Tải bản đầy đủ (.doc) (139 trang)

Doanh nghiệp nông nghiệp trên địa bàn huyện Chư Sê tỉnh Gia Lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (651.05 KB, 139 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chư Sê là huyện miền núi của tỉnh Gia Lai có tổng diện tích đất tự
nhiên 64.296 ha, trong đó đất nông nghiệp 34.467 ha, chiếm 53,6%, đất chưa
sử dụng 8.160 ha, chiếm 12,6%, với trên 80% số lao động là nông dân, trong
đó hơn 85% là người dân tộc thiểu số.
Trong những năm gần đây, dưới tác động của công cuộc đổi mới,
trong kinh tế nông nghiệp, ngoài các hình thức tổ chức sản xuất vốn có như
hộ gia đình, hợp tác xã và trang trại, trên địa bàn huyện Chư Sê còn xuất hiện
hình thức doanh nghiệp (DN) sản xuất nông nghiệp. Hiện toàn huyện đã có 12
DN nông nghiệp, trong đó có 4 DN nhà nước, 5 DN tư nhân và 3 DN cổ phần.
Hiện nay, các DN nhà nước đang tiến hành cổ phần hóa, để trở thành Công ty
trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên. Đây là các DN nông nghiệp có quy mô đất
đai tương đối lớn, được trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật khá tốt, có hướng
chuyên môn hóa rõ và áp dụng phương pháp công nghiệp. Có điều kiện kết
hợp với công nghiệp chế biến và các hoạt động dịch vụ. Các DN nông nghiệp
trên địa bàn đã sử dụng 19.900 ha đất sản xuất và thu hút 3.517 lao động.
Việc phát triển các DN nông nghiệp trên địa bàn trong thời gian qua
đã đưa lại những kết quả kinh tế - xã hội quan trọng. Các DN nông nghiệp đã
và đang là động lực cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Sự phát
triển các DN đã tạo ra những tiền đề cần thiết để sử dụng hợp lí các điều kiện
tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa phương, tạo điều kiện để đưa vào khai thác
và sử dụng các nguồn lực cho nông nghiệp. Hoạt động sản xuất nông nghiệp
ngày càng dựa nhiều hơn vào việc ứng dụng khoa học và công nghệ mới để
có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao hơn. Nông nghiệp được phát triển
gắn với quá trình đa dạng hóa hình thức tổ chức sản xuất, đa dạng hóa cây
trồng, vật nuôi, phát triển nghề rừng, tạo thêm việc làm và thu nhập cho bà
1
con nông dân. Các DN nông nghiệp còn tạo ra môi trường để thực hiện việc
liên kết 4 nhà (nhà nước, nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học) cho phát
triển nông nghiệp. Tạo thuận lợi hơn để thu hút đầu tư của các DN, các thành


phần kinh tế để phát triển các ngành nghề, phát triển công nghiệp chế biến và
dịch vụ, góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp theo chiều
sâu và xây dựng nông thôn mới, hoạt động của các DN nông nghiệp ở huyện
Chư Sê còn tồn tại không ít nhưng hạn chế, bất cập. Nổi lên là, các DN nông
nghiệp nhà nước vẫn chưa được đổi mới là mấy; hiện đang chuyển đổi mô
hình tổ chức vẫn còn rất nhiều khó khăn, đa số công nhân là đồng bào dân tộc
thiểu số không có vốn đầu tư thêm khi nhận khoán, không có khả năng mua
cổ phần, trong lúc đất để sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, việc làm
ở nông thôn ngày càng khó khăn. Các DN tư nhân và DN cổ phần sản xuất
phân tán, nhỏ lẻ, thiếu qui hoạch gắn kết với hoạt động kinh tế - xã hội của
địa phương, còn mang tính tự phát; đời sống và thu nhập của người lao động
trong doanh nghiệp không ổn định, mang tính thời vụ. Việc SX hàng hóa chỉ
mới là sơ chế, bán nguyên liệu thô là chủ yếu nên thu được mức lợi nhuận rất
thấp, sản phẩm thiếu tính cạnh tranh. Nông sản chế biến là một trong những
sản phẩm mũi nhọn của Chư Sê, nhưng sức cạnh tranh vẫn còn thấp và chưa
phát huy được lợi thế, cũng như chưa đổi mới cách thức sản xuất. Chư Sê
đang đứng trước mâu thuẫn giữa năng lực và hiệu quả kinh doanh nông
nghiệp còn thấp, chưa tương xứng với nhiều tiềm năng và lợi thế về tự nhiên
trên địa bàn.
Để góp phần làm rõ thực trạng của các DN nông nghiệp, đề xuất
phương hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển đúng hướng, có hiệu quả, là
một cán bộ có nhiều năm làm công tác tổ chức, quản lý trên địa bàn, tôi lựa
chọn đề tài: "Doanh nghiệp nông nghiệp trên địa bàn huyện Chư Sê tỉnh
Gia Lai" để nghiên cứu làm luận văn Cao học chuyên ngành Kinh tế chính
trị.
2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phát triển DN nông nghiệp là một giải pháp quan trọng nhằm tìm
kiếm những hình thức tổ chức sản xuất tiên tiến, tích cực, phù hợp để người

nông dân tham gia tự giác, có hiệu quả, sớm thoát khỏi tình trạng sản xuất
nhỏ lẻ, tự phát từ nhiều năm nay. Nó đã được một số nhà khoa học và hoạch
định chính sách ở nước ta quan tâm nghiên cứu. Dưới đây là những công trình
tiêu biểu đã được công bố về vấn đề này.
- Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Việt Nam, của Ban tư tưởng văn hóa Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, NXB Chính trị quốc gia phát hành năm 2002;
- Nông nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, do TS Nguyễn Từ chủ
biên, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, 2002;
- Những biện pháp thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long, do Phạm Ngọc Thạch chủ
biên, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội ấn hành năm 2002;
- Một số vấn đề về phát triển nông nghiệp và nông thôn, của TS Đặng
Kim Sơn, Hoàng Thu Hòa, NXB Thống kê, Hà Nội 2002;
- CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam, con đường và bước
đi, Đề tài KX-02-07 do GS,TS Nguyễn Kế Tuấn, trường Đại học Kinh tế quốc
dân làm chủ nhiệm, năm 2007;
- Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới, do PGS.TS
Nguyễn Sinh Cúc chủ biên, NXB Thống kê, Hà Nội, 2003.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Gia Lai,
Đề tài luận văn Cao học chuyên ngành Kinh tế chính trị của Hoàng Nguyễn
Trí Dương bảo vệ tại Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội, 2003.
3
Các đề tài này đã hướng nghiên cứu vào con đường công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; đánh giá kết quả thực hiện chính sách
phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước; đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế nông nghiệp, nông thôn; giải quyết vấn đề nông nghiệp Việt
Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế; và có công trình nghiên cứu về
phát triển nông nghiệp tại một số vùng trọng điểm hay tại một tỉnh, thành phố

