Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Phân tích tác động của CPTPP và EVFTA đến nông nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.27 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế có thể nói là một xu thế tất yếu đối
với tất cả các quốc gia và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Việt Nam đã thể
hiện sự chủ động và tích cực trong việc tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới như:
ASEAN, ASEM, WTO,... và đặc biệt là CPTPP và EVFTA. Điều này đã thực sự giúp
cho thương mại quốc tế của Việt Nam đạt được sự tăng trưởng nhanh chóng..
Nếu như các hiệp định thương mại trước đây thường tập trung nhiều vào các
cam kết giảm thuế, thì CPTPP và EVFTA được gọi là các hiệp định thương mại thế hệ
mới hướng đến thiết lập bộ quy tắc thương mại có tiêu chuẩn và mức độ cam kết cao,
phạm vi điều chỉnh rộng và khả năng tác động lớn và toàn diện đến các vấn đề thương
mại và kinh tế trong thế kỷ 21 như vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn kỹ thuật, đầu
tư, lao động, tổ chức thể chế, quản trị, chính sách và môi trường kinh doanh,… Các
Hiệp định này được kỳ vọng đem lại nhiều cơ hội thuận lợi cho thương mại và đầu tư,
đảm bảo cân bằng lợi ích giữa các nước thành viên. Từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, tạo nhiều việc làm thu nhập cao hơn, nâng cao năng suất và cạnh tranh, nâng cao
chất lượng sống, giảm đói nghèo, đồng thời tăng cường minh bạch, khả năng quản trị
và bảo vệ môi trường.
Nông nghiệp trong một thời gian dài là nền tảng và bệ đỡ cho toàn bộ nền kinh
tế Việt Nam. Đây là ngành Việt Nam có nhiều lợi thế nhất và sớm tham gia vào tự do
hóa thương mại khi thuế nhập khẩu nông sản thô và vật tư nông nghiệp vẫn duy trì ở
mức thấp; trợ cấp cho nông nghiệp Việt Nam thấp (chủ yếu dưới hình thức hỗ trợ dịch
vụ thủy lợi và khuyến nông), chỉ bằng 1/3 các nước OECD và thấp hơn các nước
trong khu vực. Hầu hết người sản xuất và kinh doanh chấp nhận cạnh tranh.
Do vậy, với các cam kết sâu rộng, CPTPP và EVFTA được dự báo sẽ tác động
mạnh mẽ đến ngành nông nghiệp bao gồm cả cơ hội và thách thức đòi hỏi phải có sự
chuẩn bị kỹ càng, đặc biệt là về chính sách và thể chế, rút kinh nghiệm từ quá trình
hội nhập trước đó.
1
Dựa trên tất cả những lý do đó, nhóm chúng em xin đưa ra đề tài: “Phân tích
những tác động của hiệp định thương mại CPTPP và EVFTA đến ngành nông
nghiệp Việt Nam”.


Bài tiểu luận gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
Chương 2: Tổng quan về hiệp định CPTPP và EVFTA
Chương 3: Ảnh hưởng của CPTPP và EVFTA hiệp định tới ngành nông nghiệp
Việt Nam
Chương 4: Đề xuất giải pháp giúp ngành nông nghiệp Việt Nam tận dụng tốt
các cơ hội và vượt qua thách thức trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
1.1.


Cơ hội
Kể từ Đổi Mới, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp
phần ổn định kinh tế xã hội và đưa Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình. Các
đóng góp lớn có thể kể đến như đảm bảo an ninh lương thực, nâng cao kim ngạch xuất
khẩu, xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho cư dân nông thôn,
góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tăng sức cạnh tranh quốc gia trên thị trường thế giới.
Trong thời gian qua, nông nghiệp liên tục tăng trưởng, trung bình đạt 3,58%
giai đoạn 2000– 2014. Xuất khẩu nông sản liên tục thặng dư, góp phần cải thiện cán
cân xuất nhập khẩu cả nước. Nông nghiệp đã hình thành mười mặt hàng xuất khẩu
chủ lực quốc gia với kim ngạch trên 1 tỷ đô bao gồm gạo, cà phê, cao su, cá tra, tôm,
hạt điều, hạt tiêu, rau quả, sắn và đồ gỗ. Năm 2015, xuất khẩu nông sản Việt Nam đạt
hơn 30,14 tỷ USD đóng góp 20% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Các thành tựu
của nông nghiệp kể từ khi Đổi mới xuất phát từ chủ trương chính sách đúng đắn của
Đảng và nhà nước trong việc khơi dậy động lực của kinh tế hộ và các thành phần kinh
tế khác trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Trong đó, nhà nước trao quyền tự chủ
cho hộ nông dân, công nhận và tạo điều kiện cho thành phần kinh tế tư nhân phát
triển, thực hiện nhiều chính sách quan trọng để thúc đẩy nội lực trong nước, tạo điều

kiện cho nông nghiệp nông thôn phát triển và thu hút đầu tư vào nông nghiệp. Nông
dân chăm chỉ cần cù, doanh nghiệp tư nhân tận dụng các cơ hội tốt từ thị trường.
Nhiều vùng kinh tế nông nghiệp đã bắt đầu triển khai sản xuất theo chuỗi giá trị như
hồ tiêu, cà phê, điều, lúa gạo với sự liên kết giữa doanh nghiệp với người sản xuất.
Cụ thể một số những thành tựu mà nông nghiệp Việt Nam đã đạt được dưới tác
động mạnh mẽ của toàn cầu hóa:
a)
Mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản
Tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông – lâm – thủy sản đạt hơn 25,7 tỉ
USD năm 2014. Nhiều mặt hàng chiếm vị trí quan trọng trên thị trường thế giới, trong
3

đó có các mặt hàng chiếm vị trí hàng đầu như gạo, cà phê, hồ tiêu, điều và chè với giá
trị xuất khẩu không ngừng tăng. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu mặt hàng
gạo, tiêu, chè lần lượt đạt 18%/năm, 22,7%/năm và 10,8%/năm trong giai đoạn 2010 –
2014. Năm 2014, các mặt hàng thủy sản, đồ gỗ, gạo, cao su, cà phê, điều đều đạt kim
ngạch trên 1 tỉ USD. Ngành nông nghiệp luôn duy trì được thặng dư thương mại.
b)
Sự cạnh tranh quốc tế là động lực thúc đẩy nông nghiệp Việt Nam phát
triển
Tham gia quá trình hội nhập đồng nghĩa với việc chấp nhận cạnh tranh. Mặc dù
phải chịu nhiều rủi ro và các yếu tố bất định của thương mại quốc tế, nhưng người
nông dân đã từng bước làm quen, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh của nông


sản Việt, không ỷ lại vào trợ cấp và hàng rào thương mại của Nhà nước.
c)
Hội nhập tạo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài, ứng dụng khoa học –
công nghệ.
Mặc dù thu hút FDI vào nông nghiệp còn rất hạn chế, nhưng tính đến năm

2014, số dự án đầu tư cho nông nghiệp chiếm gần 3,0% tổng số dự án và 1,5% tổng số
vốn đầu tư FDI vào Việt Nam. Gần đây, nhiều tập đoàn lớn đã tham gia vào quá trình
liên kết trong sản xuất nông nghiệp với mục đích nâng cao năng suất, hiệu quả và tính
bền vững trong sản xuất. Đầu tư nước ngoài gắn liền với sự phát triển của công nghệ
mới. Những công nghệ này góp phần rất lớn vào tăng năng suất, hiệu quả sản xuất,
chế biến và kinh doanh nông sản. Ngoài những lợi ích có thể dễ dàng nhận thấy như
trên, hội nhập còn là cơ hội lớn cho việc cải thiện thể chế, chính sách, bộ máy nhà
nước hiệu quả hơn. Cùng với đó, doanh nghiệp trong nước cũng phải thay đổi một
cách mạnh mẽ để nắm bắt cơ hội của hội nhập và nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp chế biến nông sản.
4

