Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.37 KB, 34 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẬP KẾ HOẠCH KIỂM
TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
A. LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
I. KHÁI QUÁT VỀ KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Hoạt động kiểm toán là một hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát
triển của nền kinh tế. Song song với sự phát triển đa dạng, rộng khắp và ngày càng qui
mô của các công ty kiểm toán, hoạt động kiểm toán đã được khẳng định là một yếu tố
tích cực, đảm bảo cho các luật lệ và chuẩn mực kế toán được giữ vững; các tài liệu, số
liệu kế toán được trung thực. Điều đó đã làm cho kiểm toán trở thành một việc làm rất
được quan tâm, không những đối với các chủ doanh nghiệp và các cơ quan chức năng
Nhà nước mà còn đối với những đối tượng khác nhau có liên quan đến hoạt động của
doanh nghiệp, như các cổ đông, các bên tham gia liên doanh, các nhà đầu tư cho vay
vốn, các khách hàng, tập thể lao động… Mỗi tài liệu báo cáo kiểm toán luôn được
người quan tâm coi trọng, coi nó như một yếu tố không thể thiếu khi đưa ra những
quyết định.
Theo chức năng cụ thể của kiểm toán, hoạt động kiểm toán được chia ra thành
ba loại cơ bản, bao gồm: kiểm toán tài chính, kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân
thủ. Tuy nhiên, kiểm toán tài chính là hoạt động đặc trưng nhất của kiểm toán bởi nó
chứa đựng đầy đủ “sắc thái kiểm toán” ngay từ khi ra đời cũng như trong quá trình phát
triển. Đặc trưng cơ bản đó của kiểm toán tài chính bắt nguồn từ chính đối tượng kiểm
toán tài chính và từ quan hệ chủ thể - khách thể kiểm toán. “Kiểm toán tài chính là
hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về các bảng khai tài chính của các thực thể kinh
tế do những người có trình độ nghiệp vụ tương xứng đảm nhận dựa trên hệ thống
pháp lý đang có hiệu lực”
Đối tượng cụ thể của kiểm toán tài chính là các bảng khai tài chính. Bộ phận
quan trọng của những Bảng khai này là Báo cáo tài chính. Là bảng tổng hợp, các bảng
khai này đều chứa đựng những thông tin lập ra tại một thời điểm cụ thể trên cơ sở
những tài liệu kế toán tổng hợp và chi tiết dựa trên những nguyên tắc nhất định. Do đó,
mỗi thông tin chứa đựng trong mỗi bảng khai tài chính trên một khoản mục cụ thể đều
mang trong mình nhiều mối quan hệ theo những hướng khác nhau… Chính vì vậy, để
xác minh và bày tỏ ý kiến về Bảng khai tài chính, kiểm toán tài chính không thể tách rời


các tài liệu kế toán, các hoạt động kinh doanh và tổ chức quản lý của đơn vị nhằm xác
minh cụ thể độ tin cậy của từng khoản mục cũng như mối quan hệ kinh tế chứa đựng
trong các số dư, trong các chỉ tiêu phản ánh các mối quan hệ bên trong của hoạt động
tài chính.
Khi tiến hành kiểm toán, có hai cách cơ bản để tiếp cận và phân chia các Bảng
khai tài chính thành các phần hành kiểm toán: theo khoản mục hoặc theo chu trình.
Tiếp cận theo khoản mục trên Báo cáo tài chính: Là cách phân chia máy móc
từng khoản mục hoặc nhóm các khoản mục theo thứ tự trong các Bảng khai vào một
phần hành. Cách tiếp cận này tuy đơn giản, tiết kiệm thời gian và dễ thực hiện song lại
không hiệu quả, do tách biệt những khoản mục ở vị trí khác nhau nhưng lại có liên hệ
chặt chẽ với nhau, như hàng tồn kho và giá vốn hàng bán chẳng hạn.
Tiếp cận theo chu trình: Là cách chia thông dụng hơn căn cứ vào mối liên hệ
chặt chẽ lẫn nhau giữa các khoản mục, các quá trình cấu thành, các yếu tố trong một
chu trình chung của hoạt động tài chính. Cách tiếp cận này hiệu quả hơn do xuất phát từ
mối liên hệ vốn có của các nghiệp vụ và từ đó thu gom được các đầu mối của các mối
liên hệ trong kinh tế và trong ghi sổ kế toán chứa đựng trong Bảng khai tài chính.
Mặt khác, cùng với các quan hệ nội tại, Bảng khai tài chính còn chứa đựng
những mối quan hệ về tài chính và quản lý và từ đó - về quan hệ chủ thể - khách thể
kiểm toán. Theo nguyên tắc chung về tổ chức kế toán, Bảng khai tài chính của mỗi đơn
vị được lập ra trước hết từ các đơn vị kế toán cơ sở. Các đơn vị này có thể là một đơn vị
độc lập riêng biệt hoặc là đơn vị thành viên của đơn vị hợp nhất, song đều có tư cách
pháp nhân. Vì vậy, trong mọi trường hợp, khách thể kiểm toán cần được “pháp lý hoá”
trong từng cuộc kiểm toán cụ thể thông qua hợp đồng kiểm toán (với kiểm toán độc lập)
hoặc quyết định kiểm toán (với kiểm toán nhà nước hoặc kiểm toán nội bộ). Nói cách
khác, khách thể kiểm toán là những thực thể kinh tế tương đối độc lập, có nhu cầu xác
minh các bảng khai tài chính. Thông thường, kiểm toán tài chính được thực hiện bởi
kiểm toán độc lập, hoặc kiểm toán nhà nước. Trong một số trường hợp, chủ thể kiểm
toán có thể là kiểm toán nội bộ của những đơn vị có qui mô lớn với nhiều bộ phận
thành viên cơ sở. Trên thực tế, công việc kiểm toán báo cáo tài chính thường do các tổ
chức chuyên nghiệp thực hiện. Từ sự phân tích trên cho thấy, mối quan hệ giữa chủ thể