trong nước. Đây là những tài liệu không trực tiếp nghiên cứu vấn đề DN
SXNN, nhưng rất bổ ích cho nghiên cứu vấn đề phát triển DN nông nghiệp
của đề tài.
Ngoài ra, trên một số diễn đàn còn có những bài viết về DN nông
nghiệp. Chẳng hạn, trên các trang webstile như Phát triển doanh nghiệp nông
nghiệp công nghệ cao, , 15/03/2010; Doanh nghiệp nhà
nước ngành nông nghiệp gặp khó, của Hồng Ngọc,
(Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online), 17/3/2010;
Ươm tạo doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao, của Hải Anh,
(Thế giới vi tính), 9/4/2010; Chỉ 14% doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp - nông thôn, của Quang Thiện,
20/08/2008; Quyết sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa,
06/05/2010; Mô hình liên kết giữa nông dân và
doanh nghiệp, (Diễn đàn dành cho doanh nhân),
4/05/2010; Doanh nghiệp nông nghiệp trước thềm hội nhập WTO, của Đinh
Thị Kim Phượng, (Viện chính sách và chiến lược
phát triển NN, NT), 10/11/2006 v.v…
Các bài viết này đã hướng nghiên cứu vào phát triển các DN nông
nghiệp như hỗ trợ DN, chỉ báo những thách thức mà các DN nông nghiệp
phải đối mặt khi Việt Nam gia nhập WTO, giải pháp thúc đẩy phát triển
DN… Tuy nhiên, đây vẫn chưa phải là những công trình nghiên cứu một cách
có hệ thống về phát triển các DN nông nghiệp ở nước ta nói chung và ở huyện
Chư Sê tỉnh Gia Lai nói riêng. Bởi vậy, việc lựa chọn đề tài để nghiên cứu
4
của học viên là không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố. Đây
là một đề tài mới, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách không chỉ đối với
phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện Chư Sê, mà còn đối với các
huyện, tỉnh trong cả nước trước yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu:
Xác định cơ sở lý luận để phân tích, đánh giá thực tiễn hoạt động của
các DN nông nghiệp trên địa bàn huyện Chư Sê thuộc tỉnh Gia Lai trong thời
gian gần đây để hoàn thiện việc hoạch định chính sách phát triển mạnh mẽ và
có hiệu quả nhằm phát huy vai trò của chúng trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa lý luận, thực tiễn về DN nông nghiệp trong điều kiện
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nêu, phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động các DN nông
nghiệp trên địa bàn huyện Chư Sê tỉnh Gia Lai. Trên cơ sở đó, đề xuất
phương hướng và giải pháp nhằm phát triển bền vững loại DN này đáp ứng
yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trên
địa bàn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Các DN được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp bao gồm
DN nhà nước, DN tư nhân, công ty cổ phần hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp (cà phê,
cao su, hồ tiêu).
5
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Các DN nông nghiệp được thành lập trên địa bàn
huyện Chư Sê thuộc tỉnh Gia Lai.
- Về thời gian: từ năm 2005 đến nay và hướng phát triển đến năm
2015, tầm nhìn đến năm 2020.
6
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:

Đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng
cộng sản Việt Nam. Đồng thời, tiếp cận đối tượng nghiên cứu trên quan điểm
kinh tế thị trường được xây dựng bởi tinh hoa trí tuệ của nhân loại trong kinh
tế học hiện đại.
5.2. Cơ sở thực tiễn:
Đề tài dựa trên thực tiễn phát triển các DN nông nghiệp trên địa bàn
huyện Chư Sê để nghiên cứu; đồng thời có nghiên cứu thực tiễn kinh nghiệm
của một địa phương có hoàn cảnh tương đồng ở trong và ngoài nước về phát
triển loại hình DN này trên các thông tin thu nhận được để huyện Chư Sê có
thể tham khảo.
Đề tài có kế thừa kết quả của các công trình nghiên cứu đã được công
bố có liên quan đến chủ đề phát triển các DN nông nghiệp của các địa phương
trong nước, các ý tưởng có tính khả thi, phù hợp với thực tiễn của huyện Chư
Sê tỉnh Gia Lai.
5.3. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế
chính trị Mác - Lênin, của kinh tế học về nền kinh tế thị trường, trong đó coi
trọng sử dụng các phương pháp: khảo sát thực tiễn, báo cáo chuyên đề của các
địa phương, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý có liên quan; phương pháp
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ và cung cấp những căn cứ khoa học về phát triển
DN nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
7
- Đề xuất các giải pháp có tính khả thi góp phần vào việc hoàn thiện
chính sách cho phát triển các DN nông nghiệp trên địa bàn huyện Chư Sê đáp
ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức ở nước ta trong những năm tới.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DOANH NGHIỆP
NÔNG NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. DOANH NGHIỆP NÔNG NGHIỆP
Phát triển nông nghiệp, nông thôn trong điều kiện của nền kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải có một lực lượng doanh nghiệp sản
xuất nông nghiệp (DN SXNN) mạnh làm trụ cột. Để có lực lượng đó, một
trong những vấn đề đặt ra là phải tìm được cơ chế và phương thức tổ chức DN
SXNN có hiệu quả.
1.1.1. Khái niệm và tính quy luật hình thành, phát triển doanh
nghiệp nông nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nông nghiệp.
Để hiểu khái niệm DNNN, trước hết cần phải bắt đầu từ cái chung, đó
là khái niệm Doanh nghiệp.
Chúng ta biết rằng, nền kinh tế quốc dân được cấu thành bởi hàng vạn
DN sản xuất ra các hàng hóa và dịch vụ cung ứng cho sản xuất và đời sống
của xã hội. Có những tổ chức kinh doanh quy mô lớn, sử dụng hàng ngàn
công nhân, sản xuất hàng loạt sản phẩm. Nhưng cũng có những tổ chức kinh
tế chỉ là một cửa hàng tạp hóa, quầy bán bánh kẹo qui mô nhỏ, chỉ thuê một
vài lao động do một cá nhân hay hộ gia đình sở hữu. Những tổ chức đó, dù
lớn hay nhỏ, khi tồn tại và hoạt động trong nền kinh tế thị trường, theo luật
DN đều có chung một tên gọi là DN.
DN là một khái niệm được khởi nguồn từ tiếng Pháp "Entreprendre",
có nghĩa là "đảm nhận" hay "hoạt động". Theo nhiều sách báo, DN (Firm) là
tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng
9
ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt

động kinh doanh.
Dưới góc độ kinh tế học, DN là một đơn vị kinh doanh hàng hóa và
dịch vụ theo nhu cầu thị trường và xã hội nhằm đạt lợi nhuận tối đa và hiệu
quả kinh tế cao nhất. DN chính là một chủ thể kinh tế tiến hành các hoạt động
kinh tế theo một kế hoạch nhất định trên thị trường. Trên thực tế, DN được
gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau như cửa hàng, nhà máy, công ty, hãng,
tổng công ty...
Theo định nghĩa của Luật doanh nghiệp ban hành ngày 29 tháng 11
năm 2005 của Việt Nam, DN là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ
sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Kinh doanh là phương thức hoạt động của DN. Đó là việc DN thực
hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ
sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường để thu
lợi nhuận.
Ở nước ta, theo Luật DN, DN có các hình thức: công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, DN tư nhân. Nếu căn cứ vào qui
mô hoạt động để phân loại DN, thì có DN qui mô lớn, DN qui mô vừa và DN
qui mô nhỏ. Ở Việt Nam, theo Điều 3 Nghị định số 90/2001/NÐ-CP của
Chính phủ ngày 23 tháng 11 năm 2001, DN doanh nghiệp nhỏ và vừa được
định nghĩa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo
pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động
trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã
hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp,
chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và
lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên. Những DN có vốn đăng ký kinh
doanh lớn hơn và sử dụng nhiều lao động hơn được gọi là DN lớn. Tuy nhiên,
10
số DN lớn ở Việt Nam còn tương đối ít. Nền kinh tế chủ yếu là DN nhỏ và
vừa. Định nghĩa như trên là để Chính phủ có giải pháp hỗ trợ phát triển cho

các DN nhỏ và vừa.
Nếu căn cứ theo ngành kinh tế - kỹ thuật để phân loại DN, thì có: DN
nông nghiệp, DN công nghiệp và DN dịch vụ. Người ta còn có thể chia nhỏ
mỗi loại DN nêu trên thành các loại DN, ví dụ trong DN sản xuất nông nghiệp
có DN nông nghiệp, DN lâm nghiệp và DN ngư nghiệp theo nghĩa rộng hoặc
chia theo nghĩa hẹp thì có: DN trồng trọt và DN chăn nuôi.
DNNN là một hình thức tổ chức kinh tế cơ sở, tức là một đơn vị hoạt
động kinh doanh và phân phối của nền sản xuất xã hội, dựa trên cơ sở hợp tác
và phân công lao động xã hội, gồm một số người lao động, được đầu tư vốn,
trang bị tư liệu sản xuất để tiến hành hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực phù
hợp với yêu cầu của thị trường, được Nhà nước quản lý và bảo vệ theo luật
định.
DNNN là một hình thức tổ chức cơ sở, tức là tế bào của nền kinh tế
quốc dân. Nó vừa là chiếc cầu nối liền các khoa học, vừa là nơi thực hiện - áp
dụng những thành tựu khoa học về tự nhiên, kinh tế, xã hội và kỹ thuật nông
nghiệp để đạt được các mục tiêu về sản xuất nông sản hàng hóa và dịch vụ
cho xã hội theo yêu cầu của thị trường, đảm bảo kinh doanh có lợi nhuận cao
cho DN và góp phần phát triển tốt môi trường sinh thái cho sự sống.
DNNN là một đơn vị hoạt động kinh doanh và phân phối, tức là nơi
sáng tạo ra của cải vật chất và dịch vụ, đồng thời là nơi phân phối giá trị của
cải và dịch vụ cho các thành viên tương ứng với sự đóng góp sáng tạo ra của
cải và dịch vụ.
Là một đơn vị hoạt động sản xuất, DNNN hướng vào sử dụng các
nguồn lực tự nhiên như đất, nước, khí hậu và vốn, lao động, công nghệ và tư
liệu sản xuất khác được mua vào từ những thị trường khác nhau. DN kết hợp
11
những yếu tố đó để tạo ra các hàng nông sản để bán, tức là biến đổi đầu vào
thành đầu ra, sao cho có giá trị gia tăng, có lợi nhuận.
1.1.1.2. Tính quy luật hình thành và phát triển DN nông nghiệp.
Sự ra đời và phát triển của DN nông nghiệp không phải là sản phẩm

chủ quan duy ý chí của một người hay một tổ chức xã hội nào, mà là kết quả
tất yếu của quá trình phát triển phân công lao động xã hội được tác động
mạnh mẽ bởi các cuộc cách mạng công nghiệp và sự phát triển kinh tế thị
trường ngày càng mang tính quốc tế hóa và hội nhập sâu rộng.
Thật vậy, nông nghiệp là hoạt động sản xuất đầu tiên của con người.
Khi còn thông qua trồng tỉa lương thực và chăn thả gia súc để lấy sản phẩm
sinh sống thì phạm trù ngành sản xuất chưa được lịch sử đặt ra. Mãi đến cuộc
phân công lao động xã hội lần thứ nhất chăn nuôi được tách khỏi trồng trọt,
sự trao đổi giữa các bộ lạc trồng trọt và bộ lạc chăn nuôi còn quá ít ỏi và vẫn
thất thường. Hai ngành trồng trọt và chăn nuôi mà đúng hơn là chăn thả gia
súc đang trong trạng thái mạnh nhất.
Cùng với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, với việc nâng
cao năng suất lao động, sản xuất lương thực và chăn thả gia súc, kinh nghiệm
tích lũy được của mỗi người trong sản xuất, trong việc chế tạo công cụ lao
động, tìm kiếm và chinh phục các cây trồng mới và vật nuôi mới, dần dần các
ngành nghề thủ công ra đời và tách thành các hộ độc lập. Số cây rau, cây ăn
quả và các cây công nghiệp, một số gia súc mới, gia cầm được đưa vào sản
xuất thêm trong các gia đình, bổ sung vào nguồn thức ăn của họ, chuẩn bị cho
cuộc phân công lao động xã hội mới và hình thành các ngành sản xuất khác
nhau trong nông nghiệp.
Chỉ mãi tới cuộc phân công lao động xã hội lần thứ hai, công nghiệp
mới tách khỏi nông nghiệp và sản xuất, mối quan hệ kinh tế giữa hai ngành
này dần dần được hình thành và trở nên phổ biến. Tuy nhiên, qui mô sản xuất
12
và ý nghĩa kinh tế của các ngành đó còn nhỏ bé và mới chỉ giới hạn trong
từng địa phương, từng vùng kinh tế tự nhiên.
Do tác động của hai lần phân công lao động xã hội, hoạt động sản xuất
ngày càng được chuyên môn hóa sâu hơn, có năng suất lao động cao hơn. Sự
gia tăng của năng suất lao động làm xuất hiện sản phẩm thừa. Quan hệ trao
đổi không chỉ được diễn ra giữa ngành nông nghiệp và ngành công nghiệp,