1.2.
Thách thức
Cơ hội phát triển đối với ngành nông nghiệp là rất lớn, tuy nhiên thách thức đặt
ra cho nông sản Việt Nam cũng không phải là nhỏ
a)
Những rào cản trong xuất khẩu nông sản
Xu thế phát triển của thương mại nông sản ngày càng phức tạp, hàng nông sản
xuất khẩu của Việt Nam sẽ bước vào thời kì cọ xát thương mại. Hàng rào thương mại
mang tính kĩ thuật, chống bán phá giá tại nhiều thị trường xuất khẩu sẽ là những rào
cản chủ yếu trong xuất khẩu nông sản của Việt Nam ở những năm tới, đặc biệt từ khi
chúng ta tham gia kí kết hiệp định CPTPP (Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương).
b)
Yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng hàng nông sản
Sau khi gia nhập WTO, thách thức lớn nhất của hàng hóa nông sản Việt Nam là
phải cạnh tranh quyết liệt với sản phẩm tương tự của các nước thành viên WTO. Phần
lớn các mặt hàng gạo, cà phê đều xuất khẩu dưới dạng thô, tỉ lệ sản phẩm qua chế biến
còn thấp (các hàng này chiếm tới 55% các mặt hàng xuất khẩu chưa qua chế biến năm

2013). Các mặt hàng xuất khẩu của nước ta chất lượng còn thấp, không đồng đều, ít
đa dạng về chủng loại sản phẩm và khả năng đổi mới mặt hàng còn chậm. Trong khi


đó, các thị trường xuất khẩu chính của nước ta là Mĩ, EU, Nhật Bản lại rất khó tính và
yêu cầu khắt khe về chất lượng sản phẩm. Một điều đáng lưu ý là trong quá trình hội
nhập, nhiều mặt hàng nông sản thô chưa qua chế biến được xếp vào danh mục hàng
nhạy cảm cao để làm chậm quá trình giảm thuế nhập khẩu, còn mặt hàng chế biến lại
được xếp vào danh mục hàng cắt giảm thuế nhanh. Như vậy, hàng nông sản thô chưa
qua chế biến sẽ ít được hưởng lợi từ quá trình hội nhập, điều này làm cản trở quá trình
xuất khẩu nông sản của Việt Nam.
5

c)
Tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu
Đây là mối đe doạ lớn đối với nền sản xuất nông nghiệp của Việt Nam, nhất là
các vùng trọng điểm sản xuất lương thực thực phẩm ở đồng bằng sông Hồng và đồng
bằng sông Cửu Long. Theo kịch bản RCP4.5, vào cuối thế kỉ XXI, nếu nước biển
dâng 1m, thì sẽ có khoảng 17,57% diện tích đồng bằng sông Hồng, 1,47% diện tích
các tỉnh ven biển miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, 17,84% diện tích Thành
phố Hồ Chí Minh và 4,79% diện tích Bà Rịa - Vũng Tàu có nguy cơ bị ngập. Đồng
bằng sông Cửu Long là khu vực có nguy cơ ngập cao (39,40% diện tích), trong đó
tỉnh Kiên Giang có nguy cơ ngập cao nhất (75% diện tích). Như vậy, những vùng bị
ảnh hưởng trực tiếp là những vùng có khả năng sản xuất nông nghiệp, đặc biệt đe dọa
tới an ninh lương thực không chỉ của Việt Nam mà còn ảnh hưởng đến an ninh lương
thực thế giới, vì sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đứng thứ hai thế giới, chỉ sau
Thái Lan. Ngoài ra, những diễn biến thời tiết thất thường đã làm gia tăng những tác
động xấu cho nông nghiệp ở nhiều địa bàn. Các tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long, do
khô hạn kéo dài, nước mặn đã xâm nhập sâu, có nơi lấn tới 70km, nên đã dẫn đến tình
trạng thiếu nước ngọt, diện tích đất mặn tăng. Hiện tượng El Nino đã làm cho các tỉnh

phía Bắc bị hạn hán kéo dài, miền Nam và Tây Nguyên có mùa khô đến sớm và lượng
mưa phân bố không đều giữa các vùng làm cho cây trồng, vật nuôi phát triển kém,
nhiều dịch bệnh, gây ra thiệt hại lớn về kinh tế cho nông dân.
6

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH CPTPP VÀ EVFTA
2.1. CPTPP
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Trước khi đi đến thỏa thuận ký kết hiệp định CPTPP (do sự rút khỏi hiệp định
của Mỹ), Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) được ký kết tháng 2/2016,
với 12 nước tham gia gồm Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia,
Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ và Việt Nam. Ngay sau khi nhậm chức
vào tháng 1/2017, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã tuyên bố rút khỏi hiệp định, cho
rằng hiệp định đa phương này làm ảnh hưởng đến công ăn việc làm của người Mỹ và
nhấn mạnh, Mỹ sẽ tiến hành đàm phán các hiệp định thương mại song phương. Cuối


năm 2017, 11 nước thành viên còn lại đã đổi tên Hiệp định TPP thành Hiệp định Đối
tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) với nỗ lực khôi phục hiệp
định trên thông qua nhiều vòng đàm phán.
Theo văn bản được công bố, nội dung Hiệp định TPP gồm 30 chương bao quát
rộng về thương mại, thuế quan, đầu tư, sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường...
Hiệp định CPTPP về cơ bản sẽ giữ nguyên nội dung đã đàm phán của TPP
nhưng sẽ có thêm 2 phụ lục và bổ sung quy định về tính hiệu lực, quy trình rút lui, gia
nhập, rà soát lại CPTPP trong tương lai:
Phụ lục thứ nhất về Danh mục 20 nghĩa vụ tạm hoãn thực thi của TPP và 4 nội
dung cần đàm phán lại như đầu tư và cấp phép đầu tư; giải quyết tranh chấp viễn
thông; điều kiện tham dự thầu; đối tượng có thể cấp bằng độc quyền sáng chế; minh
bạch và công bằng về thủ tục đối với hàng hóa dược phẩm và thiết bị y tế… Phụ lục
thứ 2 về 7 điều liên quan đến những điểm kỹ thuật của hiệp định mới.

Về quy mô, Hiệp định TPP chiếm 40% GDP, 30% thương mại toàn cầu và có
800 triệu dân. Trong khi đó, Hiệp định CPTPP chiếm khoảng 15% GDP, 15% tổng
thương mại toàn cầu và 500 triệu dân.
Bên cạnh đó, theo quy định TPP ban đầu, tỷ lệ GDP của các nước triển khai
phải đạt được 85% tổng GDP của 12 nước (ký năm 2013) thì hiệp định mới có hiệu
7