và khách thể kiểm toán là mối quan hệ ngoại kiểm, qua đó chức năng xác minh và bày
tỏ ý kiến được thực hiện một cách khách quan, làm cho hoạt động kiểm toán tài chính
mang tính độc lập và hiệu quả cao.
Mục tiêu của kiểm toán tài chính là nhằm xác định độ tin cậy của báo cáo tài
chính, làm căn cứ để doanh nghiệp quyết toán thuế đối với Nhà nước và các đối tượng
sử dụng thông tin đưa ra các quyết định phù hợp với lợi ích của họ. Vì thế, kiểm toán
báo cáo tài chính hướng tới việc bày tỏ ý kiến trên cơ sở các bằng chứng kiểm toán. Để
có được những bằng chứng này, kiểm toán viên cần vận dụng các phương pháp kỹ thuật
nghiệp vụ cụ thể nhằm đạt được mục tiêu kiểm toán đặt ra. Xét trên góc độ quá trình
ghi chép xử lý, kiểm soát các nghiệp vụ kinh tế phát sinh để phản ánh vào báo cáo tài
chính, người ta chia ra hai loại phương pháp kiểm toán; đó là phương pháp kiểm toán
chứng từ (cân đối, đối chiếu trực tiếp, đối chiếu logic) và phương pháp kiểm toán ngoài
chứng từ (kiểm kê, thực nghiệm, điều tra). Trong kiểm toán báo cáo tài chính, các
phương pháp kiểm toán cơ bản này được triển khai theo hướng chi tiết hoặc tổng hợp,
tuỳ thuộc vào tình huống cụ thể trong suốt quá trình kiểm toán. Mặt khác, đối tượng cụ
thể của kiểm toán tài chính là các Bảng khai tài chính, trong đó vừa phản ánh các mối
quan hệ kinh tế tổng quát, vừa phản ánh cụ thể từng loại tài sản, nguồn vốn. Vì vậy,
kiểm toán tài chính phải sử dụng liên hoàn các phương pháp kiểm toán cơ bản để đưa ra
ý kiến nhận xét chính xác về các tài liệu này.
II. QUY TRÌNH KIỂM TOÁN
Để đảm bảo tính hiệu quả, tính kinh tế và tính hiệu quả trong từng cuộc kiểm
toán, cũng như để thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có giá trị làm căn cứ cho
kết luận của kiểm toán viên về tính trung thực và hợp lý của số liệu trên Báo cáo tài
chính, cuộc kiểm toán thường được tiến hành theo quy trình gồm ba giai đoạn như sau:
 Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán
 Thực hiện kế hoạch kiểm toán
 Hoàn thành cuộc kiểm toán và công bố báo cáo tài chính.
Tuy nhiên, kiểm toán tài chính lại có những đặc thù riêng nên quy trình kiểm
toán báo cáo tài chính được thực hiện theo trình tự chung gắn với từng đối tượng cụ thể.
Các giai đoạn trong quy trình chung này là một chuỗi liên tục, xuyên suốt của công tác

