Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.51 KB, 74 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN
*********

NGUYỄN HỒNG QUYÊN

PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Chuyên ban: Kinh tế chính trị

Giảng viên hướng dẫn:TS. Ngô Thái Hà

Hà Nội - 2020
1


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn TS. Ngô Thái Hà, người đã trực
tiếp hướng dẫn, dìu dắt và giúp đỡ em những chỉ dẫn khoa học quý báu trong
suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Qua đây, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy, cô giáo khoa Lý
luận chính trị - Giáo dục công dân, trường Đại học Sư phạm Hà Nội cùng toàn
thể các thầy cô giáo chuyên ban Kinh tế chính trị đã trực tiếp giảng dạy và giúp
đỡ em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Em xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo, cán bộ phòng Thống kê, các cơ
quan thuộc UBND thị xã Từ Sơn, UBND các xã, phường: Đồng Kỵ, Châu Khê,
Phù Khê, Tương Giang, Hương Mạc đã tạo điều kiện thuận lợi nhất giúp em


hoàn thành khóa luận này.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình và những người bạn
thân yêu đã luôn quan tâm, động viên, khích lệ và nhiệt tình tạo điều kiện tốt
cho em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Tác giả khóa luận

Nguyễn Hồng Quyên

2


LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em. Các số liệu
được sử dụng trong nghiên cứu khoa học này là trung thực, có nguồn gốc, xuất
xứ rõ ràng. Những kết quả trình bày trong nghiên cứu chưa từng được công bố
trong một công trình nào khác.
Hà nội, ngày 12 tháng 6 năm 2020
Tác giả khóa luận

Nguyễn Hồng Quyên

3


MỤC LỤC

4



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

5

1.

Ký hiệu
Nguyên nghĩa
KT-XH Kinh tế - xã hội

2.
3.
4.
5.

CNH
HĐH
CSSX
LNTT

Công nghiệp hóa
Hiện đại hóa
Cơ sở sản xuất
Làng nghề truyền thống


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

6



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài

Đất nước đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một trong những
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mục
tiêu tổng quát và lâu dài của công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn là xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, hiệu quả và bền
vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các
thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất
khẩu, xây dựng nông thôn ngày càng giầu đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh,
có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội phát triển ngày càng hiện đại.
Phát triển làng nghề là một trong những nội dung chủ yếu của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Một trong những nội dung định
hướng phát triển kinh tế nông thôn do Đại hội XII đề ra: mở mang các làng
nghề, phát triển các điểm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sản xuất hàng thủ
công mỹ nghệ. [1]
Trong xu thế hội nhập và mở cửa, LNTT đang dần lấy lại vị trí quan trọng
của mình trong đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia.
Những làng nghề này như một hình ảnh đầy bản sắc, khẳng định nét riêng biệt,
độc đáo không thể thay thế. Một cách giới thiệu sinh động về đất, nước và con
người của mỗi vùng, miền, địa phương. Phát triển làng nghề truyền thống chính
là một hướng đi đúng đắn và phù hợp, được nhiều quốc gia ưu tiên trong chính
sách phát triển kinh tế. Những lợi ích to lớn của việc phát triển làng nghề truyền
thống không chỉ thể hiện ở những con số tăng trưởng lợi nhuận kinh tế, ở việc
giải quyết nguồn lao động địa phương mà hơn thế nữa, còn là một cách thức gìn
giữ và bảo tồn những giá trị văn hoá của dân tộc. Đó là những lợi ích lâu dài

không thể tính được trong ngày một ngày hai.
Thị xã Từ Sơn - tỉnh Bắc Ninh là địa phương thuộc đồng bằng châu thổ
sông Hồng. Từ Sơn là một đô thị công nghiệp với nhiều khu công nghiệp cùng
7


