán bộ, đảng viên cộng sản phải gắn bó mật thiết với quần
chúng, giáo dục tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối, chính
sách của Đảng, là tấm gương mẫu mực của cho quần chúng noi theo.
V.I Lênin viết: “Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ không phải là việc
riêng của đảng cộng sản… mà là việc của tất cả quần chúng lao động” [34, tr.
110-111]. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết giữa đảng với nhân

12


dân. Vì thế, “chỉ trông vào bàn tay của những người cộng sản để xây dựng xã
hội cộng sản, đó là một tư tưởng hết sức ngây thơ. Những người cộng sản chỉ
là một giọt nước trong đại dương, một giọt nước trong đại dương nhân dân”
[33, tr. 117]. Song, họ có thể lãnh đạo nhân dân đi theo con đường của mình
nhờ vạch ra được và gương mẫu thực hiện đường lối, chính sách đúng đắn,
gắn bó mật thiết với quần chính, tuyên truyền, giáo dục cho quần chúng hiểu
và tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách ấy.
Thứ năm, người cán bộ, đảng viên cộng sản phải tiên tiến hơn quần chúng
và khác về chất so với đảng viên của các đảng khác, các phần tử cơ hội.

Theo Lênin, sự giác ngộ về lý tưởng cộng sản, lòng trung thành tuyệt đối
với chủ nghĩa Mác và sự nghiệp của giai cấp vô sản là thước đo quan trọng
nhất phân biệt người cán bộ, đảng viên cộng sản với quần chúng. Trong mọi
hoàn cảnh, người cán bộ, đảng viên cộng sản luôn luôn thể hiện là người lãnh

đạo, người đi tiên phong trong phong trào cách mạng của quần chúng, gánh
vác những nhiệm vụ nặng nề, khó khăn, phức tạp. Điều đó đòi hỏi người cộng
sản phải là người tiêu biểu về trí tuệ, tiên phong trong mọi hành động và mẫu
mực trong phẩm chất đạo đức. Nếu không như vậy họ chỉ mang danh cộng
sản, thậm chí, họ là những người cộng sản tồi và một tá người cộng sản tồi chỉ
bằng một người buôn bán mà thôi.
Như vậy, trong điều kiện cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống
giai cấp tư sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội. C.Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin
đã nhấn mạnh những đặc trưng cơ bản của người cán bộ, đảng viên cộng sản.
Những chỉ dẫn của các ông đã đặt nền móng cơ bản cho việc xác định nội
hàm của khái niệm đạo đức cộng sản chân chính.
1.2.2.2 Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Kế thừa, vận dụng những quan điểm của các nhà Mácxit và truyền thống
quý báu của dân tộc Việt Nam cũng như trên hành trình tìm đường cứu nước

13


và lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi lại độc lập, tự do cho dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh là tấm gương sáng của một người cán bộ, đảng viên cộng sản chân chính.

Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành mối quan tâm lớn đến vấn đề
đạo đức cách mạng và giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên. Người luôn khẳng định: để làm người cán bộ, đảng viên
tốt, được nhân dân yêu mến thì không phải cứ viết lên trên chán hai chữ cộng
sản là xong mà phải là người cán bộ, đảng viên có tài và có đức. Tài và đức là
hai yếu tố mà người cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập, tu dưỡng,
rèn luyện để có được và trong mối quan hệ giữa tài và đức thì Người luôn
nhấn mạnh đức là gốc của người cách mạng.
Về đạo đức đối với người cán bộ, đảng viên, Người không quan niệm

một cách chung chung, trừu tượng mà khẳng định đó chính là đạo đức cách
mạng. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người đã đề cập đến những nội
dung rất sâu sắc về đạo đức cách mạng và giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên. Về đạo đức cách mạng, Người viết: “Người đảng
viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính không có gì
là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng,
vì Tổ Quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí
công vô tư thì khuyết điểm sẽ ngày càng ít, mà những tính tốt như sau ngày
càng nhiều. Nói tóm tắt, tính tốt ấy gồm có năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng,
liêm”. Theo Người, Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí,
đồng bào... sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau
thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ uy
quyền. Nhưng người đã không ham, không sợ gì thì việc gì họ đều làm được.
Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì
phải giấu đoàn thể. Ngoài lợi ích của đoàn thể, không có lợi ích riêng phải lo
toan. Trí là không có việc gì tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong

14


sạch sáng suốt; dễ hiểu lý; dễ tìm phương hướng; biết xem người, biết xét
việc. Vì vậy mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho đoàn thể. Dũng là
dũng cảm, gan góc, gặp việc gì phải có gan làm, thấy khuyết điểm phải có gan
sửa chữa, cực khổ khó khăn có gan chịu đựng. Có gan chống lại những sự
vinh hoa, phú quý không chính đáng. Nếu cần thì có gan hy sinh cả tính mệnh
cho đoàn thể: cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè nhút nhát. Liêm là không
tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người
tâng bốc mình. Vì vậy, mà quang minh chính đại. Chỉ có một cái ham là ham
học, ham làm và ham tiến bộ. Sau khi giải thích rõ nội dung của nhân, nghĩa,
trí, dũng, liêm, Người kết luận: “Đó là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó không

phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì
danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài
người ”[39, tr. 251].
Ngoài ra, trong nhiều tác phẩm của mình, khi đề cập đến đạo đức cách
mạng của người cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đã khẳng định: ”Đạo đức
cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, quyết tâm suốt
đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Đặt lợi ích
của Đảng và nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân
mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên
mình, gương mẫu trong mọi việc” [25, tr. 194]. Như vậy, đạo đức cách mạng
đối với người cán bộ, đảng viên theo tư tưởng của Người là “ra sức phấn đấu
để thực hiện mục tiêu của Đảng, hết sức trung thành phục vụ giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, tuyệt đối không thể lưng chừng” [47, tr. 605]; là
“vô luận lúc nào, vô luận việc gì, cán bộ, đảng viên … phải đặt lợi ích của
Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau” [43, tr. 290 - 291]. Đạo đức cách
mạng, theo Người là “xem thường danh vị, ngôi thứ và tiền bạc” [41, tr. 514],
là “không màng phú quý, giàu sang hay bất kỳ lợi ích cá nhân nào” [41, tr.

15


497], là “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, quyết tâm tẩy bỏ cho kỳ hết
bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí” [44, tr. 35], là “khiêm tốn, khoan hòa, lượng
thứ, can đảm khi sa cơ, bình tĩnh khi thắng thế” [41, tr. 514], … Với những
yêu cầu về mặt đạo đức như trên, người cán bộ, đảng viên chân chính không
phải là người quá đặc biệt, xa lạ với nhân dân, mà chính là “người con hiếu
thảo của Tổ quốc, của giai cấp, người cán bộ tốt của nhân dân”.
Người cũng cho rằng, người cán bộ, đảng viên muốn thực hành đạo đức
cách mạng phải là người kiên quyết đấu tranh quét sạch chủ nghĩa cá nhân,
bởi vì nó rất nguy hiểm đối với Đảng và cách mạng, nó như “vi trùng đẻ ra

nhiều bệnh khác: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí...
Nó trói buộc, bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì
cũng xuất phát từ lòng tham muốn, danh lợi, địa vị cá nhân mình, chứ không
nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân” [25, tr. 205], và “nếu nó còn lại
trong mình, dù là ít thôi, thì nó sẽ chờ dịp để phát triển, để che lấp đạo đức
cách mạng, để ngăn trở ta một lòng một dạ đấu tranh cho sự nghiệp cách
mạng” [47, tr. 602]. Đây là một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, đòi hỏi
người cán bộ, đảng viên phải có bản lĩnh, có ý chí và lòng kiên trì, bởi vì “tư
tưởng cá nhân thì cũng giống như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ” [48, tr. 222].
Có thể nói, tìm hiểu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng và giáo dục đạo đức cách mạng đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên chúng
ta tìm thấy ở Người một bài học lớn, tấm gương sáng trong việc nói và thực
hành đạo đức cách mạng. Những nội dung đạo đức cách mạng trong tư tưởng
của Người rất dễ hiểu, sát thực và có giá trị sâu sắc cho đến ngày hôm nay, khi
mà trong Đảng, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đang xuất hiện những căn
bệnh mà Người đã đề cập từ rất lâu.
1.1.2.3 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt nam

16


Kế thừa, phát triển và cụ thể hóa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và giáo dục đạo đức cách mạng
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đảng và Nhà nước ta luôn đặt ra yêu cầu về
xây dựng đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Những tiêu chuẩn, nội hàm về đạo
đức cách mạng được Đảng ta cụ thể hóa và thể hiện rõ trong các văn kiện Đại
hội của Đảng.
Ngay từ những ngày đầu của sự nghiệp đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ VI
(1986) đã nêu vấn đề “nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân,
xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”