mà còn diễn ra giữa các chủ sản xuất độc lập với nhau không kể đó là chủ của
việc sản xuất loại sản phẩm gì. Nền kinh tế đã có những điều kiện để ra đời và
phát triển sản xuất hàng hóa. Tuy nhiên, đây là giai đoạn đầu, trình độ kinh tế
hàng hóa còn sơ khai. Về sau, các nhà kinh tế gọi đó là nền kinh tế hàng hóa
giản đơn. Cùng với sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hóa là sự xuất hiện
các cơ sở sản xuất chuyên môn hóa và các chủ kinh tế độc lập. Kinh tế hàng
hóa giản đơn đã từng tồn tại trong lịch sử qua nhiều thế kỷ, từ khi ra đời
phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ cho đến giai đoạn cuối của phương
thức sản xuất phong kiến. Nhưng do hoạt động sản xuất vẫn dựa vào công cụ
lao động thủ công với nguồn năng lượng tự nhiên (sức người, sức ngựa, sức
nước, sức gió...), nên năng suất lao động tuy có tăng cao hơn trước, song qui
mô của các cơ sở sản xuất còn nhỏ bé.
Sự phân công lao động đã tạo ra người lao động chuyên môn hóa và
những công cụ lao động chuyên dùng. Đây lại là điều kiện để người lao động
cải tiến và hoàn thiện công cụ lao động của họ. Quá trình này diễn ra liên tục,
nó bắt nguồn từ bản chất tính tích cực của con người. Quá trình này tất yếu
đến một giai đoạn chuyển việc sản xuất dựa vào công cụ lao động thủ công
lên sản xuất bằng máy. Công nghiệp hóa được diễn ra.
Sự phát triển của quá trình công nghiệp hóa vừa đòi hỏi nông nghiệp
phải cung cấp ngày càng nhiều lương thực, thực phẩm, nguyên liệu chế biến
và lao động cho công nghiệp, vừa tạo ra cơ sở hạ tầng, trang bị thêm nhiều cơ
sở vật chất - kỹ thuật cho nông nghiệp phát triển. Chuyên môn hóa sản xuất
13
ngày càng sâu hơn. Hình thức tổ chức sản xuất được thay đổi, từ hiệp tác giản
đơn lên công trường thủ công, rồi phát triển thành đại công nghiệp. Qui mô
sản xuất của các tổ chức sản xuất cũng ngày càng lớn hơn. Nền kinh tế hàng
hóa giản đơn chuyển sang nền kinh tế hàng hóa phát triển (hiện nay được gọi
là nền kinh tế thị trường).
Với sự kích thích của kinh tế hàng hóa và cơ chế thị trường, với sự
tiến bộ của khoa học và công nghệ sản xuất nông nghiệp, các hộ nông dân,

các cơ sở sản xuất nông nghiệp đều hướng chuyển sang sản xuất hàng hóa,
gắn với thị trường, gắn với xã hội. Nhiều vùng kinh tế tự nhiên chuyển dần
sang tập trung sản xuất các cây, con thích nghi với điều kiện sinh thái của
mình và có lợi thế so sánh nhiều hơn so với các vùng khác. Trên thị trường,
hình thành những vùng nông nghiệp với những doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh hàng hóa lớn và chuyên môn hóa cao.
Nhiều vùng sinh thái do có tài nguyên tiềm ẩn và nhờ tác động của
tiến bộ khoa học, kỹ thuật đã bật dậy thành những vùng nông nghiệp chuyên
môn hóa và hàng hóa mới. Đồng thời với quá trình hàng hóa hóa và chuyên
môn hóa các cơ sở sản xuất nông nghiệp, các vùng nông nghiệp, thì các ngành
sản xuất hàng hóa lớn trong nông nghiệp xuất hiện ngày càng nhiều với nhiều
loại nông phẩm hàng hóa cao cấp với qui mô vượt ra khỏi phạm vi từng vùng,
rồi vượt ra khỏi phạm vi một tỉnh, mang tính quốc gia và có loại mang tính
chất quốc tế. Các tổ chức kinh tế trong các ngành ngày càng đông hơn với qui
mô ngày càng lớn hơn, chuyên môn hóa sản xuất sâu hơn.
Gắn liền với quá trình hình thành và phát triển ngày càng phong phú,
đa dạng các ngành kinh tế hàng hóa sinh vật, cây con trong nông nghiệp là
quá trình phát triển các tổ chức kinh doanh đa dạng và ngày càng biến đổi
theo nhu cầu của xã hội, nhu cầu của thị trường và khả năng tăng lên của con
người trong việc chinh phục và sử dụng các tài nguyên sinh vật và sinh thái từ
chỗ dễ đến chỗ khó, từ loại dễ đến loại khó, từ chỗ chỉ biết khai thác sử dụng
14
một cách thực dụng vì mục tiêu kinh tế trước mắt đến chỗ sử dụng một cách
hợp lý và khoa học, gắn hiệu quả trước mắt với hiệu quả lâu dài, gắn lợi ích
kinh tế với bảo vệ môi trường sống và cải tạo môi trường sinh thái.
Thực tế các nước trên thế giới và trong nước ta cho thấy quá trình phát
triển các DNNN luôn phản ánh xu hướng phát triển của phân công lao động
xã hội. Có thể khái quát tính qui luật của quá trình này như sau:
- Từ các DNNN (trồng trọt và chăn nuôi) mở ra các DN lâm
nghiệp và ngư nghiệp, những ngành có giá trị kinh tế cao