với nhiều làng nghề truyền thống. Những làng nghề truyền thống không chỉ tạo
nên sắc thái riêng mang tính nghề nghiệp mà nó còn là nơi bảo lưu, gìn giữ
những giá trị văn hóa, phong tục tập quán từ rất xa xưa.Giống như các làng nghề
truyền thống trong cả nước, làng nghề truyền thống ở thị xã Từ Sơn cũng trải
qua nhiều thăng trầm, nhất là trong thời kì hội nhập với thế giới. Có nhiều làng
nghề tồn tại và phát triển góp phần to lớn trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Bên cạnh đó cũng có những làng nghề đang bị
mai một, dần suy giảm và có nguy cơ biến mất. Vì vậy, khôi phục làng nghề
truyền thống và phát triển các làng nghề ấy thật sự là một bài toán không dễ giải
quyết. Bên cạnh đó, phát triển làng nghề truyền thống hiện nay cần đặt trong bối
cảnh kinh tế quốc tế, sự cạnh tranh của các mặt hàng, duy trì số lượng làng nghề,
kết hợp giữa truyền thống và hiện đại trong sản xuất kinh doanh, sản xuất kinh
doanh gắn với trách nhiệm bảo vệ môi trường.,…hay nói cách khác, cần phát
triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Xuất phát từ thực tế đó, vấn đề “Phát triển làng nghề truyền thống trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh” được
tác giả chọn làm đề tài khóa luận nhằm góp phần làm sáng tỏ những vấn đề đang
đặt ra đối với phát triển làng nghề truyền thống hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
PGS.TS Đặng Kim Chi Đề (2005), “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực
tiễn cho việc xây dựng các chính sách và biện pháp giải quyết vấn đề môi
trường ở các làng nghề Việt Nam”. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước.
Đề tài đã nghiên cứu chuyên sâu về môi trường làng nghề nói chung đã đề xuất
các giải pháp hữu hiệu nhất cho sự phát triển bền vững các làng nghề hiện nay.

Nguyễn Như Chung (2008), “ Quá trình hoàn thiện các chính sách thúc
đảy phát triển làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997-2003; thưc trạng, kinh
nghiệm và giải pháp”, Luận án tiến sĩ kinh tế. Nội dung của luận án này xoay
quanh các vấn đề liên quan đến chính sách đối với sụ phát triển các làng nghề
truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
8


thôn, phát triển kinh tế thị trường, đồng thời phân tích tác động của các chính
sách đến sự phát triển của các làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh.
Mai Thế Hởn (2000), “Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng ven thủ đô”, NXB Thống kê, Hà Nội. Từ
việc phân tích đã khẳng định để các làng nghề có điều kiện phát triển bền
vững, vấn đề quan trọng nhất là phải mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, có
nhu vậy mới góp phần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất
lượng cuộc sống.
Trần Minh Yến(2003), “Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt
Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, NXB Khoa học và xã hội,
Hà Nội, Luận án tiến sĩ. Đề tài đã vẽ nên một bức tranh khá toàn diện về các
làng nghề truyền thống ở Việt Nam và đề xuất các nhóm giải pháp quan trọng để
bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống của các làng nghề khu vực nông
thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đề tài nghiên cứu khoa học do cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JIKA) và
Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chủ trì “Nghiên cứu quy
hoạch phát triển ngành nghề thủ công theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông thôn Việt Nam”, tháng 3/2003 đã đề ra tiêu chí cho quá trình xây dựng
nông thôn mới hiện nay và xây dựng làng nghề truyền thống.
Trần Văn Châm (2006),“Tiểu thủ công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, NXB Thống kê, Luận văn thạc sĩ. Với nội
dung tập trung vào giải quyết việc làm cho đội ngũ lao động dư thừa trong nông

thôn hiện nay.
Tổng quan nghiên cứu cho thấy, cho đến nay đã có không ít các công trình
khoa học ở các cấp độ khác nhau nghiên cứu và đề xuất các giải pháp phát triển
làng nghề. Nhưng các công trình này mới chỉ dừng lại ở một số khía cạnh nhất
định mà chưa đi vào giải quyết các vấn đề môi trường do tác động của làng nghề
để lại. Chưa có đề tài cụ thể nào nghiên cứu về phát triển làng nghề truyền thống
ở thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do đó, việc lựa chọn đề tài này để phân tích rõ
9


thực trạng, nguyên nhân của sự hạn chế để từ đó đề ra được những phương
hướng và giải pháp phù hợp góp phần phát triển kinh tế làng nghề ở địa phương.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được thực hiện nhằm tìm hiểu thực trạng phát triển làng nghề ở một
số làng trong thị xã Từ Sơn. Từ đó đề xuất những giải pháp nhằm phát triển kinh
tế làng nghề, hạn chế ô nhiễm môi trường để đáp ứng yêu cầu trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế làng nghề truyền thống
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Đánh giá thực trạng phát triển làng nghề truyền thống ở thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc
Ninh
- Đề xuất những định hướng và giải pháp phát triển làng nghề truyền thống ở thị
xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu quá trình phát triển của các làng nghề truyền thống ở thị xã Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về nội dung:
Đề tài tập trung nghiên cứu quá trình phát triển của các làng nghề truyền
thống ở thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Phạm vi không gian:
Nghiên cứu các làng nghề truyền thống trên địa bàn thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc
Ninh: làng nghề gỗ Đồng Kỵ, làng nghề sắt Đa Hội, làng nghề dệt Tương Giang,
làng nghề chạm khắc Phù Khê.
- Phạm vi thời gian:
Từ năm 2015 đến nay
5. Phương pháp nghiên cứu

