Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

THUYẾT MINH CHIẾC NÓN LÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.17 KB, 9 trang )

Tài liệu về nón lá rất nhiều. Thầy sưu tầm và đưa lên đây để các con tham khảo. Từ
đó, rút ra cho mình những kiến thức trọng tâm và viết lại thành bài. Nhiều bạn đề
nghị thầy post hẳn một bài văn mẫu. Điều này khá dễ, nhưng không nên. Vì sao?
Văn chương phải do mình chấp bút. Sao chép lại của người không phải là phương
pháp học văn đúng đắn. Thầy có thể cung cấp tất cả tư liệu cần thiết, có thể hướng
dẫn tất cả những cách thức thực hiện nếu các con có nhu cầu, nhưng... thầy không
thể làm thay cho các con.
Vậy, hãy tham khảo tài liệu dưới đây và tự rút tỉa cho mình bài học nhé!
Chiếc Nón
Cùng với áo dài, áo cánh, váy lĩnh, yếm đào, thắt lưng bao... chiếc nón được coi là
một thứ phục trang truyền thống của phụ nữ Việt Nam.
Trước hết, nón là một đồ dùng rất "thực dụng". Nó dùng để che mưa nắng. Nón chóp
nhọn đầu, nón thúng rộng vành, nón ba tầm như nón thúng nhưng mảnh dẻ hơn...
tất cả đều để che chắn cho những con người sống trên một dải đất nắng lắm mưa
nhiều. Dù nón có nhiều loại, song nét đặc thù chung của nó là rộng vành (để chống
nóng) và có mái dốc (để thoát nước nhanh, che mưa). Ngoài chức năng ứng phó với
môi trường tự nhiên, chiếc nón còn hướng tới mục đích làm đẹp cho con người và
phù hợp với cảm quan thẩm mỹ của người Việt: đẹp một cách tế nhị, kín đáo. Dưới
vành nón, đôi mắt, nụ cười, lúm đồng tiền, những sợi tóc mai, cái gáy trắng ngần
của cô gái dường như được tôn thêm nét duyên dáng, kín đáo mà không kém phần
quyến rũ...
Người ta đội nón làm đồng, đi chợ, chơi hội. Tiễn cô gái về nhà chồng, bà mẹ đặt vào
tay con chiếc nón thay cho bao nhiêu lời nhắn gửi yêu thương... Chiếc nón gợi nguồn
cảm hứng cho thơ, cho nhạc. Đã có hẳn một bài về hát về nón: "Nón bài thơ, em đội
nón bài thơ, đi đón ngày hội mở"... Giữa những kênh rạch, sông nước chằng chịt ở
miệt vườn Nam Bộ, ai đó đã phải ngẩn ngơ vì: "Nón lá đội nghiêng tóc dài em gái
xõa". Chiếc nón còn gợi nhớ dáng mẹ tảo tần:
"Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che...".
Trong những năm chiến tranh, tiễn người yêu ra chiến trường, các cô gái thường đội
nón với cái quai mầu tím thủy chung. Chỉ như vậy thôi đã hơn mọi lời thề non, hẹn


biển, làm yên lòng người ra trận...
Chiếc nón xuất hiện từ khi nào không ai biết. Từ thời xưa đã có câu: "Nón Chuông,
khua lụa, quai thao làng Đơ". Chiếc nón quai thao đã được các bà, các cô tầng lớp
trung lưu trở lên ưa chuộng, chiếm vị trí quan trọng trong trang phục lễ hội của phụ
nữ mà thời Nguyễn được sử dụng phổ biến nhất. ở Hà Nội xưa, các "cô ả" mười lăm,
mười sáu - cái tuổi bắt đầu làm duyên, thường đi sắm chiếc nón Nghệ...
Thực ra, chiếc nón không hẳn là thứ phục trang chỉ dành cho phụ nữ. Bước chân vào
một cửa hàng ở phố Hàng Nón - Hà Nội xưa, người ta có thể nhìn qua chiếc nón mà
thấy đủ thứ "tước vị", "giai tầng" trong xã hội. Có nón "mũ chảo", nón "nông dân xứ
Đoài". Các anh chạy xe ba gác thì kiếm một cái "nón cu li" ba xu. Các cậu lính lệ,
phục dịch cửa quan thì đã có "nón lính" làm bằng thanh tre ken lại, giống như cái đĩa
úp lên đầu, trên có chỏm đồng, sau có lưỡi vải che gáy…
Chiếc nón không chỉ là thứ đội đầu, che mưa, nắng. Trong khi dùng người ta còn
"sáng tạo" ra bao nhiêu là công dụng. Này nhé: "Mùa nắng thì chụp lên đầu, có gió
thì che diêm mà hút thuốc lào, mỏi thì lót xuống ngồi, khát không có hàng nước thì
hứng nước máy, lại còn lúc ngồi ngủ ở xe thì úp lên mặt cho ruồi khỏi bu lại, lúc
nóng thì làm quạt... mà túng nữa thì làm cái rổ đựng đồ mua chợ cho mẹ..." (Tam
Lang - Tôi kéo xe).
Chiếc nón lá Việt Nam là một phần cuộc sống của người Việt Nam. Nó là người bạn
thủy chung của những con người lao động một nắng hai sương. Trên đường xa nắng
gắt hay trong những phút nghỉ ngơi khi làm đồng, ngồi bên rặng tre, cô gái có thể
dùng nón quạt cho ráo mồ hôi. Ngoài Huế chiếc nón lá được thi vị hoá thêm bằng
những bài thơ lồng bên trong lớp lá. Muốn đọc ta đưa chiếc nón lá lên cao, nhìn
xuyên qua ánh nắng mặt trời. Thơ sẽ hiện ra bên trong nón...
Nguyễn Hương
Nón bài thơ Huế
Chiếc nón bài thơ Huế từ lâu là một đề tài sáng tạo phong phú của nhiều văn nhân,
nghệ sĩ . Nhà thơ Bích Lan đã viết những câu thơ thật sâu lắng về con người miền núi
Ngự, sông Hương:
Người xứ Huế yêu thơ và nhạc lễ