lực. Với việc Mỹ chiếm 60% GDP, TPP ít nhất sẽ cần thay đổi điều khoản hiệu lực để
có thể bắt đầu. Vì vậy, quy định này của CPTPP đã được thay đổi. Theo đó, chỉ cần ít
nhất 6 quốc gia thành viên ký phê chuẩn thì 60 ngày sau, hiệp định sẽ có hiệu lực.
Lễ ký kết Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP) đã diễn ra tại thủ đô Santiago de Chile dưới sự chủ trì của Tổng thống nước
chủ nhà Michelle Bachelet vào ngày 9/3. Tham gia lễ ký có đại diện 11 quốc gia gồm
Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru,
Singapore và Việt Nam. Bộ trưởng Công thương Trần Tuấn Anh đã tham gia lễ ký.
Thỏa thuận tự do thương mại đầy tham vọng CPTPP được khởi động cách đây một
năm sau khi Mỹ rút lui khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Về cơ
bản, CPTPP vẫn giữ nguyên nội dung so với phiên bản gốc với 8.000 trang và chỉ tạm
hoãn thực thi 22 điều khoản chủ yếu liên quan tới sở hữu trí tuệ nhằm bảo đảm sự cân
bằng giữa 11 nước thành viên.
Nếu như các hiệp định thương mại trước đây thường tập trung nhiều vào các
cam kết giảm thuế, thì CPTPP và một hiệp định khác giữa Việt Nam – EU là EVFTA
được gọi là các hiệp định thương mại thế hệ mới hướng đến thiết lập bộ quy tắc
thương mại có tiêu chuẩn và mức độ cam kết cao, phạm vi điều chỉnh rộng và khả
năng tác động lớn và toàn diện đến các vấn đề thương mại và kinh tế trong thế kỷ 21
như vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn kỹ thuật, đầu tư, lao động, tổ chức thể chế,
quản trị, chính sách và môi trường kinh doanh,… Các Hiệp định này được kỳ vọng
đem lại nhiều cơ hội thuận lợi cho thương mại và đầu tư, đảm bảo cân bằng lợi ích
giữa các nước thành viên. Từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo nhiều việc làm thu
nhập cao hơn, nâng cao năng suất và cạnh tranh, nâng cao chất lượng sống, giảm đói

nghèo, đồng thời tăng cường minh bạch, khả năng quản trị và bảo vệ môi trường.
Đồng thời, đi kèm với đó sẽ là các thách thức lớn, đặc biệt là với các nước đang phát
triển như Việt Nam.


2.1.2. Nội dung chính của hiệp định
Tại mục này sẽ phân tích những nội dung chính khác biệt, được sửa đổi cho
phù hợp hơn so với hiệp định TPP
8

2.1.2.1. Mục tiêu và nguyên tắc
a. Mục tiêu của hiệp định CPTPP
Hiệp định CPTPP được đàm phán và ký kết với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, hỗ trợ tạo ra và duy trì việc làm; tăng cường đổi mới, năng suất, và sức cạnh
tranh; nâng cao mức sống; giảm đói nghèo ở các nước ký kết; đồng thời thúc đẩy quản
lý hiệu quả, minh bạch, bảo vệ người lao động, và bảo vệ môi trường. Các nước thành
viên kỳ vọng rằng việc ký kết TPP với các tiêu chuẩn cao mới cho thương mại và đầu
tư tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương sẽ là một bước gần hơn đến mục tiêu cuối
cùng là mở cửa thương mại và hội nhập cho toàn khu vực.
b. Nguyên tắc của hiệp định CPTPP
Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được
nhận định là một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA) với nhiều tiêu chuẩn
cao và toàn diện, bao trùm nhiều lĩnh vực với nhiều nguyên tắc về chính sách thuế
quan, về đầu tư, về lao động, về bảo hộ trí tuệ và nhiều nguyên tắc khác đặt ra cho các
nước thành viên.
2.1.2.2. Các nội dung liên quan đến thuế quan
Các cam kết thuế quan trong Hiệp định này là rất lớn, cụ thể, các nước cam kết
xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định có hiệu lực khoảng từ 75-95% dòng thuế
và xóa bỏ hoàn toàn từ 97-100% dòng thuế trong vòng 5-10 năm tiếp. Cụ thể như sau:
a. Các nước đối tác

Trong các quốc gia thành viên thì Singapore là nước cam kết xóa bỏ hoàn toàn
thuế quan đối với tất cả các mặt hàng ngay sau khi thực hiện CPTPP. Riêng với Nhật
Bản (nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới) và Chile, cam kết cắt giảm thuế quan cao hơn rất
nhiều so với các FTA song phương đã có với Việt Nam. Tính chung, 100% biểu thuế
của các thành viên CPTPP sẽ được đưa về 0% theo lộ trình. Với các nước phát triển,
lộ trình này là 7 năm; nhưng Việt Nam được ưu tiên kéo dài hơn, khoảng 10 năm, để
phù hợp với điều kiện phát triển.
9

Với CPTPP, toàn bộ hàng công nghiệp sẽ đưa thuế nhập khẩu hàng Việt Nam
về 0%, thậm chí có nước dành cho Việt Nam trên 90% mặt hàng thuế về 0% ngay khi
hiệp định có hiệu lực (như Canada, Nhật Bản). Các mặt hàng hải sản như tôm, cá ngừ
đại dương, hàng dệt may, giày dép, đồ gỗ, hàng điện tử, cao su… của Việt Nam cũng
nằm trong danh sách được hưởng lợi ngay sau khi hiệp định có hiệu lực, hoặc sau 3 5 năm.
a. Về phía Việt Nam
Về phía Việt Nam cũng cam kết xóa bỏ gần 100% số dòng thuế, trong đó


65,8% số dòng thuế sẽ về 0% ngay khi CPTPP có hiệu lực; 85,5% về 0% vào năm thứ
4; 97,8% về 0% vào năm thứ 11; các mặt hàng còn lại (được xem là nhạy cảm) cam
kết xóa bỏ thuế nhập khẩu với lịch trình tối đa vào năm thứ 16, hoặc theo hạn ngạch
thuế quan.
Cụ thể, ở nhóm hàng công nghiệp như ô tô, sẽ bỏ thuế vào năm thứ 13 với các
loại ô tô mới và về mức 0% sau 16 năm; sắt, thép, xăng dầu chủ yếu xóa bỏ vào năm
thứ 11; nhựa và các sản phẩm từ nhựa xóa bỏ vào năm thứ 4; dệt may và giày dép xóa
bỏ ngay khi CPTPP có hiệu lực...
Ở nhóm các mặt hàng nông nghiệp và thủy sản, Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế
vào năm thứ 11 đối với thịt gà; với thịt heo tươi vào năm thứ 10 và thịt đông lạnh vào
năm thứ 8; gạo xóa bỏ ngay khi CPTPP có hiệu lực; bắp xóa bỏ vào năm thứ 5; thực
phẩm chế biến từ thịt xóa bỏ từ năm thứ 8 đến năm thứ 11; chế biến thủy sản vào năm

thứ 5…
2.1.2.3. Nội dung về đầu tư
Về Cơ chế Giải quyết tranh chấp giữa chính phủ và nhà đầu tư (ISDS), CPTPP
vẫn bảo lưu ISDS, nhưng giảm bớt phạm vi cho phép nhà đầu tư nước ngoài sử dụng
cơ chế này để kiện chính phủ nước thành viên sở tại. Theo đó, trong khuôn khổ
CPTPP, các công ty tư nhân có hợp đồng đầu tư với chính phủ sẽ không được phép sử
dụng cơ chế ISDS để kiện chính phủ nước sở tại nếu đó là tranh chấp về hợp đồng.
Cần lưu ý rằng, công ty sở tại không được sử dụng ISDS để khởi kiện chính
phủ nước sở tại, nhưng có thể sử dụng ISDS để khởi kiện chính phủ của một nước
10

thành viên khác. ISDS chỉ liên quan đến các tranh chấp về các điều khoản đầu tư của
CPTPP.
Công ty không có quyền quyết định lập ban trọng tài của ISDS. CPTPP có điều
khoản quy định ban trọng tài có ba thành viên, một do chính phủ cử ra, một do nguyên
đơn lựa chọn và một trọng tài chủ tọa do chính phủ và nguyên đơn cùng lựa chọn.
2.1.2.4. Nội dung về lao động
Các nguyên tắc cụ thể bảo gồm: quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể
của người sử dụng lao động và người lao động; xóa bỏ lao động cưỡng bức và lao
động bắt buộc; cấm sử dụng lao động trẻ em và xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử
về việc làm và nghề nghiệp. Mỗi bên sẽ thông qua và duy trì các đạo luật và quy định,
điều chỉnh những điều kiện làm việc có thể chấp nhận được về lương tối thiểu, giờ
làm việc và an toàn sức khỏe nghề nghiệp.
Riêng chương lao động của CPTTP được dựa trên Tuyên bố 1998 của ILO.
Chương này đưa ra mối liên hệ giữa việc thực hiện tuyên bố trên với các điều kiện
thương mại trong một khuôn khổ thời gian nhất định, bao gồm cả các biện pháp trừng
phạt có thể áp dụng. Cụ thể, Việt Nam sẽ có 3 năm để thể chế hóa các luật pháp liên
quan đến lao động trẻ em, lao động cưỡng bức và phân biệt đối xử, 5 năm để cải cách
và hoàn thiện các thiết chế về thương lượng tập thể và tự do liên kết.
2.1.2.5. Nội dung về bảo hộ trí tuệ