nhưng việc sản xuất khó khăn hơn và đòi hỏi một trình độ cơ
sở vật chất - kỹ thuật nhất định và nguồn vốn đầu tư lớn hơn.
Trong tăng trưởng, tốc độ của các DN lâm nghiệp và ngư
nghiệp ngày càng nhanh hơn, còn của nông nghiệp thì ngày
càng chậm hơn; theo đó, tỷ trọng giá trị của các DNNN ngày
càng nhỏ hơn trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp (theo
nghĩa rộng).
- Trong nông nghiệp theo nghĩa hẹp, khi đầu là phát triển DN
trồng trọt phục vụ cho nhu cầu lương thực, thực phẩm ăn uống
hàng ngày của con người. Tiếp đến, trên cơ sở phát triển các
DN trồng trọt trước hết là sản xuất thức ăn gia súc, chăn nuôi
phát triển nhanh hơn, tỷ trọng của nó lớn dần lên và đến mức
lớn hơn tỷ trọng trồng trọt để đáp ứng nhu cầu ăn ngày càng
ngon hơn, đủ dinh dưỡng hơn cho con người và cũng tương
ứng với nhu cầu ngày càng cao của ngành chăn nuôi về kỹ
thuật và vốn đầu tư.
- Trên cơ sở phát triển các DN sản xuất lương thực nhất là từ
khi vượt quá ngưỡng cửa của nhu cầu lương thực, việc phát
triển các DN sản xuất các loại rau, đậu cao cấp, cây ăn quả và
cây công nghiệp được phát triển nhanh và trở thành một lĩnh
15
vực kinh doanh lớn. Trong đó, có nhiều DN phát triển sản
phẩm trở thành hàng xuất khẩu quan trọng. Tỷ trọng của các
DN thuộc các ngành đó không ngừng lớn lên và của ngành sản
xuất lương thực thì giảm tương ứng.
- Gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế, thu nhập và đời
sống của người dân nâng cao, nhu cầu về ăn, ở, vui chơi, giải
trí, du lịch, nghỉ mát của con người ngày càng tăng lên. Do
vậy, các DN chuyên sản xuất các loại cây, con làm nguyên
liệu món ăn, món đặc sản, sản xuất hoa, cây cảnh, chim, thú,

cá cảnh cũng được phát triển nhanh chóng. Các DN này đã có
đóng góp ngày càng nhiều và chiếm tỷ trọng ngày càng tăng
lên trong tổng giá trị sản lượng và thu nhập của nông nghiệp.
Những xu hướng chuyển dịch nêu trên chứng tỏ rằng sự phát triển của
DNNN không phải là một sự ngẫu nhiên, tùy theo ý muốn chủ quan của con
người, mà là một quá trình phát triển hợp qui luật, ngày càng hợp lý, tiến bộ
và văn minh hơn.
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp nông nghiệp
Tuy là một đơn vị tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh trên
thị trường nhằm mục đích thu lợi nhuận, nhưng DNNN có những điểm khác
biệt so với DN công nghiệp và DN dịch vụ. Cụ thể là:
- Ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu của DNNN.
Để hoạt động, mọi DN đều phải sử dụng các nguồn lực đầu vào là các
yếu tố sản xuất gồm sức lao động và tư liệu sản xuất (kinh tế học hiện nay gọi
là lao động, tài nguyên thiên nhiên, tư bản và công nghệ cần thiết cho sản
xuất). Điểm đặc trưng trong hoạt động của DNNN là bộ phận nguồn lực
không thể thiếu được và có vai trò hết sức quan trọng là tài nguyên thiên
nhiên. Trước hết đó là tài nguyên đất và nước cho sản xuất nông nghiệp; tiếp
đến là tài nguyên sinh vật cụ thể (cây, con cụ thể).
16
Với trình độ công nghệ như hiện nay, không có đất thì không thể trồng
cấy hoặc chăn nuôi với qui mô lớn như sản xuất hàng hóa được. Nếu các DN
thuộc các ngành công nghiệp và dịch vụ muốn tiến hành sản xuất chỉ cần một
diện tích đất không nhiều để có mặt bằng hoạt động, thì DNNN phải cần một
diện tích đất tương đối lớn để sản xuất. Tuy một số DN công nghiệp cũng có
nhu cầu rất lớn về diện tích đất để sản xuất, như DN khai thác khoáng sản,
DN khai thác than, DN khai thác cát..., nhưng đó là những nguồn đất có điều
kiện tự nhiên đặc biệt. Nó có thể nằm trong lòng đất. Còn với DNNN, nguồn
đất được đưa vào sản xuất hầu hết là mặt đất, mặt nước. Nó bao gồm những
cánh đồng, cánh rừng, ao hồ, sông suối... Không có đất thì không thể có sản

xuất nông nghiệp. Đất là nguồn lực quan trọng nhất đối với việc sản xuất của
nhà nông.
Tài nguyên sinh vật là những cơ thể sống. Chỉ trong những điều kiện
tự nhiên về đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu thích hợp thì chúng mới phát triển và
cho kết quả. Con người không thể bất chấp các điều kiện sống của sinh vật
trong hoạt động sản xuất. Do sự phân bố ngẫu nhiên nguồn lực tự nhiên cho
các vùng, địa bàn mà việc lựa chọn sản xuất mặt hàng nông nghiệp của các
DN không thể tùy tiện. Ở đây, yếu tố lợi thế về tự nhiên là một điều kiện rất
quan trọng để việc sản xuất có được những sản phẩm đặc trưng như có năng
suất cao hơn, có chất lượng tốt hơn, chi phí sản xuất thấp hơn nhưng giá bán
lại cao hơn so với cùng loại sản phẩm được sản xuất ở các vùng khác. Chẳng
hạn, việc DNNN lựa chọn việc trồng cao su, cà phê, hồ tiêu ở tỉnh Gia Lai nói
riêng, các tỉnh ở Tây Nguyên nói chung là hoàn toàn phù hợp, bởi ở đó có lợi
thế về loại đất bazan rất thích hợp cho sự phát triển của loại cây này, có biên
độ nhiệt ngày và đêm tương đối lớn là điều kiện để cho năng suất và chất
lượng cao hơn so với nếu đưa cây cao su, cà phê, hồ tiêu vào trồng ở các vùng
khác như đồng bằng Bắc Bộ hoặc Nam Bộ.
Điều này cho thấy điều kiện tự nhiên với ý nghĩa là một nguồn lực
"đầu vào" là một yếu tố tạo sức cạnh tranh của DNNN trên thị trường. Nó
17
hoàn toàn khác biệt với nhu cầu nguồn lực đầu vào của DN công nghiệp hay
DN dịch vụ. Đồng thời, nó cũng làm cho cơ cấu sản xuất các hàng nông sản là
rất khác nhau giữa các vùng sinh thái và các địa phương. Nếu DNNN không
thấy được đặc điểm này thì không thể có hiệu quả cao trong kinh doanh nông
nghiệp.
- Đặc điểm của quá trình sản xuất trong nông nghiệp.
Quá trình sản xuất kinh doanh của bất cứ DN nào cũng đều phải có
các giai đoạn: 1) nghiên cứu thị trường để quyết định lựa chọn sản xuất mặt
hàng gì; 2) chuẩn bị các yếu tố đầu vào để thực hiện quyết định sản xuất bao
gồm vốn, lao động, vật tư, công nghệ, mặt bằng sản xuất...; 3) tổ chức quản lý