10


Phương pháp chung của đề tài là sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đề tài căn cứ vào các chính
sách của Đảng và nhà nước về phát triển làng nghề truyền thống.
Phương pháp phân tích tổng hợp các tài liệu liên quan tới đề tài để rút ra
những bài học, những thông tin hữu ích.
Đề tài sử dụng phương pháp thống kê, so sánh số liệu qua các năm để rút ra
thực trạng phát triển làng nghề truyền thống ở Từ Sơn.
Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng một số phương pháp cụ thể khác như:
phương pháp trừu tượng hóa khoa học,...
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì đề tài kết cấu
thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển làng nghề truyền thống
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chương 2: Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống ở thị xã Từ Sơn,
tỉnh Bắc Ninh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển làng nghề truyền thống ở thị
xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

11


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
TRUYỀN THỐNG TRONG QUÁ TRINH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của làng nghề truyền thống
1.1.1.1. Khái niệm
* Làng nghề
Thôn, làng là một thuật ngữ dùng để chỉ một đơn vị hành chính ở nông
thôn bao hàm là một tập hợp cộng đồng dân cư trên một vùng lãnh thổ xác định,
có khả năng độc lập về kinh tế. Trong điều kiện chống ngoại xâm, thiên tai thì
họ là một cộng đồng thống nhất. Họ còn là một cộng đồng văn hóa gắn liền với
biểu tượng cây đa, giếng nước, mái đình.
Làng, theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt, là một khối người quây quần
ở một nơi nhất định trong nông thôn. Làng là một tế bào của xã hội của người
Việt, là một tập hợp dân cư chủ yếu theo quan hệ láng giềng. Đó là một không
gian lãnh thổ nhất định, ở đó tập hợp những người dân quần tụ lại cùng sinh
sống và sản xuất. Trong quá trình đô thị hóa, khái niệm làng được hiểu một cách
tương đối. Một số địa phương hiện nay không còn được gọi là làng mà thay vào
đó là những tên gọi khác như phố, khối phố. Tuy nhiên, dù tên gọi là có thay đổi
nhưng bản chất của cộng đồng dân cư đó vẫn gắn với nông thôn thì vẫn được

xem là làng. [14]
Sự xuất hiện của các nghề thủ công ở các làng quê lúc đầu chỉ là ngành
nghệ phụ, chủ yếu được nông dân tiến hành trong lúc nông nhàn. Về sau, do quá
trình phân công lao động, các ngành nghề thủ công tách dần khỏi nông nghiệp
nhưng lại phục vụ trực tiếp cho nông nghiệp, khi đó người thợ thủ công có thể
12


không còn sản xuất nông nghiệp nhưng họ vẫn gắn chặt với làng quê mình. Khi
nghề thủ công phát triển, số người chuyên làm nghề thủ công và sống được bằng
nghề này tăng lên, điều nay diễn ra ngay trong các làng quê và đó là cơ sở cho
sự tồn tại của các làng nghề ở nông thôn.
Từ những luận điểm và lý luận trên đã có nhiều định nghĩa về làng nghề
được đưa ra. Đề án sử dụng khái niệm làng nghề theo Thông tư 116/2006/TTBNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: “Làng nghề là một hoặc
nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân
cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn có các hoạt động ngành nghề nông thôn,
sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau”. [1]
Căn cứ Quyết định số: 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 của Thủ tướng
Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn
có đưa ra khái niệm làng nghề “ Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư sinh
sống trong một hoặc nhiều ấp (khóm hoặc khu phố) trên địa bàn một xã,
phường, thị trấn có cùng hoạt động sản xuất tạo ra một hoặc nhiều sản phẩm
khác nhau; sản xuất theo quy mô từng hộ gia đình hoặc cơ sở sản xuất trong ấp
(khóm, khu phố hoặc tương đương), phát triển đến mức trở thành thu nhập quan
trọng của người dân trong làng.”[1]
Theo Tiến sĩ Phạm Côn Sơn trong cuốn “Làng nghề truyền thống Việt
Nam” thì làng nghề được định nghĩa như sau: “làng nghề là một đơn vị hành
chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ
chức, kỉ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng. Làng nghề không những là
làng sống chuyên nghề mà cũng hàm ý là những người cùng nghề sống hợp