kiểm toán. Trình tự kiểm toán được trình bày trên Sơ đồ 1.
Sơ đồ 1.1 . Trình tự kiểm toán tài chính
Lập kế hoạch tổng quát
Thu thập thông tin cơ sở
Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý
Đánh giá trọng yếu và rủi ro
Thẩm tra và đánh giá HT KSNB
Thư hẹn hoặc hợp đồng (kế hoạch chung) kiểm toán
Bằng chứng kiểm toán
Thư mời (lệnh) kiểm toán
Bước I
Chuẩn bị kiểm toán
Khai triển kế hoạch và chương trình KT
Chương trình bộ máy
Độ tin cậy của HT KSNB
Cao
Vừa
Thấp
Trắc nghiệm đạt yêu cầu
Trắc nghiệm vững chãi
Khả năng sai phạm
Thấp
Vừa
Cao
Thủ tục phân tích
Xác minh khoản then chốt
Thẩm tra sự kiện bất ngờ
Thẩm tra sự kiện tiếp theo
II.1. Trắc nghiệm công việc
Trắc nghiệm vững chãi

Bằng chứng kiểm toán
II.2. Trắc nghiệm phân tích và trực tiếp số dư
Xác minh chi tiết bổ sung
Bằng chứng kiểm toán

Không
Dựa vào HT KSNB không?
Bước
II
Thực hiện công việc kiểm toán
Bước III
Kết thúc công việc kiểm toán
Bằng chứng kiểm toán
Đánh giá kết quả và lập Báo cáo
Báo cáo kiểm toán

Bước I. Chuẩn bị kiểm toán: Từ thư mời (hoặc lệnh) kiểm toán, kiểm toán viên
tìm hiểu khách hàng với mục đích hình thành hợp đồng hoặc kế hoạch chung cho cuộc
kiểm toán. Tiếp đó, kiểm toán viên cần thu thập các thông tin về khách hàng, tìm hiểu
và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của khách thể kiểm toán để xây dựng kế hoạch
cụ thể và chương trình kiểm toán cho từng phần hành, đồng thời chuẩn bị các phương
tiện cùng lực lượng giúp việc (nếu cần) cho việc triển khai kế hoạch và chương trình
kiểm toán đã xây dựng.
Bước II. Thực hiện công việc kiểm toán: Đây là quá trình sử dụng các trắc
nghiệm vào việc xác minh các thông tin hình thành và phản ánh trên Bảng khai tài
chính. Trình tự kết hợp giữa các trắc nghiệm này trước hết tuỳ thuộc vào kết quả đánh
giá hệ thống kiểm soát nội bộ ở Bước I. Nếu hệ thống kiểm soát nội bộ được đánh giá
là không có hiệu lực thì các trắc nghiệm vững chãi sẽ được thực hiện ngay với số lượng
lớn. Ngược lại, nếu hệ thống kiểm soát nội bộ được đánh giá có hiệu lực thì trước hết
trắc nghiệm đạt yêu cầu được sử dụng để xác định khả năng sai phạm và tiếp đó các