sản xuất để tạo ra hàng hóa, dịch vụ theo nhu cầu thị trường với giá thành
thấp để cạnh tranh; 4) tổ chức tiêu thụ sản phẩm, thu tiền về.
Trong nghiên cứu về chu chuyển tư bản, C.Mác đã cho thấy quá trình
sản xuất kinh doanh của các DN trong nền kinh tế được chia ra một cách tổng
quát gồm hai giai đoạn: giai đoạn sản xuất và giai đoạn lưu thông; tương ứng
với nó là hai khoảng thời gian: thời gian sản xuất và thời gian lưu thông. Thời
gian sản xuất được phân chia thành ba thời kỳ: 1) thời kỳ lao động, tức là thời
kỳ người lao động tiến hành sản xuất hay người chủ sở hữu nguồn lực sản
xuất tiến hành kết hợp sức lao động thuê được trên thị trường với tư liệu sản
xuất; 2) thời kỳ gián đoạn lao động, hay còn gọi là thời kỳ vật sản xuất chịu
sự tác động của tự nhiên; và 3) thời kỳ dự trữ sản xuất, vật sản xuất nằm trong
kho và sản phẩm chưa đem bán. Còn thời gian lưu thông thì có hai khoảng
gồm thời gian mua và thời gian bán. Những khoảng thời gian này quyết định
thời gian của một vòng chu chuyển của tư bản, quyết định tốc độ chu chuyển
của tư bản, mở rộng ra là tốc độ chu chuyển của vốn.
DNNN cũng không nằm ngoài các giai đoạn và thời gian chung được
nêu trên. Song, do tính đặc thù của sản xuất nông nghiệp mà thời kỳ vật sản
xuất chịu sự tác động của tự nhiên phổ biến và kéo dài hơn so với việc sản
18
xuất kinh doanh của các DN công nghiệp và DN dịch vụ. Hoạt động sản xuất
của DNNN thường gắn với các dạng tài nguyên sinh vật cụ thể (cây, con).
Ngoài hoạt động sản xuất mang thuần túy tính kinh tế - kỹ thuật như các DN
thuộc các ngành khác (có lao động mới có sản phẩm), sản xuất nông nghiệp
còn chịu tác động bởi chu kỳ sinh vật. Chu kỳ này bao gồm giai đoạn tạo
giống; giai đoạn lên mầm, cấy giống, nuôi con giống; giai đoạn sinh vật
trưởng thành; và giai đoạn thu hoạch. Các giai đoạn này chịu sự chi phối rất
lớn bởi thời gian, không gian, chất đất sản xuất (thổ nhưỡng) và điều kiện thời
tiết, khí hậu. Tức là sản xuất nông nghiệp có tính chất thời vụ. Nói cách khác,
thời gian vật sản xuất chịu sự tác động của tự nhiên là tương đối dài. Người
lao động sau khi cấy giống hoặc nuôi con giống, mặc dù không lao động,

nhưng sinh vật vẫn phải có một thời gian nhất định để trưởng thành. Thời
gian này kéo dài hàng tháng, thậm chí có loại nông sản phải đến cả năm mới
cho kết quả. Nếu việc quyết định sản xuất không đúng thời vụ thì nhất định
không thể có kết quả, mà nếu có thì năng suất và chất lượng không cao.
Sự phát triển của khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học
kể từ giữa thế kỷ XX lại đây, đã tạo ra được những đột phá về giống mới có
năng suất và chất lượng cao hơn, thời gian cho thu hoạch cũng nhanh hơn.
Tuy nhiên, không thể "đốt cháy giai đoạn", bất chấp chu kỳ sinh vật để rút
ngắn đến mức không còn thời gian vật sản xuất chịu sự tác động của tự nhiên
như hoạt động của một số DN thuộc ngành công nghiệp và dịch vụ.
Thêm vào đó, do đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những cơ thể
sống. Chúng phát sinh, phát triển và phát dục theo qui luật sinh học. Trong
quá trình sản xuất, chúng luôn luôn yêu cầu những vấn đề kinh tế, tổ chức, kỹ
thuật và môi trường sống mà người và tự nhiên tác động đến sao cho phù hợp.
Do là những cơ thể sống, nên ngoài các hoạt động thông thường như sản xuất
ở các ngành khác, người sản xuất còn phải phải nghiên cứu lựa chọn, bảo
quản, lai tạo, gây nhân giống; phải theo dõi biến động của thời tiết, khí hậu,
thiên tai... để có quyết định chăm sóc, bảo vệ và thu hoạch.
19
Đặc điểm này chi phối quá trình sản xuất - kinh doanh của DNNN.
Sản xuất nông nghiệp chịu phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên và thời
gian để có sản phẩm nông nghiệp thường phải kéo dài, không hoàn toàn ăn
khớp với thời gian sản xuất.
Ngoài ra, sản xuất nông nghiệp phần lớn tiến hành ngoài trời, trên
không gian ruộng đất rộng lớn, lao động và tư liệu sản xuất luôn di động, thay
đổi theo thời gian và không gian. Đặc điểm này có ảnh hưởng lớn đến việc tổ
chức sản xuất, điều khiển sản xuất, kiểm tra, nghiệm thu công việc trong mỗi
quá trình lao động để tạo ra sản phẩm cuối cùng trong DNNN. Điều này đòi
hỏi người quản lý phải tìm kiếm và hoàn thiện những công nghệ mới như
khoán công việc, những biện pháp tổ chức - kinh tế cho việc trang bị kỹ thuật,