quần để phát triển công ăn việc làm. Cơ sở vững chắc của các làng nghề là sự
vừa làm ăn tập thể, vừa phát triển kinh tế, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc và các
cá biệt của địa phương”.[22]
Xét theo góc độ kinh tế, trong cuốn: “Bảo tồn và phát triển các làng nghề
truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” Tiến sĩ Dương Bá
Phượng cho rằng: “Làng nghề là làng ở nông thôn có một hoặc một số nghề thủ
13


công tách hẳn ra khỏi thủ công nghiệp và kinh doanh độc lập. Thu thập từ các
làng nghề đó chiếm tỉ trọng cao trong tổng giá trị toàn làng.[23]
Theo giáo sư Trần Quốc Vượng thì “làng nghề là một làng tuy vẫn còn
trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhưng cũng có một số nghề phụ
khác như đan lát, gốm sứ, làm tương... song đã nổi trội một nghề cổ truyền,
tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp,
có phường (cơ cấu tổ chức), có ông trùm, ông cả... cùng một số thợ và phó
nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư
nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống chủ yếu được bằng nghề đó và
sản xuất ra những mặt hàng thủ công, những mặt hàng này đã có tính mỹ
nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng và có quan hệ tiếp thị với một thị trường là
vùng rộng xung quanh và với thị trường đô thị và tiến tới mở rộng ra cả nước
rồi có thể xuất khẩu ra cả nước ngoài”.[24]
Làng nghề Việt Nam , làng nghề thủ công , làng nghề truyền thống hoặc
làng nghề cổ truyền thường được gọi ngắn gọn là làng nghề, là những làng mà
tại đây hầu hết dân cư tập trung vào làm một nghề duy nhất nào đó, nghề của họ
làm thường có tính chuyên sâu cao và mang lại nguồn thu nhập cho dân làng.
Làng nghề là một thiết chế kinh tế - xã hội ở nông thôn, được tạo bởi hai
yếu tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất định, trong đó bao
gồm nhiều hộ gia đình sinh sống từ nguồn thu chủ yếu từ nghề thủ công, giữa
họ có mối lên kết về kinh tế , xã hội và văn hóa.

Khái niệm làng nghề được hiểu là làng tuy vẫn diễn ra hoạt động trồng trọt
theo lố tiểu nông và chăn nuôi nhỏ, cũng đã có một số nghề phụ khác, có ông
trùm có phó cả…. cùng một số thợ phụ và phó nhỏ, đã chuyên tâm có quy trình
công nghệ nhất định và sống chủ yếu bằng nghề đó, sản xuất ra những mặt hàng
thủ công, những mặt hàng có tính mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng hóa có
quan hệ thông thương với thị trường trong nước và tiến tới mở rộng xuất khẩu ra
thị trường nước ngoài. Những làng nghề này ít nhiều đã nổi danh từ lâu, có quá
khứ từ trăm ngàn năm, tên làng đã đi vào lịch sử, ca dao, tục ngữ …
14


Khái niệm về làng nghề theo cách nhìn văn hóa bao gồm các nội dung: là
một địa danh gắn với một cộng đồng dân cư có một nghề truyền thống lâu đời,
được lưu truyền và có sức lan toả mạnh mẽ; ổn định về một nghề hay một số
nghề có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình sản xuất ra một loại sản
phẩm; có một đội ngũ nghệ nhân và thợ có tay nghề cao, có bí quyết nghề
nghiệp được lưu truyền lại cho con cháu hoặc các thế hệ sau; sản phẩm vừa có ý
nghĩa kinh tế để nuôi sống một bộ phận dân cư và quan trọng hơn là nó mang
những giá trị vật thể và phi vật thể phản ánh được lịch sử, văn hóa và xã hội.
* Tiêu chí làng nghề:
Tiêu chí công nhận nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống
được hướng dẫn tại Mục 1 Phần 2 Thông tư 116/2006/TT-BNN hướng dẫn Nghị
định 66/2006/NĐ-CP về phát triển ngành nghề nông thôn do Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn ban hành, theo đó:
Làng nghề được công nhận phải đạt 03 tiêu chí sau:
-

Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề

nông thôn;

- Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề
nghị công nhận;
- Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Theo đó, để được công nhận nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề
truyền thống thì cần phải đáp ứng được những tiêu chí sau:
- Hoạt động trong lĩnh vực ngành nghề nông thôn như:
+ Chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản.
+ Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ.
+ Xử lý, chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn.
+ Sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt may, sợi, thêu ren,
đan lát, cơ khí nhỏ.
+ Sản xuất và kinh doanh sinh vật cảnh.
+ Sản xuất muối
15


+ Các dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống dân cư nông thôn.
- Tiêu chí công nhận nghề truyền thống:
+ Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm và hiện đang tiếp tục
phát triển tính đến thời điểm đề nghị công nhận.
+ Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc.
+ Nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của
làng nghề.
- Tiêu chí công nhận làng nghề
+ Có tối thiểu 20% tổng số hộ trên địa bàn tham gia một trong các hoạt động
hoặc các hoạt động ngành nghề nông thôn quy định tại Điều 4 Nghị định 52.
+ Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 02 năm liên tục tính đến
thời điểm đề nghị công nhận.
+ Đáp ứng các điều kiện bảo vệ môi trường làng nghề theo quy định của
pháp luật hiện hành.

- Tiêu chí công nhận làng nghề truyền thống:
Làng nghề truyền thống phải đạt tiêu chí làng nghề nêu trên và có ít nhất
một nghề truyền thống theo quy định tại tiêu chí số 2.
*Phân loại làng nghề:
Cũng như phân loại nghề, việc phân loại làng nghề gặp nhiều khó khăn bởi
tính đa dạng về quy mô, lĩnh vực và lịch sử hình thành; có thể phân loại làng
nghề theo các tiêu chí sau:
+ Theo lịch sử hình thành và phát triển các làng nghề:
- Làng nghề truyền thống;
- Làng nghề mới.
+ Theo ngành nghề sản xuất kinh doanh:
- Làng ngành nghề nông thônnhư: dệt, gốm sứ, đồ gỗ mỹ nghệ…
- Làng nghề công nghiệp cơ khí, chế tác như: chế tác vàng bạc, dát vàng,
gia công tái chế sắt thép…
- Làng nghề xây dựng;
- Làng nghề dịch vụ.
16


+ Theo quy mô làng nghề:
- Làng nghề quy mô lớn, lan tỏa, liên kết nhiều làng làm cùng một nghề
hoặc cùng một không gian địa lí lãnh thổ, tạo thành vùng nghề hoặc xã nghề ở
đó các làng nghề, có quy mô lao động phi nông nghiệp rất lớn, không chỉ với lực
lượng lao động tại chỗ mà còn thu hút nhiều lao động đến làm thuê;
- Làng nghề quy mô nhỏ, là trong phạm vi một làng theo địa giới hành
chính. Ở các làng nghề này thường hoạt động kinh doanh một ngành nghề phi
nông nghiệp, được truyền nghề theo phạm vi dòng tộc
+ Theo loại hình kinh doanh của làng nghề có tính phổ biến ở Việt Nam:
- Các làng nghề truyền thống chuyên doanh một chủng loại sản phẩm
hàng hoá;

- Các làng nghề kinh doanh tổng hợp một số sản phẩm truyền thống;
- Các làng nghề vừa chuyên doanh các sản phẩm truyền thống vừa phát
triển các ngành nghề mới như dịch vụ, xây dựng. Loại làng nghề này phát triển
mạnh trong những năm gần đây.
+ Theo tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề:
- Các làng nghề vừa sản xuất nông nghiệp vừa kinh doanh các ngành nghề
phi nông nghiệp;
- Các làng nghề thủ công chuyên nghiệp;
- Các làng nghề sản xuất hàng xuất khẩu.
* Làng nghề truyền thống
Hiện nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về làng nghề truyền thống,
nhưng ta có thể hiểu làng nghề truyền thống là làng cổ truyền làm nghề thủ công
truyền thống. Theo Giáo sư Trần Quốc Vượng thì làng nghề là: “Làng nghề là
làng ấy, tuy có trồng trọt theo lối thủ nông và chăn nuôi (gà, lợn, trâu,…) làm
một số nghề phụ khác (thêu, đan lát,…) song đã nổi trội một nghề cổ truyền,
tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp,
có ông trùm, ông phó cả cùng một số thợ và phó nhỏ đã chuyên tâm, có quy
trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân
17