trắc nghiệm vững chãi sẽ được áp dụng (với số lượng ít) để xác minh những sai sót có
thể có. Nếu trắc nghiệm đạt yêu cầu lại cho kết quả là hệ thống kiểm soát nội bộ không
có hiệu lực thì trắc nghiệm vững chãi sẽ lại thực hiện với số lượng lớn. Quy mô cụ thể
của các trắc nghiệm cũng như trình tự và cách thức kết hợp giữa chúng phụ thuộc rất
nhiều vào kinh nghiệm và khả năng phán đoán của kiểm toán viên với mục đích có
được bằng chứng đầy đủ và tin cậy với chi phí kiểm toán thấp nhất.
Bước III. Hoàn tất công việc kiểm toán: Kết quả các trắc nghiệm trên phải
được xem xét trong quan hệ hợp lý chung và kiểm nghiệm trong quan hệ với các sự
việc bất thường, những nghiệp vụ phát sinh sau ngày lập Bảng khai tài chính. Chỉ trên
cơ sở đó mới đưa được kết luận cuối cùng và lập Báo cáo kiểm toán.
III. VAI TRÒ CỦA LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI
CHÍNH
Lập kế hoạch là giai đoạn đầu tiên mà các kiểm toán viên cần thực hiện trong
mỗi cuộc kiểm toán nhằm tạo ra các điều kiện pháp lý cũng như những điều kiện cần
thiết khác cho kiểm toán. Lập kế hoạch không chỉ xuất phát từ yêu cầu chính của cuộc
kiểm toán, để chuẩn bị các điều kiện cơ bản cho cuộc kiểm toán, mà còn là nguyên tắc
cơ bản trong công tác kiểm toán đã được quy định thành chuẩn mực, có vai trò quan
trọng, chi phối tới chất lượng và hiệu quả chung của toàn bộ cuộc kiểm toán.
Nguyên tắc kiểm toán quốc tế thứ ba - Các nguyên tắc cơ bản xuyên suốt cuộc
kiểm toán – do IPAC (Ủy ban thực hành kiểm toán quốc tế) ban hành quy định: “Kiểm
toán viên phải lập kế hoạch kiểm toán để trợ giúp cho công việc kiểm toán tiến hành có
hiệu quả, đúng thời gian. Kế hoạch kiểm toán phải dựa trên cơ sở các hiểu biết về đặc
điểm kinh doanh của khách hàng”.
Tại đoạn 2, chuẩn mực Kiểm toán quốc tế ISA 300 quy định: “Chuyên gia kiểm
toán cần lập kế hoạch kiểm toán để có thể đảm bảo được rằng cuộc kiểm toán đó được
tiến hành một cách có hiệu quả.”
Tại đoạn 02, chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam VSA 300 - Lập kế hoạch kiểm
toán cũng đã nêu rõ: “Kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải lập kế hoạch để đảm
bảo cuộc kiểm toán được tiến hành một cách có hiệu quả”.
Có ba lý do chính khiến cho kiểm toán viên phải lập kế hoạch một cách đúng

đắn: để giúp cho kiểm toán viên có thể thu được bằng chứng có giá trị và đầy đủ cho
các tình huống; để giúp giữ các chi phí kiểm toán ở mức hợp lý, và để tránh những bất
đồng với khách hàng:
 Ý nghĩa lớn nhất của việc lập kế hoạch kiểm toán là giúp cho kiểm toán viên thu thập
bằng chứng kiểm toán đầy đủ, hiệu lực để đưa ra kết luận về báo cáo tài chính, từ đó
giúp kiểm toán viên hạn chế những sai sót, giảm thiểu trách nhiệm pháp lý, nâng cao
hiệu quả công việc và giữ vững uy tín nghề nghiệp đối với khách hàng.
 Kế hoạch kiểm toán cũng giúp các kiểm toán viên phối hợp hiệu quả với nhau và với
các bộ phận liên quan như: Kiểm toán viên nội bộ và các chuyên gia bên ngoài… Đồng
thời, qua sự phối hợp hiệu quả đó, kiểm toán viên có thể tiến hành cuộc kiểm toán theo
đúng chương trình đã lập với các chi phí và thời gian ở mức hợp lý, tăng cường sức
mạnh cạnh tranh cho công ty kiểm toán và giữ uy tín với khách hàng trong mối quan hệ
làm ăn lâu dài.
 Kế hoạch kiểm toán thích hợp sẽ là căn cứ để công ty kiểm toán tránh xảy ra những bất
đồng với khách hàng và là minh chứng rõ ràng để khẳng định cuộc kiểm toán đã được
tiến hành hợp lý và có hiệu quả. Trên cơ sở kế hoạch kiểm toán đã lập, kiểm toán viên
thống nhất với khách hàng về nội dung công việc đã thực hiện, thời gian tiến hành kiểm
toán cũng như trách nhiệm của mỗi bên.
Ngoài ra, căn cứ vào kế hoạch kiểm toán đã được lập, kiểm toán viên có thể
kiểm soát và đánh giá chất lượng công việc kiểm toán đã và đang thực hiện, góp phần
nâng cao chất lượng và hiệu quả của các cuộc kiểm toán, từ đó càng thắt chặt hơn mối
quan hệ giữa công ty kiểm toán và khách hàng. Mặt khác, phạm vi kế hoạch kiểm toán
sẽ có thể thay đổi tuỳ theo quy mô khách hàng, tính chất phức tạp của công việc kiểm
toán, kinh nghiệm và những hiểu biết của kiểm toán viên về đơn vị và hoạt động của
đơn vị được kiểm toán.
B. NỘI DUNG LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN.
Theo chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam VSA 300 - Lập kế hoạch kiểm toán, đoạn
12: “Kế hoạch kiểm toán gồm ba (3) bộ phận: Kế hoạch chiến lược, kế hoạch kiểm
toán tổng thể, chương trình kiểm toán”.
I. LẬP KẾ HOẠCH CHIẾN LƯỢC