Tà áo dài trong trắng nhẹ nhàng bay
Nón bài thơ e lệ nép trong tay
Thầm lặng bước những khi trời dịu nắng ...
Những cô gái Huế duyên dáng, dễ thương, nói năng nhỏ nhẹ "tâm sự nhiều mà ít hé
trên môi", mặc áo dài trắng, đội nón bài thơ, bước đi nhẹ nhàng, khoan thai trên
đường Lê Lợi dọc sông Hương, trong những trưa nắng hạ và những ngày nắng xuân
là một nét đẹp của Cố Đô, đã bao lần làm xao động tâm hồn của nhiều thi nhân mỗi
khi có dịp đến thăm Huế:
Áo trắng hỡi, thuở tìm em không thấy
Nắng mênh mang trải mấy nhịp Tràng Tiền
Nón rất Huế, nhưng đời không phải thế
Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng ...
(Thu Bồn)
Hình ảnh thơ mộng này cũng đã đi vào thế giới nghệ thuật của nhiếp ảnh và điện
ảnh như một trong những hình tượng đẹp, tiêu biểu cho đất nước, con người Việt
Nam qua những bộ phim: "Huế đẹp Huế thơ . . ." - "Thành phố bên bờ sông Hương"
- "Thương nhớ sông Hương"... đã được đông đảo khán giả khắp nơi trên thế giới hâm
mộ .
Nhưng chiếc nón lá có tự bao giờ ? Huế có phải là quê hương của chiếc nón bài thơ
không ? Điều này đã làm không ít người băn khoăn ?!
Thực ra thì chiếc nón lá Việt Nam đã xuất hiện trong đời sống của nhân dân ta từ thế
kỷ XIII và không phải chỉ riêng Huế mới có nón bài thơ .
Vào đời Trần, ở làng Ma Lôi, thuộc lộ Hồng Châu (Hải Hưng và Hải Phòng ngày nay),
nhân dân ta đã vào rừng chọn lá cọ non, đem về phơi khô để kết làm nón đội đầu
che nắng mưa, gọi là "nón Ma Lôi" . Lúc đầu nón chỉ lưu hành trong dân gian, về sau
các vua Trần thấy đẹp, đã cho cải tiến thành một loại nón đẹp hơn để dùng trong
hoàng cung, gọi là "nón thượng" .
Ca dao xưa đã xếp hình ảnh cô gái đội chiếc "nón thượng" này vào hàng thứ sáu
trong số "mười thương":
Một thương tóc bó đuôi gà

Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
. . . . .
Sáu thương "nón thượng quai tua" dịu dàng
Theo nhà bác học Lê Quí Đôn (1726 - 1784) trong "Vân Đài loại ngữ", thì vào thời Lê
Mạc (khoảng đầu thế kỷ XVII), trên vùng thượng nguồn sông Đà và sông Thao, có
giống lá cây cọ dài bền và đẹp, càng đem phơi nắng càng trắng, người ta đã chọn
những chiếc lá thanh, nhỏ để làm nón . Và châu Bố Chính thuộc trấn Nghệ An (bao
gồm cả vùng Quảng Bình ngày nay) có thứ lá gõ dùng để lợp mái kiệu, nhân dân
sống ở vùng này đã chọn loại lá non đem về phơi khô rồi kết làm nón đội đầu, gọi là
"nón gõ" . "Nón gõ" chính là tiền thân của "nón Nghệ" và "nón Ba Đồn" của Quảng
Bình ngày nay . Trải qua nhiều đời, tuỳ theo phong thổ và đặc sản của từng vùng,
nhân dân ta đã sáng chế ra nhiều loại nón lá khác nhau để đội đầu . Mỗi kiểu dành
cho mỗi hạng người trong xã hội .
Trong "Vũ trung tùy bút", Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) đã liệt kê đầy đủ và mô tả
khá chi tiết về các kiểu nón lá Việt Nam có mặt đến cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ
XIX .
Ở vùng Sơn Tây có nón Ngoan Xác - còn gọi là nón Mềm Giải - và nón Tam Giang
dành cho các cụ già . Nón Chóp (có chóp ở trên đầu dùng cho đàn ông) . Con nhà
quan và học trò đi thi thì đội nón Phương đầu đại còn gọi là nón Lá . Gia đình quan
lại và danh vọng quyền quý thì đội nón Cổ Châu - còn gọi là nón Dâu . Trẻ em đội
nón Liên diệp - còn gọi là nón Lá sen nhỏ khuôn . Nón Tu lờ rộng vành dùng cho nhà
sư . Ở thôn quê dân nghèo đội nón Trạo lạp - còn gọi là nón Sọ nhỏ . Nón chéo vành
tay, nón dấu dùng cho lính tráng:
Ngang lưng thì thắt bao vàng
Đầu đội nón dấu vai mang súng dài ... (Bài ca lính thú ngày xưa)
... Ở quê hương thi hào Nguyễn Du có nghề nón cổ truyền của xứ Nghệ đã lưu truyền
câu ca dao sau đây:
"Em đừng bứt niệt mỏi tay
Về đây làm nón đợi ngày du xuân"
Xuất hiện trên đất nước ta từ lâu đời với nhiều chức năng và công dụng khác nhau

đối với cuộc sống con người như che nắng mưa, quạt mát khi trời tắt gió, làm rổ khi
cần đựng vật gì mua dọc đường, cái "bát khổng lồ" để múc nước uống giữa cánh
đồng cháy bỏng giữa trưa hè . . . nên hầu như khắp nơi trên mọi miền đất nước đều
có nghề làm nón và mọi hạng người trong xã hội đều đội nón ...
Có thể nói, bất cứ nơi đâu trên đất nước này, chiếc nón lá cũng gắn bó với cuộc đời
người phụ nữ như bóng với hình:
Chén tình là chén say sưa
Nón tình em đội nắng mưa trên đầu (Ca dao)
Người phụ nữ Việt Nam không những đã sáng tạo ra chiếc nón bài thơ độc đáo mà
còn làm cho nó có sức sống bền bỉ và đẹp hơn lên bằng chính tình yêu cuộc sống và
tấm lòng nhân hậu thủy chung của mình .
Đặc biệt, chiếc nón bài thơ Huế vốn sinh ra và lớn lên trên quê hương Thuận Hóa
thanh lịch, nơi hàng trăm năm trước đây từng là kinh đô lâu đời của triều Nguyễn và
ngày nay đang trở thành một trung tâm văn hóa du lịch của cả nước - di sản văn hóa
của nhân loại - nên sức sống của nó ngày càng bền bỉ hơn cùng với những danh lam
thắng cảnh và di tích lịch sử nổi tiếng của Cố Đô .
"Đó là chiếc nón nên thơ thanh lịch . Một món trang sức nhuần nhụy của cô gái Huế,
nhẹ nhàng trên đầu, được chằm bằng những vành tre cật vót chải chuốt nhỏ như
tăm . Những tấm lá trắng muốt được là phẳng, sắp xếp đều đặn, được khâu kín đáo
và tỉ mỉ vào thân nón bằng những sợi cước trong suốt . Khi đội thắt thêm quai nón
bằng dải lụa mỏng, khi thì màu tím ấp ủ, khi thì màu xanh ánh trăng hay màu biếc
của liễu non, khi lại màu vàng mỡ gà, khi lại màu hồng ráng chiều . Cũng có người
thích quai nón bằng dải lụa mỏng trắng bạch, hay dải gấm, dải nhung đen tuyền làm
nổi bật làn da người đội nón".
Để chiếc nón nên thơ, thanh lịch, được mọi người ưa thích này, những nghệ nhân
chằm nón đã ngày đêm lao động rất kiên nhẫn, công phu:
Bàn tay xây lá, tay xuyên chỉ
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên.
Để làm nên những chiếc nón:
Bài thơ nho nhỏ in màu trắng

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×