vinh”, sống chủ yếu bằng nghề đó và sản xuất ra những hàng thủ công, những
mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng hóa và có quan hệ
tiếp thị với thị trường là vùng rộng xung quanh với thị trường đô thị, thủ đô và
tiến tới mở rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra nước ngoài. [23]
Làng nghề truyền thống là một cụm dân cư sinh sống tạo thành làng quê
hay phường hội. Đó chính là cộng đồng nhỏ về văn hoá. Những phong tục, tập
quán, đền thờ, miếu mạo… của mỗi lang xã vừa có nét chung của văn hoá dân
tộc, vừa có nét riêng của mỗi làng quê, làng nghề. Các sản phẩm của làng nghề
truyền thống làm ra là sự kết tinh, sự giao lưu và phát triển các giá trị văn hoá,

văn minh của dân tộc.
Ngày 12/4/2018, Chính phủ ban hành Nghị định 52/2018/NĐ-CP quy định
về phát triển ngành nghề nông thôn.Theo đó, để được công nhận làng nghề
truyền thống thì cần phải đáp ứng được những tiêu chí sau:
+ Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm và hiện đang tiếp tục
phát triển tính đến thời điểm đề nghị công nhận.
+ Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc.
+ Nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của
làng nghề
* Phát triển LNTT trong quá trình CNH-HĐH
Phát triển LNTT trong quá trình CNH-HĐH là phát triển LNTT theo hướng
chuyển đổi căn bản, toàn diện từ sử dụng sức lao động thủ công của những
người thợ là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng
với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng
suất cao hơn trong các làng nghề.
* Nội dung đánh giá sự phát triển của làng nghề truyền thống trong quá
trình CNH, HĐH
- Số lượng lao động trong các làng nghề truyền thống
- Số lượng nghề trong các làng nghề truyền thống
- Vốn sản xuất trong các làng nghề truyền thống
18


- Nguyên liệu cung cấp cho các làng nghề truyền thống
- Thu nhập của lao động trong các làng nghề truyền thống
1.1.1.2. Đặc điểm của làng nghề truyền thống
Đặc điểm nổi bật nhất của các làng nghề là tồn tại ở nông thôn, gắn bó chặt
chẽ với nông nghiệp. các làng nghề xuất hiện trong từng làng- xã ở nông thôn
sau đó các ngành nghề thủ công nghiệp được tách dần nhưng không rời khỏi
nông thôn, sản xuất nông nghiệp và sản xuất- kinh doanh thủ công nghiệp trong

các làng nghề đan xen lẫn nhau. người thợ thủ công trước hết và đồng thời là
người nông dân.
Một là, công nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm trong các làng nghề, đặc biệt
là các làng nghề truyền thống thường rất thô sơ, lạc hậu, sử dụng kỹ thuật thủ
công là chủ yếu. Công cụ lao động trong các làng nghề đa số là công cụ thủ
công, công nghệ sản xuất mang tính đơn chiếc. nhiều loại sản phẩm có công
nghệ- kỹ thuật hoàn toàn phải dựa vào đôi bàn tay khéo léo của người thợ mặc
dù hiện nay đã có sự cơ khí hoá và điện khí hoá từng bước trong sản xuất, song
cũng chỉ có một số không nhiều nghề có khả năng cơ giới hoá được một số công
đoạn trong sản xuất sản phẩm.
Hai là, đại bộ phận nguyên vật liệu của các làng nghề thường là tại chỗ. hầu
hết các làng nghề truyền thống được hình thành xuất phát từ sự sẵn có của
nguồn nguyên liệu sẵn có tại chỗ, trên địa bàn địa phương. cũng có thể có một
số nguyên liệu phải nhập từ vùng khác hoặc từ nước ngoài như một số loại chỉ
thêu, thuốc nhuộm... song không nhiều.
Ba là, phần đông lao động trong các làng nghề là lao động thủ công, nhờ
vào kỹ thuật khéo léo, tinh xảo của đôi bàn tay, vào đầu óc thẩm mỹ và sáng tạo
của người thợ, của các nghệ nhân. trước kia, do trình độ khoa học và công nghệ
chưa phát triển thì hầu hết các công đoạn trong quy trình sản xuất đều là thủ
công, giản đơn. ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học- công nghệ, việc
ứng dụng khoa học- công nghệ mới vào nhiều công đoạn trong sản xuất của làng
nghề đã giảm bớt được lượng lao động thủ công, giản đơn. tuy nhiên, một số
19