So với hiệp định TPP, đã có những đổi mới cụ thể như sau:
TPP sẽ làm vô hiệu hóa một số luật và thông lệ của các nước thành viên trong
việc bảo vệ các dược phẩm mới không bị cạnh tranh bởi các thuốc gốc (generic drug).
Trong khuôn khổ của CPTPP, không có yêu cầu nào cho các nước thành viên thay đổi


các luật và thông lệ đối với các dược phẩm mới gồm cả chế phẩm sinh học. Các nước
thành viên cũng đồng ý đình chỉ nghĩa vụ gia hạn thời hạn bản quyền trong những
trường hợp có những trì hoãn bất hợp lý trong việc cấp bản quyền, cũng như cấp phép
nhập khẩu một loại thuốc nào đó vào các nước thành viên.
Ngoài ra, một số quy định về sở hữu trí tuệ có trong TPP cũng bị đình chỉ trong
CPTPP. Chẳng hạn, các nước không còn phải gia hạn thời gian bảo hộ bản quyền lên
11

70 năm (từ 50 năm) và điều này giúp làm giảm chi phí hữu hình cho các nước thành
viên của CPTPP so với TPP. Có tổng cộng 11 quy định về sở hữu trí tuệ của TPP đã bị
đình chỉ trong CPTPP.
2.2. EVFTA
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển
Hiệp định đã được các bên ký tuyên bố kết thúc đàm phán vào ngày
02/12/2015. Hiện nay, thời điểm ký kết chính thức Hiệp định chưa được xác định, tuy
nhiên, hai bên thống nhất sẽ nỗ lực hoàn tất các thủ tục cần thiết để Hiệp định có hiệu
lực ngay từ đầu năm 2018.
EVFTA là một Hiệp định toàn diện thế hệ mới, và là FTA đầu tiên của EU với
một quốc gia có mức thu nhập trung bình như Việt Nam. Các nội dung chính của Hiệp
định gồm: thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, quy tắc xuất xứ, hải quan và
thuận lợi hóa thương mại, các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động
thực vật (SPS), hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), đầu tư, phòng vệ thương
mại, cạnh tranh, sở hữu trí tuệ (gồm cả chỉ dẫn địa lý), phát triển bền vững, các vấn đề
pháp lý, hợp tác và xây dựng năng lực.

2.2.2. Nội dung chính của hiệp định
2.2.2.1. Thương mại hàng hóa
a. Cam kết mở cửa thị trường hàng hóa của EU
EU cam kết xóa bỏ thuế quan ngay khi EVFTA có hiệu lực đối với hàng hóa
của Việt Nam thuộc 85,6% số dòng thuế trong biểu thuế, tương đương 70,3% kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU.
Trong vòng 7 năm kể từ khi EVFTA có hiệu lực, EU cam kết xóa bỏ 99,2% số
dòng thuế trong biểu thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
vào EU.
Đối với 0,3% kim ngạch xuất khẩu còn lại (bao gồm: một số sản phẩm gạo, ngô
ngọt, tỏi, nấm, đường và các sản phẩm chứa hàm lượng đường cao, tinh bột sắn, cá
ngừ đóng hộp), EU cam kết mở cửa cho Việt Nam theo hạn ngạch thuế quan (TRQs)
với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%.
12

Bảng tổng hợp cam kết mở cửa của EU đối với một số hàng hóa quan trọng của
Việt Nam (Nguồn: Ủy ban Châu Âu Bộ Công Thương Việt Nam)
Sản phẩm
Cam kết của EU


Dệt may
Xóa bỏ thuế trong vòng 5 năm
Lưu ý:
Quy tắc xuất xứ: phải sử dụng vải sản
xuất tại Việt Nam
Đặc biệt: được phép sử dụng thêm vải
sản xuất tại Hàn Quốc
Giày dép
Xóa bỏ thuế trong vòng 7 năm

Thủy sản(trừ cá ngừ đóng hộp và cá viên)
Xóa bỏ thuế trong vòng 7 năm
Cá ngừ đóng hộp
Hạn ngạch thuế quan
Gạo xay xát, gạo chưa xay xát và gạo thơm
Hạn ngạch thuế quan
Sản phẩm từ gạo
Xóa bỏ thuế trong vòng 7 năm
Ngô ngọt
Hạn ngạch thuế quan
Tinh bột sắn
Hạn ngạch thuế quan
Mật ong
Xóa bỏ thuế ngay
Đường và các sản phẩm chứa hàm lượng đường Hạn ngạch thuế quan
cao
Rau củ quả, rau củ quả chế biến, nước hoa quả
Phần lớn xóa bỏ thuế ngay


Tỏi
Hạn ngạch thuế quan
Túi xách, va li
Phần lớn xóa bỏ thuế ngay
Sản phẩm nhựa
Phần lớn xóa bỏ thuế ngay
Sản phẩm gốm xứ thủy tinh
Phần lớn xóa bỏ thuế ngay
b. Cam kết mở cửa thị trường hàng hóa của Việt Nam
13


Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế quan ngay sau khi EVFTA có hiệu lực cho hàng
hóa của EU thuộc 65% số dòng thuế trong biểu thuế.
Trong vòng 10 năm kể từ khi EVFTA có hiệu lực, Việt Nam cam kết sẽ xóa bỏ
trên 99% số dòng thuế trong biểu thuế. Số dòng thuế còn lại sẽ áp dụng hạn ngạch
thuế quan với mức thuế trong hạn ngạch là 0%.
2.2.2.2. Thương mại dịch vụ và đầu tư
Cam kết của Việt Nam và EU trong EVFTA về thương mại dịch vụ đầu tư
hướng tới việc tạo ra một môi trường đầu tư cởi mở, thuận lợi cho hoạt động của các
doanh nghiệp hai bên, trong đó:
- Cam kết của EU cho Việt Nam: Cao hơn cam kết của EU trong WTO và
tương đương với mức cao nhất của EU trong các FTA gần đây của EU
- Cam kết của Việt Nam cho EU: Cao hơn cam kết của Việt Nam trong WTO
và ít nhất là ngang bằng với mức mở cửa cao nhất mà Việt Nam cho các đối tác khác
trong các đàm phán FTA hiện tại của Việt Nam (bao gồm cả TPP).
2.2.2.3. Cam kết của hai Bên về hàng rào phi thuế quan
 Rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT)
Hai Bên thỏa thuận tăng cường thực hiện các quy tắc của Hiệp định về các Rào
cản kỹ thuật (TBT) đối với thương mại của WTO, trong đó Việt Nam cam kết tăng
cường sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong ban hành các quy định về TBT của mình.
Hiệp định có 01 Phụ lục riêng quy định về các hàng rào phi thuế đối với lĩnh
vực ô tô, trong đó Việt Nam cam kết công nhận toàn bộ Chứng chỉ hợp chuẩn đối với
ô tô (COC) của EU sau 5 năm kể từ khi EVFTA có hiệu lực;
Việt Nam cam kết chấp nhận nhãn “Sản xuất tại EU” (Made in EU) cho các sản


phẩm phi nông sản (trừ dược phẩm) đồng thời vẫn chấp nhận nhãn xuất xứ cụ
thể ở một nước EU.
 Các biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS)
14