định mức, tổ chức lao động và trả công thích hợp để khắc phục những mặt
ảnh hưởng đó.
- Đặc điểm thị trường của doanh nghiệp nông nghiệp.
Sản xuất thường phải gắn với thị trường, vì thị trường vừa là điều kiện
vừa là môi trường của sản xuất kinh doanh hàng hóa. Thị trường của DNNN
không chỉ là những thị trường "đầu vào", mà còn có cả thị trường "đầu ra".
Cũng như các doanh nghiệp khác, thị trường đầu vào của DNNN là
các nguồn lực. Tuy nhiên, nguồn nhân lực của DNNN là những người làm
nông. Họ có hiểu biết nhiều về đặc tính của cây, con để sản xuất một loại
nông sản. Nhưng do sản xuất nông nghiệp chịu tác động rất lớn bởi điều kiện
tự nhiên và chu kỳ sinh vật, tính mùa vụ rõ rệt, nên việc thuê nhân công của
DNNN thường không liên tục trong năm. Tuy việc sản xuất của người làm
nông nghiệp có một thời kỳ nông nhàn, nhưng khi đến mùa vụ họ lại rất vất
vả với công việc "đồng áng". Do vậy, cung về lao động trên thị trường này
thường bị khan hiếm vào mùa vụ. DNNN tương đối khó khăn trong việc thuê
mướn nhân công. Ví dụ, vụ cà phê, hồ tiêu năm 2010, ở các tỉnh Tây Nguyên
tuy mức tiền công thuê lao động rất cao, tới 90.000 - 120.000 đồng/ngày,
20
nhưng những DN trồng cà phê, hồ tiêu vẫn rất khó tìm được người để làm
công việc thu hoạch. Điều này, có nguy cơ làm thất thoát rất lớn trong thu
hoạch và sau thu hoạch, tác động xấu đến chất lượng sản phẩm và hiệu quả
kinh doanh của DNNN.
Đầu vào của thị trường này, ngoài nguồn nhân lực, DNNN còn phải
cần đến thị trường các yếu tố sản xuất khác như vốn, công nghệ và đặc biệt là
thuê đất phù hợp với đối tượng sản xuất của mình. Ngoài quan hệ với nhà
nước trong việc thuê đất sản xuất, DNNN phải quan hệ với các chủ kinh tế
khác như với DN công nghiệp để có kỹ thuật, DN dịch vụ để có giống, vốn và
các yếu tố sản xuất khác và với nhà khoa học và các tổ chức khác để có, phân
bón, thuốc Bảo vệ Thực vật được công nghệ sản xuất và thông tin..., dựa vào
đó mà quyết định lựa chọn việc sản xuất kinh doanh.

Đầu ra của DNNN là những hàng nông sản. Đây là những hàng hóa
vật thể được tạo ra từ hoạt động sản xuất nông nghiệp. Loại sản phẩm này có
thể là hàng hóa đáp ứng nhu cầu trực tiếp của con người - sử dụng cho ăn,
uống, sinh hoạt hàng ngày, hoặc có thể là các hàng hóa phục vụ nhu cầu gián
tiếp như dùng làm thức ăn chăn nuôi, làm nguyên liệu cho các DN công
nghiệp chế biến... Tuy cũng là sản phẩm hữu hình, nhưng khác với công
nghiệp, sản phẩm nông nghiệp thường là những mặt hàng tươi sống. Nếu sinh
vật bị chết hoặc không được tươi và thu hoạch không đúng độ chín thì chất
lượng sẽ giảm xuống, thậm chí không thể tiêu dùng, không thể bán được.
Hơn thế nữa, do sản xuất có tính thời vụ và phụ thuộc nhiều vào tự
nhiên, nhất là các hàng rau, quả, nên khi đến kỳ thu hoạch thì lượng cung lại
rất lớn, người sản xuất phải chịu bán với giá rẻ, chi phí nhân công cao. Còn
khi có giá cao thì họ lại không có sản phẩm để cung ra trên thị trường. Rủi ro
trong kinh doanh nông nghiệp nói chung là rất lớn. Do tính rủi ro này, nên
đầu tư vào sản xuất nông nghiệp có nhiều mạo hiểm so với đầu tư vào các
ngành công nghiệp và dịch vụ. Không chỉ có ít chủ DN dám đầu tư kinh
21
doanh nông nghiệp, mà qui mô của các DN cũng thường nhỏ và vừa; ít có DN
qui mô lớn. Mức rủi ro lại càng lớn hơn khi các DNNN không lường được
mức sản lượng sản xuất, không tìm được đầu ra, thiếu công nghệ chế biến bảo
quản sau thu hoạch và trên thị trường thiếu vắng các DN chế biến nông sản
phẩm, do đầu tư lớn nhưng thời gian sử dụng rất ít (theo vụ) nên phải chịu
khấu hao nhiều và kéo dài dễ bị lạc hậu công nghệ.
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp nông nghiệp trong phát triển kinh
tế - xã hội trên một địa bàn
DNNN cũng là một lực lượng cung ứng hàng hóa trên thị trường.
Nhưng do đặc điểm sản xuất của nó mà hoạt động của DN này đóng vai trò
quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội trên một địa bàn, nhất là đối với
khu vực nông thôn. Vai trò của nó được thể hiện:
Thứ nhất, đây là hình thức tổ chức sản xuất mang tính chất chuyên

môn hóa trong nông nghiệp. Một DN chỉ có thể sản xuất một hoặc một số loại
cây, con nhất định thích ứng với điều kiện tự nhiên nơi tổ chức sản xuất để
cung ứng sản phẩm ra thị trường. Do chuyên môn hóa sản xuất nên DNNN
tạo ra điều kiện để tập trung các nguồn lực vào sản xuất một loại sản phẩm có
hiệu quả hơn so với sản xuất nhỏ lẻ của từng người nông dân ví dụ như chế
biến cà phê ướt, chế biến mũ cao su, hồ tiêu chất lượng cao... Một DNNN có
thể sử dụng nhiều lao động chuyên môn hóa, trên một diện tích canh tác
tương đối lớn; có thể tập trung nguồn vốn và công nghệ cho hoạt động sản
xuất của mình. Dó đó, có thể sử dụng chuyên gia chuyên nghiệp vào hoạt
động quản lý, tạo ra năng suất và hiệu quả cao hơn. Sức cạnh tranh về sản
phẩm được tăng lên. Điều này góp phần quan trọng vào việc khắc phục tình
trạng manh mún, phân tán, tự phát và thua thiệt, giúp nông dân vươn lên sản
xuất hàng hóa.
Thứ hai, do chuyên môn hóa sản xuất với qui mô tương đối lớn, nên
DNNN có điều kiện tiếp cận và áp dụng công nghệ sản xuất mới, các giống
22
cây, con mới. Nó không chỉ cho năng suất và hiệu quả cao hơn, mà còn thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng phát huy lợi thế của
vùng. Từ đó, làm cho các nguồn lực chung cho sản xuất nông nghiệp của nền
kinh tế được sử dụng có hiệu quả hơn. Sự phát triển của DNNN với qui mô
ngày càng lớn không chỉ tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng thị trường trong
nước, mà còn thúc đẩy xuất khẩu, qua đó phát huy được lợi thế so sánh về tài
nguyên, lao động và truyền thống sản xuất của nền kinh tế trong quan hệ với
các nước.
Ưu thế về năng suất lao động cao của DNNN còn tạo ra điều kiện để
giải phóng lực lượng lao động nông nghiệp chuyển sang sản xuất công nghiệp
và dịch vụ. Từ đó, thúc đẩy hơn nữa tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn. DNNN đóng vai trò là đầu tàu trong công nghiệp
hóa nông nghiệp, nông thôn.
Thứ ba, DNNN đóng vai trò là động lực phát triển kinh tế hàng hóa