loại sản phẩm còn có một số công đoạn trong quy trình sản xuất vẫn phải duy trì
kỹ thuật lao động thủ công tinh xảo. việc dạy nghề trước đây chủ yếu theo
phương thức truyền nghề trong các gia đinh từ đời này sang đời khác và chỉ
khuôn lại trong từng làng. sau hoà bình lập lại, nhiều cơ sở quốc doanh và hợp
tác xã làm nghề thủ công truyền thống ra đời, làm cho phương thức truyền nghề

và dậy nghề đã có nhiều thay đổi, mang tính đa dạng và phong phú hơn.
Bốn là, sản phẩm làng nghề, đặc biệt là làng nghề mang tính đơn chiếc, có
tính mỹ thuật cao, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. các sản phẩm làng nghề
truyền thống vừa có giá trị sử dụng, vừa có giá trị thẩm mỹ cao, vì nhiều loại sản
phẩm vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng, vừa là vật trang trí trong nhà, đền chùa,
công sở nhà nước... các sản phẩm đều là sự kết giao giữa phương pháp thủ công
tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật. cùng là đồ gốm sứ, nhưng người ta vẫn có
thể phân biệt được đâu là gốm sứ bát tràng (hà nội), thổ hà (bắc ninh), đông triều
(quảng ninh). từ những con rồng chạm trổ ở các đình chùa, hoa văn trên các
trống đồng và các hoạ tiết trên đồ gốm sứ đến những nét chấm phá trên các bức
thêu... tất cả đều mang vóc dáng dân tộc, quê hương, chứa đựng ảnh hưởng về
văn hoá tinh thần, quan niệm về nhân văn và tín ngưỡng, tôn giáo của dân tộc.
Năm là, thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề hầu hết mang tính
địa phương, tại chỗ và nhỏ hẹp. bởi sự ra đời của các làng nghề, đặc biệt là các
làng nghề truyền thống, là xuất phát từ việc đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu dùng
tại chỗ của các địa phương. ở mỗi một làng nghề hoặc một cụm làng nghề đều
có các chợ dùng làm nơi trao đổi, buôn bán, tiêu thụ sản phẩm của các làng
nghề. cho đến nay, thị trường làng nghề về cơ bản vẫn là các thị trường địa
phương, là tỉnh hay liên tỉnh và một phần cho xuất khẩu.
Sáu là, hình thức tổ chức sản xuất trong các làng nghề chủ yếu là ở quy mô hộ
gia đình, một số đã có sự phát triển thành tổ chức hợp tác và doanh nghiệp tư nhân.
1.1.1.3. Vai trò của làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
-

Tạo việc làm cho người lao động
20


Người nông dân tham gia sản xuất nông nghiệp thường theo mùa vụ nên

thường xuyên có những thời gian nhàn rỗi dẫn đến dư thừa sức lao động. Trong
lúc nhàn rỗi, người nông dân có thể tham gia vào sản xuất các sản phẩm truyền
thống. Không những sức lao động sẽ được sử dụng triệt để mà việc sản xuất còn
tăng thu nhập cho các hộ gia đình, đảm bảo cuộc sống. Đặc biệt, các ngành nghề
truyền thống không kén chọn nên có thể sử dụng lao động với độ tuổi rất phong
phú. Có thể là người già, trẻ em và cả người khuyết tật. Chính vì thế, làng nghề
truyền thống đã, đang và sẽ giải quyết vấn đề việc làm cho rất nhiều người, giảm
bớt gánh nặng cho nhà nước.
-

Khai thác vốn kỹ thuật của dân
Quá trình sản xuất các sản phẩm của làng nghề đã tận dụng một cách triệt
để các yếu tố về vốn, lao động, kỹ thuật của từng hộ gia đình. Tất cả mọi thành
viên trong gia đình đều có thể tham gia sản xuất các mặt hàng truyền thống. Nhờ
đó mà những ngành nghề ông cha để lại không bị mai một, ngược lại ngày càng
phát triển đáp ứng đúng nhu cầu thị trường.