1.1. Khái niệm:
Tại đoạn 04, chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam VSA 300 - Lập kế hoạch kiểm
toán: “Kế hoạch chiến lược: Là những định hướng cơ bản, nội dung trọng tâm và
phương pháp tiếp cận chung của cuộc kiểm toán do cấp chỉ đạo vạch ra dựa trên hiểu
biết về tình hình hoạt động và môi trường kinh doanh của đơn vị được kiểm toán”.
Theo đó, kế hoạch chiến lược phải được lập cho các cuộc kiểm toán lớn về quy
mô, tính chất phức tạp, địa bàn rộng hoặc kiểm toán báo cáo tài chính của nhiều năm.
Tuy nhiên, theo yêu cầu quản lý của mình, công ty kiểm toán có thể lập kế hoạch chiến
lược cho các cuộc kiểm toán không có những đặc điểm nêu trên.
Kế hoạch chiến lược phải do người phụ trách cuộc kiểm toán lập và được Giám
đốc hoặc người đứng đầu công ty kiểm toán phê duyệt. Kế hoạch chiến lược là cơ sở để
lập kế hoạch kiểm toán tổng thể, là cơ sở chỉ đạo thực hiện và soát xét chất lượng, kết
quả của cuộc kiểm toán. Kế hoạch chiến lược phải được lập thành một văn bản riêng
hoặc lập thành một phần riêng trong kế hoạch kiểm toán tổng thể.
1.2. Nội dung của kế hoạch chiến lược:
Tại phụ lục số 01, Mẫu kế hoạch chiến lược, chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam
VSA 300, nội dung và các bước công việc của kế hoạch chiến lược bao gồm:
 Tìm hiểu tình hình kinh doanh của khách hàng (Tổng hợp thông tin về lĩnh vực hoạt
động, loại hình doanh nghiệp, hình thức sở hữu, công nghệ sản xuất, tổ chức bộ máy
quản lý và thực tiễn hoạt động của đơn vị) đặc biệt lưu ý đến những nội dung chủ yếu
như: Động lực cạnh tranh, phân tích thái cực kinh doanh của doanh nghiệp cũng như
các yếu tố về sản phẩm, thị trường tiêu thụ, giá cả và các hoạt động hỗ trợ sau bán
hàng…
 Xác định những vấn đề liên quan đến báo cáo tài chính như chế độ kế toán, chuẩn mực
kế toán áp dụng, yêu cầu về lập báo cáo tài chính và quyền hạn của công ty;
 Xác định vùng rủi ro chủ yếu của doanh nghiệp và ảnh hưởng của nó tới báo cáo tài
chính (đánh giá ban đầu về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát);
 Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ;
 Xác định các mục tiêu kiểm toán trọng tâm và phương pháp tiếp cận kiểm toán;
 Xác định nhu cầu về sự hợp tác của các chuyên gia: chuyên gia tư vấn pháp luật, kiểm

toán nội bộ, kiểm toán viên khác và các chuyên gia khác như kỹ sư xây dựng, kỹ sư
nông nghiệp…
 Dự kiến nhóm trưởng và thời gian thực hiện;
 Giám đốc phê duyệt và thông báo kế hoạch chiến lược cho nhóm kiểm toán. Căn cứ kế
hoạch chiến lược đã được phê duyệt, trưởng nhóm kiểm toán lập kế hoạch kiểm toán
tổng thể và chương trình kiểm toán.
II. LẬP KẾ HOẠCH TỔNG THỂ
2.1. Khái niệm:
Kế hoạch tổng thể là việc cụ thể hoá kế hoạch chiến lược và phương pháp tiếp
cận chi tiết về nội dung, lịch trình và phạm vi dự kiến của các thủ tục kiểm toán. Kế
hoạch kiểm toán tổng thể phải được lập cho mọi cuộc kiểm toán. Hình thức và nội dung
của kế hoạch kiểm toán tổng thể thay đổi tuỳ theo quy mô của khách hàng, tính chất
phức tạp của công việc kiểm toán, phương pháp và kỹ thuật kiểm toán đặc thù do kiểm
toán viên sử dụng.
Những vấn đề chủ yếu mà kiểm toán viên phải xem xét và trình bày trong kế
hoạch kiểm toán tổng thể bao gồm: Hiểu biết về hoạt động của đơn vị được kiểm toán,
hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ; đánh giá rủi ro và mức độ
trọng yếu; nội dung, lịch trình và phạm vi kiểm toán; phối hợp, chỉ đạo và giám sát và
kiểm tra… Trường hợp công ty kiểm toán đã lập kế hoạch chiến lược thì những nội
dung đã nêu trong kế hoạch chiến lược sẽ không phải trình bày lại trong kế hoạch kiểm
toán tổng thể.
2.2. Nội dung của lập kế hoạch tổng thể
Lập kế hoạch kiểm toán (bao gồm kế hoạch kiểm toán tổng thể và chương trình
kiểm toán) bao gồm sáu bước công việc như trong sơ đồ 1.2:
Sơ đồ 1.2 . Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam VSA 300 quy định: “Kế hoạch kiểm toán phải
được lập một cách thích hợp nhằm đảm bảo bao quát hết các khía cạnh trọng yếu của
cuộc kiểm toán, đảm bảo phát hiện những vấn đề tiềm ẩn và cuộc kiểm toán được hoàn
thành đúng hạn”.
Theo đó, việc lập kế hoạch kiểm toán thường được triển khai qua các bước chi