trong nông nghiệp. Trong nông nghiệp, chủ thể sản xuất bao gồm hộ nông
dân, các chủ trang trại, hợp tác xã và DNNN. Xét trên góc độ tổ chức quản lý
sản xuất kinh doanh, thì các trang trại và hợp tác xã có thể được coi là
DNNN. Những DN này có ưu thế hơn hẳn về vốn, công nghệ, qui mô sản
xuất và phát triển mặt hàng so với các hộ nông dân. DNNN là những đơn vị
chuyên môn hóa và cung ứng hàng hóa theo nhu cầu thị trường. Do chuyên
môn hóa sản xuất và có năng suất lao động cao hơn so với kinh tế hộ, hoạt
động của DNNN sẽ đưa lại hiệu quả cao hơn. Nhờ đó, nó có thể tồn tại và
phát triển trong cơ chế thị trường; có thể trở thành lực lượng đi đầu đóng vai
trò động lực cho phát triển kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp.
Thứ tư, sự phát triển của DNNN sẽ tạo ra điều kiện để tăng thu nhập
cho xã hội và xây dựng nông thôn mới. Nhờ hình thức tổ chức sản xuất này,
việc làm của người lao động ổn định hơn, có thu nhập cao hơn. Trong nông
thôn, xuất hiện người công nhân mới - công nhân nông nghiệp. Nó không chỉ
23
là nhân tố thúc đẩy chuyên môn hóa, tăng năng suất lao động, mà còn là nhân
tố tạo lập tính kỷ luật, tác phong công nghiệp trong sản xuất nông nghiệp.
Sự phát triển của DNNN tạo điều kiện thúc đẩy việc phát triển và
hoàn thiện kết cấu hạ tầng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như hệ thống
thủy lợi, hệ thống cấp điện, đường giao thông; thúc đẩy nhu cầu học hỏi của
người lao động. Nhờ đó, thúc đẩy việc xây dựng nông thôn mới.
DNNN còn là cầu nối quan trọng góp phần khơi thông chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước với nông dân, góp phần vào việc xóa đói,
giảm nghèo, cải thiện mức sống của người dân. Nếu DNNN được hoạt động
tốt, thì nó còn là đơn vị cơ sở rất quan trọng trong việc giữ vững ổn định xã
hội, bảo vệ quốc phòng và an ninh.
Như vậy, sự phát triển của DNNN đóng vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Nhận thức vai trò này, Nghị quyết Đại hội X
của Đảng nhấn mạnh: "Phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp, nhất là
doanh nghiệp nhỏ và vừa; phát triển bền vững các làng nghề"

1
. Nghị quyết số
26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa X của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn nêu:
"Tiếp tục tổng kết, đổi mới và xây dựng các mô hình kinh tế, hình thức tổ
chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn. Có chính sách khuyến khích phát triển
các mối liên kết giữa hộ nông dân với các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức
khoa học, hiệp hội ngành hàng và thị trường tiêu thụ sản phẩm để hỗ trợ kinh
tế hộ phát triển theo hướng gia trại, trang trại có quy mô phù hợp, sản xuất
hàng hóa lớn"... "Tạo môi trường thuận lợi để hình thành và phát triển mạnh
các loại hình doanh nghiệp nông thôn".
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
DOANH NGHIỆP NÔNG NGHIỆP
1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB CTQG, Hà Nội, tr
194.
24
Sự phát triển của DNNN chịu ảnh hởng của nhiều nhân tố, nh nguồn
vốn và tín dụng, khoa học và công nghệ sản xuất, sản phẩm và thị trờng, kết cấu
hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, trình độ của ngời lao động, năng lực quản lý
v.v... Dới đây sẽ làm rõ các nhân tố chủ yếu đặc trng gắn với sản xuất nông
nghiệp của DN.
1.2.1. Điều kiện tự nhiên cho sản xuất nông nghiệp
Tài nguyên thiên nhiên gồm ruộng đất, mặt nớc, vị trí địa lý, thời tiết,
khí hậu là những yếu tố không thể thiếu đợc của sản xuất nông nghiệp vì nó vừa
là đối tợng lao động, vừa là t liệu lao động. Tuy tài nguyên thiên nhiên không
quyết định lực lợng sản xuất trong nông nghiệp, nhng nó là yếu tố quan trọng
hàng đầu của ngời làm nông, là yếu tố tạo ra việc làm và của cải trong nông
nghiệp.
Thực tế cho thấy ở bất kỳ đâu hay ở một quốc gia nào nếu có nguồn tài

nguyên đất đai, mặt nớc, thời tiết, khí hậu thuận lợi thì ở đó sản xuất nông
nghiệp đợc phát triển. ở đâu đất cằn, nếu không biết tìm ra một loại cây, con
thích hợp thì không thể có hoạt động sản xuất nông nghiệp, mà nếu có thì năng
suất, chất lợng và hiệu quả không cao. Đất đai là nhân tố tự nhiên có tác động
mạnh đến sự lựa chọn việc sản xuất của DNNN. Những loại đất phù hợp với
trồng cây lơng thực, cây công nghiệp hoặc để chăn nuôi, nếu có một diện tích
lớn sẽ là điều kiện thuận lợi để phát triển loại cây, con đó và tiếp theo đó là sự
phát triển nhà máy chế biến sản phẩm của nó.
Ví dụ, huyện tỉnh Ch Prụng tnh Gia Lai do có t đai, thổ nhỡng phù
hợp với cây chè, nên ngay từ năm 1960 đã hình thành một nông trờng trồng chè
(một hình thức DN) và sau đó là một nhà máy chế biến chè đen xuất khẩu. Sự
có mặt của cơ sở sản xuất này không chỉ thu hút hàng ngàn lao động sở tại mà
còn ở các vùng quê khác nh Hng Yên, Thái Bình, Nam Định. Nó không chỉ làm
cho qui mô sản xuất của DNNN tăng lên, mà còn thúc đẩy gia tăng qui mô của
các DN có quan hệ. Thu nhập của công nhân nông trờng và nhà máy chè này
25

×