Việt Nam và EU đạt được thỏa thuận về một số nguyên tắc về SPS nhằm tạo
điều kiện cho hoạt động thương mại đối với các sản phẩm động vật, thực vật. Đặc
biệt, Việt Nam công nhận EU như một khu vực thống nhất khi xem xét các vấn đề về
SPS.
 Các biện pháp phi thuế quan khác
Hiệp định cũng bao gồm các cam kết theo hướng giảm bớt hàng rào thuế quan
khác (ví dụ về cam kết về cấp phép xuất khẩu/nhập khẩu, thủ tục hải quan…) nhằm
tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai Bên.
2.2.2.4. Quy tắc xuất xứ
Hàng hóa sẽ được coi là có xuất xứ tại một Bên (Việt Nam hoặc EU) nếu đáp
ứng được một trong các điều kiện sau:
- Có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại lãnh thổ của Bên xuất
khẩu;
- Không có xuất xứ thuần túy hoặc không được sản xuất toàn bộ tại lãnh thổ
của Bên xuất khẩu nhưng đáp ứng được các yêu cầu sau:
+ Các nguyên tắc xác định xuất xứ chung: hàm lượng giá trị nội địa (LVC)
không dưới 40% hoặc thay đổi mã số hàng hoá ở cấp bốn 4 số (quy tắc chuyển đổi
nhóm-CTH).
+ Các quy tắc xuất xứ riêng cho những loại hàng hóa nhất định: Điều 5 Chương
4 của EVFTA đưa ra khái niệm “Sản phẩm được sản xuất hoặc chế biến đầy đủ”. Theo
đó, các sản phẩm được xem như được sản xuất hoặc chế biến đầy đủ nếu đáp ứng
được Tiêu chí xác định xuất xứ đối với mặt hàng cụ thể (PSR) tại Phụ lục II. Chú ý:
Điều 6 Chương 4 đưa ra danh sách các công đoạn "gia công, chế biến giản đơn" liên
quan đến hàng hóa sẽ không được công nhận tình trạng hàng hóa có nguồn gốc, không
cần xem xét các yêu cầu của Điều 5 có đáp ứng hay không.
2.2.2.5. Sở hữu trí tuệ
Phần sở hữu trí tuệ trong EVFTA gồm các cam kết về bản quyền, phát minh,
sáng chế, cam kết liên quan tới dược phẩm và chỉ dẫn địa lý... Về cơ bản, các cam kết
15


về sở hữu trí tuệ của Việt Nam là phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Về
chỉ dẫn địa lý, Việt Nam bảo hộ trên 160 chỉ dẫn địa lý của EU (bao gồm 28 thành
viên) và EU bảo hộ 39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam. Các chỉ dẫn địa lý của Việt Nam
đều liên quan tới nông sản, thực phẩm. EU cam kết sẽ tạo khung pháp lý hoàn chỉnh
để thúc đẩy các sản phẩm nhập khẩu có chất lượng từ Việt Nam điển hình như trà Mộc
Châu hay cà phê Buôn Ma Thuột.


16

CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG CỦA CPTPP VÀ EVFTA ĐẾN
NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
3.1. Chủ trương và tiến trình hội nhập của Việt Nam
Kể từ khi Đổi mới, Đảng và Nhà nước đã nhất quán với chủ trương từng bước
mở rộng không gian và phạm vi lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế, cụ thể là “tham gia
phân công lao động quốc tế, “mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, đến “hội nhập thị
trường khu vực và thị trường quốc tế, “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực,
“chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế
trên những lĩnh vực khác” và “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Tiếp đến, Đại
hội Đảng XII tiếp tục khẳng định chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời nhấn
mạnh “hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị dưới
sự lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước”.
Với định hướng trên, Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế
trong hơn 20 năm qua. Việt Nam gia nhập ASEAN vào tháng 7/1995 là một bước đột
phá trong tiến trình hội nhập quốc tế. Tham gia ASEAN, Việt Nam đã thực hiện đầy
đủ các cam kết thuế quan và phi thuế quan. Đến tháng 1/2007, gia nhập WTO đánh
dấu sự hội nhập toàn diện của Việt Nam với nền kinh tế thế giới. Sau khi gia nhập
WTO, Việt Nam đã thực hiện nhiều cải cách về chính sách và thể chế kinh tế để đảm
bảo tuân thủ các cam kết, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Tiếp sau đó, Việt Nam

đã tham gia đàm phán 12 HĐTM tự do với 56 quốc gia và các nền kinh tế trên thế
giới.
Tuy nhiên, các đánh giá về hội nhập quốc tế trong ngành nông nghiệp cho đến
gần đây cho thấy mặc dù cũng đã đạt được một số kết quả tích cực như mở rộng thị
trường, tăng kim ngạch xuất khẩu, cải thiện năng lực cạnh tranh, tạo việc làm, cải
thiện thu nhập cho người dân và giảm nghèo, nhưng một số lợi ích mang lại chưa như
mong đợi và thấp hơn so với các ngành khác. Sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào
nguyên liệu nhập khẩu. Cạnh tranh nông sản yếu, chất lượng và vệ sinh an toàn thực
phẩm thấp. Thu nhập của nông dân và hiệu quả doanh nghiệp có cải thiện nhưng
không nhiều.
17

CPTPP và EVFTA là những HĐTM thế hệ mới với mức độ hội nhập sâu rộng
và toàn diện nhất từ trước tới nay. Khác với các HĐTM trước đây, các HĐTM thế hệ
mới này có một số đặc điểm chính như: i) phạm vi cam kết rộng: thực thi cam kết gắn
với phát triển bền vững về kinh tế - xã hội - môi trường, không chỉ bao gồm các cam
kết thương mại thuần túy mà mở rộng thêm nhiều cam kết khác như chính sách trong
nước, cạnh tranh, minh bạch hóa, lao động, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm công
…; ii) mức độ mở cửa sâu rộng hơn so với WTO: xóa bỏ hầu hết các dòng thuế, mở
cửa mạnh các lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, mua sắm chính phủ, sở hữu trí tuệ
…; iii) nhiều cam kết về thể chế pháp lý: với yêu cầu về đổi mới chính sách, thể chế
trong thực thi các cam kết (vai trò của nhà nước, quyền lợi của đầu tư nước ngoài, đối
xử bình đẳng…); iv) lộ trình thực thi cam kết tương đối ngắn, thông thường khoảng từ


5-7 năm, v) dẫn dắt bởi các đối tác lớn trên thế giới như Mỹ, EU, Nhật Bản, Canada
và vi) cơ chế giải quyết tranh chấp mạnh hơn: chế tài khắt khe, quyền của khu vực tư
nhân được quyền kiện khu vực nhà nước khi phát sinh những chi phí tổn thất do khu
vực nhà nước gây ra.
Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đồng nghĩa với việc Việt Nam tham gia một

sân chơi với các đối thủ và đối tác mạnh với trình độ, năng lực cao, nền kinh tế và hệ
thống luật pháp hiện đại. Trong các HĐTM thế hệ mới, Việt Nam cũng phải tuân thủ
các cam kết sâu rộng, bình đẳng với các nước. Các điều khoản ngoại lệ và mức hỗ trợ
cho các nước đang phát triển rất hạn chế và gần như bị loại bỏ so với các HĐTM
trước đây.
3.2. Các cam kết chính trong CPTPP và EVFTA liên quan đến ngành nông
nghiệp
Cam kết thuế: Mức độ mở cửa thị trường đối với nông sản tương đối lớn.
Trong khuôn khổ hiệp định CPTPP, các nước thành viên cắt giảm trên 48% số dòng
thuế nông nghiệp về 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực và đạt mức trên 60% sau 10
năm, riêng Úc và Singapore thì hầu hết các dòng thuế nông sản về 0% ngay năm đầu
tiên. Trong khuôn khổ hiệp định EVFTA, Việt Nam cam kết cắt giảm 24% số dòng
thuế nông sản cam kết về 0% ngay năm đầu và cắt giảm 99% sau 10 năm. Các nước
EU cắt giảm về 0% lần lượt năm 1 và sau 10 năm là 74,6% và 97,3% số dòng thuế
nông nghiệp cam kết.
18