tiết sau:
2.2.1. Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán
Quy trình kiểm toán bắt đầu khi kiểm toán viên và công ty kiểm toán thu nhận
một khách hàng. Thu nhận khách hàng là một quá trình, gồm có hai bước:
Thứ nhất, phải có sự liên lạc giữa kiểm toán viên với công ty khách hàng tiềm
năng mà khách hàng này yêu cầu được kiểm toán và khi có yêu cầu kiểm toán, kiểm
toán viên phải đánh giá liệu có chấp nhận yêu cầu đó hay không. Còn đối với các khách
hàng hiện tại, kiểm toán viên phải quyết định liệu có tiếp tục kiểm toán hay không?
Trên cơ sở đã xác định được khối lượng khách hàng có thể phục vụ trong tương lai,
công ty kiểm toán sẽ tiến hành các công việc cần thiết để chuẩn bị lập kế hoạch kiểm
toán bao gồm: đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán, nhận diện các lý do kiểm toán,
lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán và ký hợp đồng kiểm toán.
2.2.1.1. Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán.
Kiểm toán viên phải đánh giá xem việc chấp nhận một khách hàng mới hay tiếp
tục kiểm toán cho một khách hàng cũ có làm tăng rủi ro cho hoạt động của kiểm toán
viên hay làm hại đến uy tín của công ty kiểm toán hay không? Để làm được điều đó,
kiểm toán viên phải tiến hành các công việc như sau:
Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán
Thu thập thông tin cơ sở
Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng và thực hiện các thủ tục phân tích
Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro kiểm toán
Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát
Lập kế hoạch kiểm toán toàn diện và soạn thảo chương trình kiểm toán
 Xem xét hệ thống kiểm soát chất lượng:
Đoạn 10 chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 220 - Kiểm soát chất lượng đối với
việc thực hiện một hợp đồng kiểm toán: “Công ty kiểm toán phải xây dựng và thực
hiện các chính sách và thủ tục kiếm soát chất lượng để đảm bảo tất cả các cuộc kiểm
toán đều được tiến hành phù hợp với Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hoặc Chuẩn mực
Kiểm toán Quốc tế được Việt Nam chấp nhận nhằm không ngừng nâng cao chất lượng
của các cuộc kiểm toán”.

Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế ISA số 220 - Kiểm soát chất lượng một hợp đồng
kiểm toán: “Công ty kiểm toán phải thực hiện những chính sách và những thủ tục kiểm
tra chất lượng để đảm bảo rằng cuộc kiểm toán được tiến hành phù hợp với Chuẩn
mực Quốc tế hoặc những chuẩn mực hay thông lệ quốc gia”.
Để đưa ra quyết định chấp nhận hay giữ lại một khách hàng thì công ty kiểm
toán phải xem xét đến tính độc lập của kiểm toán viên, khả năng phục vụ khách hàng
của công ty kiểm toán và tính liêm chính của ban giám đốc khách hàng.
 Tính liêm chính của Ban giám đốc công ty khách hàng:
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam VSA 400 – Đánh giá rủi ro và kiểm soát
nội bộ, tính liêm chính của Ban giám đốc là bộ phận cấu thành then chốt của môi
trường kiểm soát, đây là nền tảng cho tất cả các bộ phận khác của hệ thống kiểm soát
nội bộ. Do vậy, tính liêm chính của Ban giám đốc rất quan trọng đối với quy trình kiểm
toán. Bởi lẽ, Ban giám đốc có thể phản ánh sai các nghiệp vụ hoặc giấu diếm các thông
tin dẫn tới sai sót trọng yếu trên Báo cáo tài chính.
Mặt khác, Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam VSA 240 – Gian lận và sai sót, nhấn
mạnh tầm quan trọng về đặc thù của Ban giám đốc và ảnh hưởng của nó tới môi trường
kiểm soát như là nhân tố rủi ro ban đầu của việc báo cáo gian lận các thông tin tài
chính. Nếu Ban Giám đốc thiếu liêm chính, kiểm toán viên không thể dựa vào bất kỳ
bản giải trình nào của Ban giám đốc cũng như không thể dựa vào các sổ sách kế toán.
Thêm vào đó, Ban giám đốc là chủ thể có trách nhiệm chính trong việc tạo ra môi
trường kiểm soát vững mạnh. Những nghi ngại về tính liêm chính của Ban giám đốc có
thể nghiêm trọng đến nỗi kiểm toán viên kết luận rằng cuộc kiểm toán không thể thực
hiện được.
 Liên lạc với kiểm toán viên tiền nhiệm:
Đối với những khách hàng tiềm năng (trước đây khách hàng này đã được kiểm
toán bởi một Công ty khác) và khách hàng cũ (trong trường hợp có sự thay đổi kiểm
toán viên kiểm toán cho cùng một khách hàng giữa hai kỳ kiểm toán) thì kiểm toán viên
mới (kiểm toán viên kế nhiệm) phải chủ động liên lạc với kiểm toán viên cũ (kiểm toán
viên tiền nhiệm) về những vấn đề liên quan đến cuộc kiểm toán để quyết định có nên
chấp nhận hợp đồng kiểm toán hay không. Các vấn đề này bao gồm: Những thông tin

về tính liêm chính của Ban giám đốc, nguyên tắc kế toán, thủ tục kiểm toán hay các vấn
đề quan trọng khác.. và lý do thay đổi kiểm toán viên của khách hàng.
Ngoài ra, kiểm toán viên có thể xem xét hồ sơ kiểm toán của kiểm toán viên tiền
nhiệm để hỗ trợ cho kiểm toán viên kế tục trong việc lập kế hoạch kiểm toán.
Tuy nhiên, theo quy định ở nhiều nước, việc thiết lập mối quan hệ giữa kiểm
toán viên kế tục với kiểm toán viên tiền nhiệm phải được sự chấp thuận của đơn vị
khách hàng. Và mặc dù khách hàng đã chấp thuận điều đó thì kiểm toán viên tiền nhiệm
vẫn có thể hạn chế hoặc từ chối mối quan hệ này.
Đối với những khách hàng trước đây chưa từng được công ty kiểm toán nào
kiểm toán thì để có thông tin về khách hàng, kiểm toán viên có thể thu thập các thông
tin qua việc nghiên cứu sách báo, tạp chí chuyên ngành, hoặc thẩm tra các bên có liên
quan như ngân hàng, cố vấn pháp lý,… thậm chí có thể thuê các nhà điều tra chuyên
nghiệp để điều tra về các vấn đề cần thiết khác. Cách thu thập tin tức này cũng có thể áp
dụng trong trường hợp khách hàng đã được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán trước
đây không đồng ý cho kiểm toán viên mới tiếp xúc hoặc do trước đây có những bất
đồng nghiêm trọng giữa hai bên nên kiểm toán viên tiền nhiệm không cung cấp đủ các
thông tin cần thiết.
Đối với khách hàng cũ, hàng năm kiểm toán viên phải cập nhật các thông tin về
khách hàng và đánh giá xem liệu có rủi ro nào khiến kiểm toán viên phải ngừng cung
cấp các dịch vụ kiểm toán cho khách hàng trong trường hợp hai bên có những mâu
thuẫn về các vấn đề như: phạm vi thích hợp của cuộc kiểm toán, loại báo cáo kiểm toán
phải công bố, tiền thù lao hoặc giữa hai bên có những vụ kiện tụng hoặc trong trường
hợp kiểm toán viên cho rằng Ban giám đốc khách hàng thiếu liêm chính… Từ những
thông tin thu được, kiểm toán viên có thể cân nhắc đánh giá khả năng chấp nhận hay
không tiếp tục kiểm toán cho khách hàng.
Điều cân nhắc cuối cùng nhưng quan trọng nhất của kiểm toán viên khi đánh giá
có chấp nhận khách hàng hay không chính là việc xác định khả năng có thể kiểm toán
của khách hàng.
Khả năng có thể kiểm toán được xác định theo một vài yếu tố chi phối. Chẳng
hạn tính thận trọng nghề nghiệp đòi hỏi kiểm toán viên phải đánh giá tính liêm chính