[12, tr. 126]. Đảng ta yêu cầu cán bộ, đảng viên phải hành động “vì lợi ích
cách mạng, chứ không vì địa vị, tư lợi” [12, tr. 126]. Cán bộ, đảng viên phải là
người trung thực, không giả dối, nói ít làm nhiều, lời nói đi đôi với việc làm,
nhìn thẳng vào sự thật, không giấu giếm khuyết điểm và phẩm chất ấy phải
được thường xuyên rèn luyện.
Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) của Đảng tiếp tục khẳng định những
quan điểm trên, theo đó: “Đảng viên phải có phẩm chất chính trị vững vàng,
tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng, có thái độ tích cực
đối với công cuộc đổi mới” [13, tr. 23]. Tại Hội nghị Trung ương lẫn thứ ba
(khóa VII) bàn về “một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”; Đảng ta đã
cụ thể hóa về những phẩm chất đạo đức cần có của người cán bộ, đảng viên
chân chính là “người có giác ngộ chính trị, trung thành với mục tiêu, lý tưởng
xã hội chủ nghĩa, đặt lợi ích của Tổ quốc và nhân dân lên trên lợi ích cá nhân,
có đạo đức và lối sống lành mạnh, gắn bó với quần chúng, gương mẫu và
phấn đấu trở thành người sản xuất, công tác và quản lý giỏi, hoàn thành nhiệm
vụ được giao, chấp hành đúng Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước;
thường xuyên học tập nâng cao trình độ nhận thức và năng lực công

17


tác, có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng” [14,
tr. 200].
Mười năm đổi mới (1986-1996), trong điều kiện kinh tế thị trường và
từng bước chủ động hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế, Đảng ta đã nhận
thức đầy đủ hơn về vị trí, vai trò của đạo đức cách mạng đối với cán bộ, đảng
viên. Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với điều kiện
mới, Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) chỉ rõ: “Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, các nhà doanh nghiệp và các chuyên gia,
trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị, coi trọng cả đức

và tài, đức là gốc” [16, tr.145-146]. Đại hội IX và X của Đảng đều khẳng định
tầm quan trọng của việc không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ
kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên.
Đến Đại hội XI của Đảng, những tiêu chuẩn về đạo đức cách mạng đối
với người cán bộ, đảng viên tiếp tục được Đảng ta khẳng định, bổ sung, hoàn
thiện phù hợp với yêu cầu đặt ra trong thời kỳ mới. Đảng ta đã cụ thể hóa đạo
đức cách mạng thành các nội dung bao gồm: trung thành với lý tưởng cách
mạng; trung thành với quyền lợi của Tổ Quốc, giai cấp và nhân dân lao động;
đặt lợi ích của Đảng lên trên lợi ích của cá nhân; lao động gương mẫu, sáng
tạo, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc; hăng say lao động và lao động sáng tạo; thường xuyên nỗ lực học
tập, cầu tiến bộ; có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, giữ gìn đoàn kết thống nhất
trong Đảng; luôn trau dồi chủ nghĩa tập thể, chống chủ nghĩa cá nhân; trung
thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân;…
Những chuẩn mực đạo đức cách mạng đối với cán bộ, đảng viên trên đây
được hình thành và phát triển trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư

18


tưởng Hồ Chí Minh; thực tiễn phong trào cách mạng của nhân dân ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng và những tinh hoa giá trị đạo đức của nhân loại. Tuy nhiên,
trong quá trình giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên
hiện nay, các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và bản thân mỗi cán bộ, đảng viên
cần tiếp tục nghiên cứu để xây dựng chương trình, nội dung giáo dục, rèn luyện
sao cho phù hợp với thực tế ở cơ quan, đơn vị, đối với mỗi cán bộ, đảng viên và
đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra của đất nước trong tình hình mới.


1.2 Tầm quan trọng của việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay
Vai trò của giáo dục, trong đó có giáo dục đạo đức đối với sự phát triển của
xã hội loài người nói chung và trong việc hoàn thiện nhân cách của con người
nói riêng đã được các quốc gia trên thế giới thừa nhận. Vì vậy, hiện nay việc
quan tâm đến giáo dục đều được các quốc gia xem là quốc sách hàng đầu.

Ngay từ rất sớm, trong quan niệm của các nhà triết học, nhà Nho giáo,
vai trò của giáo dục đã được khẳng định: Nếu như Mạnh Tử coi tính cách của
con người là tiên thiên, con người sinh ra vốn tính thiện “nhân chi sơ, tính bản
thiện” hay Tuân Tử thì ngược lại, “nhân chi sơ, tính bản ác”, thì cả Mạnh Tử
và Tuân Tử đều thống nhất ở một điểm chung là dù bản tính của con người
sinh ra là tốt hay xấu thì đều cần đến vai trò của giáo dục đạo đức và chỉ có
giáo dục đạo đức mới giúp con người hoàn thiện được nhân cách “người” của
mình. Sau này, khi nói đến vai trò của giáo dục đối với việc hình thành nhân
cách của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra cách nhìn khoa học và
toàn diện. Trong Nhật ký trong tù, Người viết: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn,
phần nhiều do giáo dục mà nên”. Các nhà giáo dục Việt Nam đánh giá cao
quan niệm đặc sắc này của Hồ Chí Minh. Theo Người, thiện và ác ở mỗi con
người đâu có phải do bẩm sinh mà là kết quả của giáo dục. Con người khi
sinh ra chưa hình thành rõ nét tính cách, thông qua quá trình giáo dục, xã hội

19


×