Đối với cam kết thuế các nước CPTPP và EU áp đối với hàng nông sản nhập
khẩu từ Việt Nam, các nước đã tham gia các FTA với Việt Nam (AANZFTA, ATIGA,
VJEPA, VCFTA) như Úc, New Zealand, Brunei, Singapore, việc cắt giảm thuế đã vào
giai đoạn cuối theo lộ trình cam kết, tác động về thuế đối với nông sản gần như không
đáng kể. Thuế suất hiện hành của các nước này áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu
chính của Việt Nam đa phần đã về 0% (tôm, cá tra, điều, tiêu, cà phê…). Một số mặt
hàng (rau quả chế biến, gỗ nguyên liệu) vẫn còn dư địa thuế nhưng cũng ở mức thấp,
từ 0-5%. Đối với các nước thành viên CPTPP và EU đã tham gia WTO, các nước này
áp dụng lộ trình cắt giảm thuế ngắn đối với các mặt hàng còn dư địa thuế cao. Mexico
giảm thuế nhập khẩu tiêu, điều từ 20% về 0% ngay trong năm đầu tiên, EU xóa bỏ gần
như hoàn toàn thuế nhập khẩu rau quả tươi ngay khi EVFTA có hiệu lực. Tuy nhiên,
đối với một số mặt hàng nông sản cần được bảo hộ, các nước này vẫn được phép duy
trì hàng rào thuế quan. Cụ thể, Mỹ áp thuế từ 0-131.8% với lộ trình cắt giảm trong 10

năm đối với các mặt hàng hoa quả tươi và chế biến; Mexico áp thuế từ 0-245% với lộ
trình cắt giảm 15 năm cũng đối với mặt hàng kể trên. Nhật Bản vẫn duy trì mức thuế
gần 400% đối với nhập khẩu lúa gạo mặc dù có thể sẽ xem xét nhập gạo từ các nước
trong khối theo hạn ngạch.
Về cam kết của Việt Nam đối với nông sản nhập khẩu, đối với các nước đã có
FTA với Việt Nam (AANZFTA, VJEPA, ATIGA, VCFTA), CPTTP và EVFTA, thuế
nhập khẩu hiện hành của Việt Nam áp dụng cho nhiều mặt hàng đã về 0% (cám, sắn,
bột cá) hoặc duy trì ở mức thấp từ 0-7% (thịt bò, thịt lợn, ngô, đậu tương, phân bón).
Đối với các nước còn lại trong CPTPP và EVFTA, cắt giảm thuế sẽ tạo cơ hội cho các
nước này xuất khẩu mạnh vào Việt Nam do thuế Việt Nam áp dụng với các quốc gia
này hiện ở mức cao, ví dự dao động từ 15-40% đối với sản phẩm chăn nuôi. Khi


CPTPP và EVFTA có hiệu lực, hàng rào thuế của Việt Nam sẽ dần bị dỡ bỏ, chậm
nhất trong 13 năm. Đối với nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, gỗ nguyên liệu hay đầu vào
sản xuất khác như phân bón, thuốc trừ sâu, mức thuế của Việt Nam đang áp dụng
không cao, nên việc cắt giảm về 0% khi CPTPP và EVFTA hiệu lực thì mức độ ảnh
hưởng sẽ không nhiều.
Cam kết nguồn gốc xuất xứ: Hàng hóa xuất nhập khẩu muốn được hưởng ưu
đãi về thuế, phi thuế hay hạn ngạch như theo cam kết thì cần phải đáp ứng được yêu
19

cầu về quy tắc nguồn gốc xuất xứ. CPTPP và EVFTA đều quy định về quy tắc nguồn
gốc xuất xứ thuần túy hoặc giá trị nội khối đối với nông sản. Trong CPTPP yêu cầu
xuất xứ thuần túy: gạo, sữa (nguyên liệu sữa bơ), và hàm lượng giá nguyên liệu nội
khối >40% đối với NLTS khác. Trong EVFTA yêu cầu xuất xứ thuần túy: gạo, điều
bóc vỏ, tiêu, cà phê, thủy sản CB, tôm, thịt lợn, thit bò, thịt gà… và giá trị gia tăng nội
khối > 30% đối với cao su, đồ gỗ nội thất và một số sản phẩm khác. Đối với các sản
phẩm rau quả chế biến và các sản phẩm chế biến khác thường phải áp dụng quy tắc
chuyển đổi mã HS. Ngoài ra, EVFTA trong một số trường hợp có quy định chặt chẽ

hơn CPTPP như yêu cầu về xuất xứ thuần túy hoặc vừa yêu cầu giá trị nguyên vật liệu
đầu vào không quá 70% giá xuất xưởng vừa phải có công đoạn sản xuất, chế biến tại
Việt Nam hay EU, ví dụ như đối với sản phẩm đồ gỗ.
Cam kết An toàn thực phẩmvà kiểm dịch động thực vật (SPS) và Hàng rào
kỹ thuật đối với thương mại (TBT): Cam kết SPS và TBT của CPTPP và EVFTA đều
được xây dựng trên nền tảng của hiệp định WTO, được thừa nhận và vẫn tạo khuôn
khổ pháp lý đầy đủ và tính linh động trong quá trình trao đổi thương mại.
Đối với cam kết SPS, cần lưu ý các cam kết về công nhận tương đương, thanh
tra, kiểm tra, chứng nhận, minh bạch hóa, biện pháp khẩn cấp đối với Việt Nam. Đây
là những điểm mà năng lực của hệ thống quản lý và vận hành trong nước để thực hiện
còn yếu và khó đáp ứng kịp thời.
Về quy định công nhận tương đương, bên nhập khẩu sẽ công nhận các biện
pháp SPS của bên xuất khẩu là có hiệu quả tương đương với biện pháp SPS của nước
mình khi bên xuất khẩu chứng minh được các biện pháp SPS của mình đạt được: (i)
mức độ bảo vệ tương tự hoặc (ii) mục tiêu như biện pháp của Bên nhập khẩu.
Về yêu cầu minh bạch hóa, các nước phải công bố cả bản dự thảo và văn bản
chính thức về quy định liên quan đến SPS của nước mình. Trong đó, các bản dự thảo
về quy định SPS phải công bố cho các nước thành viên trước khi phê duyệt trong
vòng 60 ngày để các nước có góp ý và bày tỏ quan ngại.
Về thanh tra, kiểm tra và chứng nhận, các nước thực hiện kiểm tra, thanh tra và
chấp nhận không gây chậm trễ và không kém phần thuận lợi giữa sản phẩm nhập khẩu
so với sản phẩm tương tự trong nước.
20