của Ban giám đốc và hệ thống kế toán của khách hàng. Hệ thống kế toán của khách
hàng phải cung cấp đầy đủ bằng chứng, chứng minh cho các nghiệp vụ phát sinh và
đảm bảo rằng tất cả các nghiệp vụ cần được ghi chép thì thực tế cũng đã được ghi lại.
Những nghi ngại về hệ thống kế toán có thể làm cho kiểm toán viên kết luận rằng, khó
có thể có bằng chứng tin cậy và đầy đủ để làm căn cứ cho ý kiến của kiểm toán viên về
các Báo cáo tài chính.
2.2.1.2. Nhận diện các lý do kiểm toán của công ty khách hàng.
Thực chất của việc nhận diện các lý do kiểm toán của công ty khách hàng là việc
xác định người sử dụng Báo cáo tài chính, và mục đích sử dụng của họ.
Để biết được điều đó, kiểm toán viên có thể phỏng vấn trực tiếp Ban giám đốc
khách hàng (đối với khách hàng mới) hoặc dựa vào kinh nghiệm của cuộc kiểm toán đã
được thực hiện trước đó (đối với khách hàng cũ). Và trong suốt quá trình thực hiện
kiểm toán sau này, kiểm toán viên sẽ thu thập thêm thông tin để hiểu biết thêm về lý do
kiểm toán của công ty khách hàng.
Việc xác định người sử dụng Báo cáo tài chính và mục đích sử dụng của họ là
hai yếu tố chính ảnh hưởng đến số lượng bằng chứng kiểm toán phải thu thập và mức
độ chính xác của các ý kiến mà kiểm toán viên đưa ra trong báo cáo kiểm toán. Cụ thể,
nếu các Báo cáo tài chính cần được sử dụng rộng rãi thì mức độ trung thực, hợp lý của
các thông tin trên Báo cáo tài chính được đòi hỏi càng cao và do đó, số lượng bằng
chứng kiểm toán cần thu thập cũng như quy mô và độ phức tạp của cuộc kiểm toán sẽ
càng tăng lên. Điều này lại càng đòi hỏi phải có một số lượng và cơ cấu kiểm toán viên
thích hợp để thực hiện cuộc kiểm toán.
2.2.1.3. Lựa chọn đội ngũ nhân viên thực hiện kiểm toán.
Lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán thích hợp cho cuộc kiểm toán không chỉ
hướng tới hiệu quả của cuộc kiểm toán mà còn tuân thủ các Chuẩn mực Kiểm toán
chung được thừa nhận (GAAS). Chuẩn mực Kiểm toán chung đầu tiên ghi rõ: “Quá
trình kiểm toán phải được thực hiện bởi một hoặc nhiều người đã được đào tạo đầy đủ
thành thạo như một kiểm toán viên”. Việc lựa chọn này được tiến hành trên yêu cầu về
số người, trình độ khả năng và yêu cầu chuyên môn kỹ thuật và thường do Ban Giám
đốc công ty kiểm toán trực tiếp chỉ đạo.

Số người tham gia kiểm toán cần được xem xét cả về tổng số và cơ cấu. Tổng số
người phải tương xứng với quy mô kiểm toán nói chung đã xác định ở phần trên. Cơ
cấu của nhóm công tác phải thích ứng với từng việc cụ thể đã chính xác hoá mục tiêu,
phạm vi ở phần xác định nhu cầu. Chẳng hạn, công việc kiểm tra chứng từ cần cân đối
với số kiểm toán viên có kinh nghiệm cần tương xứng với mức độ đầy đủ và tính phức
tạp của nguồn tài liệu đã có, công việc kiểm kê cần có đủ người hiểu biết về các đối
tượng cụ thể của kiểm kê như lương thực, thực phẩm, xăng dầu, vải sợi…
Trong quá trình lựa chọn đội ngũ kiểm toán viên thực hiện cuộc kiểm toán, công
ty kiểm toán cần quan tâm đến 3 vấn đề:

×