Về các biện pháp khẩn cấp, cả TPP và EVFTA đều công nhận các bên có quyền
lập nên các rào cản SPS ngay lập tức trong trường hợp sức khỏe con người, động thực
vật trong nước bị đe dọa nghiêm trọng. Ngoài ra, khi các nước thành viên phát hiện vi
phạm các nguyên tắc trong xây dựng SPS đã được quy định, các nước có quyền khiếu



nại, khiếu kiện tại nước nhập khẩu hoặc đề nghị Chính phủ can thiệp qua cơ chế giải
quyết tranh chấp được quy định trong từng Hiệp định.
Đối với cam kết TBT, so với quy định TBT/WTO, quy định TBT trong TPP,
EVFTA có các điểm mới cần lưu ý bao gồm: (i) tính minh bạch hóa và (ii) việc xóa bỏ
điều khoản đối xử đặc biệt với các nước đang phát triển. Quy định về tính minh bạch
hóa trong ban hành và thực hiện TBT tương tự như trong quy định về biện pháp SPS.
Ngoài ra, các nước thành viên phải cho phép tổ chức và cá nhân của bên khác tham
gia vào quá trình xây dựng biện pháp TBT của các cơ quan trung ương, với điều kiện
không kém thuận lợi hơn các tổ chức, cá nhân trong nước. Bên cạnh đó, cam kết TBT
của TPP và EVFTA đã xóa bỏ điều khoản đối xử đặc biệt của các nước đang phát
triển. Như vậy, Việt Nam sẽ không còn được đối xử ưu đãi như trong WTO và phải
chấp hành tất cả các thủ tục quy định như đối với các nước phát triển.
Cam kết đầu tư: Về cơ bản, cam kết đầu tư trong CPTPP và EVFTA được quy
định với một số điểm tương đồng i) đối xử với nhà đầu tư của nước thành viên không
kém ưu đãi hơn trong nước hoặc ngoài khối, ii) cấm sử dụng chính sách điều kiện đầu
tư, iii) đền bù thiệt hại cho nhà đầu tư trong khối trong trường hợp xung đột vũ trang,
bất ổn xã hội và chính sách nhà nước, iv) Không trưng dụng hoặc quốc hữu hóa khoản
đầu tư (trừ một số ngoại lệ1), v) công nhận chuyển nhượng tài sản; vi) Nhà đầu tư có
quyền kiện nhà nước. Bên cạnh đó, các nước thành việc có quyền điều tiết trong nước
đề đạt mục tiêu môi trương trường, sức khỏe, bảo vệ người tiêu dùng và được quyền
từ chối đầu tư nếu phát hiện vi phạm pháp luật, …
Cam kết sở hữu trí tuệ: Hiệp định CPTPP và EVFTA đều quy định chung về
vấn đề hợp tác và thực thi.Bao gồm các cam kết về nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, bằng
sang chế, thông tin bí mật. Chỉ có EVFTA có cam kết bảo hộ giống cây trồng.
1 Trường hợp ngoại lệ: Ngoại lệ của EVFTA gồm lợi ích công, có đền bù và phù hợp với pháp
luật của nước sở
tại. Còn ngoại lệ của TPP thì chỉ có lợi ích công, có đền bù mà không đề cập đến pháp luật
nước sở tại.
21


Cam kết lao động: CPTPP và EVFTA khẳng định lại nguyên tắc và quyền cơ
bản về lao động trong Tuyên bố 1998 của ILO, ngành nông nghiệp cần lưu ý 2 vấn đề
về (i) quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể của người LĐ và sử dụng LĐ; (ii)
cấm sử dụng LĐ trẻ em, xóa bỏ các hình thức LĐ trẻ em tồi tệ nhất2;
Cam kết doanh nghiệp nhà nước: CPTPP và EVFTA yêu cầu quy định minh
bạch về thông tin doanh nghiệp nhà nước và giảm hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp sẽ không được hưởng chính sách ưu đãi
đặc biệt nào từ nhà nước mà gây bóp méo thị trường, không được hưởng bất cứ hỗ trợ
tài chính nào trực tiếp hay gián tiếp, và hoạt động minh bạch hơn trong xuất khẩu…
3.3. Cơ hội đối với ngành nông nghiệp
Cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu với các mặt hàng chiến lược và có lợi
thế nhờ các cam kết cắt giảm thuế quan: Xuất khẩu nông sản là một trong những
động lực giúp Việt Nam đạt được những thành tựu tăng trưởng khá ấn tượng. Việc
thực thi cam kết cắt giảm thuế quan của các nước có thể giúp đẩy mạnh xuất khẩu các


nông sản chiến lược và có lợi thế của Việt Nam. Đồng thời Việt Nam có nhiều cơ hội
hơn trong lựa chọn thị trường và lựa chọn đối tác trong thương mại. Cụ thểcơ hội từ
giảm thuế đối với một số mặt hàng và thị trường như sau:

Gạo: Việt Nam sẽ có cơ hội cạnh tranh tốt hơn với đối thủ chính là Thái
Lan (không tham gia CPTPP) khi xuất khẩu gạo sang các nước như Nhật Bản, Mỹ,
Mexico và đặc biệt là Malaysia. Việt Nam có cơ hội ở mức trung bình với CPTPP cho
các thị trường Nhật Bản, Mỹ, Mexico và thấp với EU do yêu cầu chất lượng cao, áp
dụng thuế hạn ngạch hoặc lộ trình giảm thuế kéo dài 10-11 năm. Riêng đối với
Malaysia, Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu gạo mạnh mẽ khi Malaysia cam kết giảm
mạnh thuế nhập khẩu đối với các loại gạo (gạo tấm, gạo lứt, gạo đã xay) từ 15-20% về
0% trong vòng 11 năm năm khi CPTPP có hiệu lực.

Rau quả: Hiện nay, thị trường xuất khẩu rau quả (tươi, khô, đông lạnh,

ướp lạnh) chính của Việt Nam là Trung Quốc, Nhật, Mỹ, Nga. Việt Nam có thể đẩy
mạnh xuất khẩu sang các thị trường Mỹ, Úc, NewZealand, Nhật Bản, Canada, EU,…
do nhu cầu thị trường lớn, mức độ giảm thuế sâu (từ 6-30%) và theo lộ trình tương đối
2 Hai nguyên tắc khác của ILO là xóa bỏ lao động cưỡng bức và bắt buộc; và xóa bỏ mọi hình
thức phân biệt
đối xử về việc làm và nghề nghiệp
22

nhanh (nhiều mặt hàng 1-6 năm). Tương tự, rau quả chế biến cũng có cơ hội lớn
khimức cắt giảm thuế tương đối cao (6-20% trong 6-16 năm với CPTPP, 15%-40%
trong 8 năm với EU tùy theo nước và chủng loại). Riêng Mỹ đang áp dụng mức thuế
cao cũng sẽ cắt giảm nhưng vẫn giữ ở mức bảo hộ cao.

Cà phê: Hiện nay, thị trường xuất khẩu chính cho mặt hàng cà phê
nguyên liệu là Đức, Mỹ, Tây Ban Nha, và cho mặt hàng cà phê chế biến là Mỹ, Nhật,
Trung Quốc. Cà phê có cơ hội trung bình với CPTPP (lớn nhất là Mexico) và cao với
EU, đặc biệt dư địa giảm thuế của cà phê rang và hòa tan còn nhiều.

Tiêu, điều: Cơ hội thấp với CPTPP (lớn nhất là Mexico) và trung bình
với EU do dư địa giảm thuế không nhiều hoặc cơ bản đã về 0% và yêu cầu chất lượng
VSATTP Việt Nam chưa đáp ứng. Việt Nam có cơ hội tăng khả năng cạnh tranh với
đối thủ Brazil (không tham gia CPTPP và không có FTA với Mexico) để chiếm lĩnh


thị trường Mexico có mức giảm thuế mạnh từ 20% xuống 0% ngay trong năm đầu
tiên.

Cao su tự nhiên: Cơ hội thấp với CPTPP (lớn nhất là Chi Lê) và EU do
thuế cơ bản đã về 0% và cung thế giới đã vượt cầu.


Gỗ và sản phẩm gỗ: Đồ gỗ chế biến có cơ hội thấp với CPTPP (lớn nhất
là Peru và Chile) và EU do thuế cơ bản đã về 0% hoặc các thị trường không có nhu
cầu lớn với đồ gỗ chế biến. Dăm gỗ cũng còn cơ hội thấp do Nhật Bản là thị trường có
nhu cầu và nhập khẩu lớn dăm gỗ lớn thứ 2 từ Việt Nam nhưng thuế đã về 0%.

Thủy sản: Hiện nay, thị trường xuất khẩu thủy sản chính của Việt Nam
là Mỹ, Nhật, EU, và Mexico. Thủy sản có cơ hội khai thác và đẩy mạnh xuất khẩu ở
các thị trường EU, Nhật, Mexico, Mỹ và Canada do mức độ giảm thuế lớn (tôm, cá tra
6%-20% và một số nước giảm ngay năm đầu tiên)hoặc các đối thủ chính chưa có FTA
với các nước thị trường chính của Việt Nam. Mức thuế của các nước CPTPP (cắt giảm
từ 6 – 20% về 0%) và EU (0-26% về 0%) áp cho thủy sản chế biến (cá hộp …) nhập
khẩu cũng được cắt giảm mạnh trong vòng 8-10 năm.
Cơ hội nhập khẩu đa dạng hóa nguồn cung nguyên liệu đầu vào cho sản
xuất nông nghiệp: Hiện nay, Việt Nam đang phải nhập khẩu nhiều đầu vào như thức
23

ăn chăn nuôi (ngô, đậu tương, bột cá), phân bón, thuốc trừ sâu, máy nông nghiệp. Tuy
nhiên, hiện nay, Việt Nam đã duy trì mức thuế thấp từ 0%-5% với hầu hết các mặt
hàng này nên cơ hội đẩy mạnh nhập khẩu các mặt hàng này từ CPTPP và EU ở mức
thấp.
Cơ hội nâng cao chất lượng sản phẩm và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa
nhờ cắt giảm thuế nhập khẩu của Việt Nam và tuân thủ các quy định SPS và TBT:
Người tiêu dùng Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội tiêu thụ nhiều hơn các sản phẩm thịt bò
(từ Úc, Mỹ, EU), lợn (Mỹ, EU,…), gà (Mỹ,…), sữa và các sản phẩm từ (Úc,
NewZealand, Nhật,…) vốn đang khá được ưa chuộng tại thị trường Việt Nam. Ngoài
ra, một số sản phẩm trái cây ôn đới, thủy sản mà Việt Nam không có cũng có cơ hội
tăng nhập khẩu phục vụ người tiêu dùng trong nước
Ngoài ra, các cam kết SPS và TBT tạo cơ hội/áp lực cho các ngành hàng Việt
Nam phải nâng cao chất lượng, VSATTP để xuất khẩu hoặc cạnh tranh với hàng nhập
khẩu. Bên cạnh đó,Việt Nam hoàn toàn có cơ hội sử dụng các rào cản SPS và TBT để

bảo vệ một cách hợp lý và phù hợp cam kết sản xuất trong nước, sức khỏe và quyền
lợi người tiêu dùng. Điều này vừa giúp nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng cho nông
sản phù hợp với định hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp vừa giúp người tiêu dùng
Việt Nam có cơ hội được tiêu thụ các sản phẩm có chất lượng và đảm bảo VSATTP.


Cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài:Trong thời gian
qua, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã hoặc đang có kế hoạch đầu tư ra nước ngoài vào
lĩnh vực nông lâm thủy sản. Đây là lĩnh vực đầu tư Việt Nam có thế mạnh và trong
năm 2015 đứng thứ 2 về tổng vốn đầu tư tăng thêm (sau khai khoáng). Tuy nhiên,
doanh nghiệp Việt Nam vẫn tập trung vào các thị trường truyền thống như Lào,
Campuchia, và gần đây là Myanmar. Các cam kết đầu tư rộng mở của CPTPP và
EVFTA sẽ mở ra cơ hội đa dạng hóa các thị trường đầu tư tiềm năng ở nước ngoài cho
doanh nghiệp Việt Nam, một mặt có thể tránh các rào cản phi thương mại của các
nước nhập khẩu, một mặt có thể đầu tư vào các ngành Việt Nam không có lợi thế
nhưng lại là lợi thế của các nước để sản xuất hàng hóa cung cấp trở lại cho thị trường
Việt Nam và xuất sang các nước khác như Úc và NewZealand (sữa và các sản phẩm từ
sữa, bò thịt, thuộc da, gỗ…), Mỹ (bông, chăn nuôi,…),…
24

Cơ hội cải thiện môi trường kinh doanh và thu hút đầu tư: Thực hiện các
cam kết trong CPTPP và EU (như đầu tư, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm công,…)
tạo áp lực và cơ hội để Việt Nam cải thiện năng lực quản trị, môi trường kinh doanh,
các quy trình thủ tục trong nước, các điều kiện về thương mại và hậu cần,… từ đó mở
ra cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài đặc biệt vào các lĩnh vực mà Việt Nam còn yếu
kém như công nghệ cao trong nông nghiệp và chế biến nông lâm thủy sản (gạo, cà
phê,…). Thêm vào đó, không chỉ các nhà đầu tư từ CPTPP, EU mà cả từ các nước
ngoại khối cũng sẽ có động cơ đầu tư vào Việt Nam để tận dụng lợi thế thành viên của
Việt Nam để tiếp cận và mở rộng các thị trường trong khối,…
Cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh: CPTPP và EVFTA sẽ tạo cơ hội cho

doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận tốt hơn với công nghệ, cải thiện năng lực quản lý, đặc
biệt áp lực cạnh tranh sẽ buộc các doanh nghiệp phải tự đổi mới để nâng cao năng lực
cạnh tranh của mình.
3.4. Thách thức đối với ngành nông nghiệp
Thách thức gia tăng cạnh tranh với hàng nhập khẩu và khả năng bảo hộ
sản phẩm trong nước: Việc cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ tăng sức ép cạnh tranh cho
nhà sản xuất trong nước, không chỉ về giá mà còn về chất lượng và VSATTP. Ngành
dự báo gặp bất lợi nhất là chăn nuôi. Các mặt hàng đều có dư địa thuế tương đối cao
nhưng thịt gà và thịt lợn có lộ trình dài (8-10 năm) trong khi thịt bò, sữa và các sản
phẩm từ sữa có lộ trình giảm nhanh (0-3 năm). Như vậy, trong ngắn hạn và dài hạn,
ngành chăn nuôi sẽ đối mặt với áp lực cạnh tranh lớn từ hàng nhập khẩu từ Mỹ (thịt
bò, gà), New Zealand và Úc (thịt bò, sữa), Canada, Tây Ban Nha và Đan Mạch (thịt
lợn), Pháp, Hà Lan (sữa),… Trong khi đó, Việt Nam ít có khả năng đưa ra được các
biện pháp SPS và TBT do năng lực yếu trong nghiên cứu cơ sở khoa học, trong đánh
giá tác động và rủi ro để bảo vệ các biện pháp trước các quan ngại thương mại của các
nước. Thời gian để xây dựng hệ thống cơ sở khoa học tương đối dài (3-5 năm hoặc
nhiều hơn) với chi phí tốn kém trong khi nguồn lực trong nước khó khăn. Thêm vào
đó, sự phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc xây dựng các biện pháp này còn lỏng
lẻo. Một thực tế khác là thường xảy ra tình trạng các nước “trả đũa” hoặc “có đi, có
lại”. Nếu Việt Nam đưa ra biện pháp này với sản phẩm này, nước đối tác có thể đưa ra
biện pháp khác với sản phẩm khác trong khi Việt Nam khó có thể có năng lực để theo
25



×