-

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn ngày càng hợp lý hơn
Theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, việc phát triển làng
nghề sẽ tận dụng được nguồn nguyên liệu là sản phẩm của ngành nông nghiệp
hoặc công cụ sản xuất nông – lâm – nghiệp làm tăng khả năng tích lũy vốn và kỹ
thuật, hỗ trợ cho nông nghiệp, công nghiệp và các loại hình dịch vụ khác ở nông
thôn phát triển. Các vùng nông thôn chủ yếu là cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
chiếm hơn một nửa. Chính vì thế, nếu làng nghề phát triển sẽ trở thành trung
tâm kinh tế cho địa phương, thúc đẩy quá trình nông thôn mới, động viện người
dân không tha phương, giảm bớt làn sóng nhập cư về thành phố gây ra nhiều vấn
đề.Chính vì thế, trong chương trình xây dựng nông thôn mới phải có những biện
pháp giải cứu cho làng nghề, trước hết tháo gỡ khó khăn về kinh tế, về sản xuất,

tiêu thụ sản phẩm, giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, nhất là
nhiều người mất việc làm ở thành phố, khu công nghiệp trở về làng.

-

Góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc
21


Sản phẩm của những làng nghề truyền thống là sự kết hợp giữa văn hóa và
trình độ kĩ thuật của người làm nghề tạo nên. Những sản phẩm có độ thẩm mỹ
cao, kết tinh tài hoa qua nhiều thế hệ. Nó không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế
cho người dân mà còn phản ánh sinh động lối sống và ước vọng của người lao
động, thấm đẫm tâm hồn người Việt Nam đồng thời gìn giữ truyền thống từ đời
này sang đời khác.
1.1.2. Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
1.1.2.1. Khái quát về phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Nhận thức rõ về vai trò của các làng nghề truyền thống trong việc nâng cao
đời sống kinh tế, văn hóa của cộng đồng cư dân làng nghề trong lịch sử cũng
như hiện nay, Đảng và nhà nước ta đã ban hành những chính sách tạo ra một cơ
hội cho các làng nghề và các làng nghề truyền thống phát triển. Tinh thần đó đã
được thể hiện trong Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương (1981), Nghị quyết
X của Bộ Chính trị (1998), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ
VII, VIII, IX…, trong đó nhấn mạnh vai trò quan trọng của kinh tế nông thôn,
đồng thời đưa ra nhiều biện pháp, chính sách phát triển toàn diện kinh tế xã hội
nông thôn, trong đó có các ngành nghề, làng nghề thủ công truyền thống.
Để thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn thì các nghề, các làng nghề truyền thống đã có vai trò to lớn trong quá trình

đổi mới đất nước, đưa chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước ta đi vào
cuộc sống.
Trước hết các làng nghề truyền thống đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn lên một bước mới về chất, làm thay đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao
động, cơ cấu việc làm, giá trị sản lượng và cơ cấu thu nhập của cư dân nông
thôn bằng các nguồn lợi từ các lĩnh vực trong nông nghiệp và phi nông nghiệp.
Trong quá trình vận động và phát triển, các làng nghề truyền thống đã có vai trò
22


tích cực trong việc góp phần tăng tỷ trọng của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
và dịch vụ, thu hẹp tỷ trọng của nông nghiệp, chuyển lao động từ sản xuất nông
nghiệp có thu nhập thấp sang ngành nghề phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn.
Cho tới nay cơ cấu kinh tế ở nhiều làng nghề đạt 60 - 80% công nghiệp và dịch
vụ, 20 - 40% nông nghiệp. Thực tế đã xác minh rằng, sự phục hồi và phát triển
các làng nghề truyền thống có ý nghĩa rất quan trọng đối với phát triển kinh tế
xã hội nông thôn. Với quy mô nhỏ bé, được phân bổ rộng khắp ở các vùng nông
thôn, hàng năm các làng nghề luôn sản xuất ra một số khối lượng sản phẩm hàng
hóa khá lớn, đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân nói chung và cho từng
địa phương nói riêng. Năng lực sản xuất, kinh doanh của các làng nghề là yếu tố
quan trọng thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa ở nông thôn. Do đó, bước đầu
có thể nhận thấy là ở nơi nào có nhiều làng nghề thì kinh tế hàng hóa ở đó phát
triển hơn. Làng nghề và nghề thủ công phát triển còn góp phần giải quyết việc
làm và tăng thu nhập cho người lao động ở nông thôn. Thống kê nhà nước gần
đây cho thấy, hoạt động ngành nghề phi nông nghiệp, trong đó có các nghề thủ
công truyền thống đã thu hút gần 11 triệu người lao động, chiếm 29,5% lực
lượng lao động ở nông thôn. Vai trò tạo việc làm của các làng nghề truyền thống
còn thể hiện rất rõ ở sự phát triển lan tỏa sang các làng khác, vùng khác, nó đã
giải quyết việc làm cho nhiều lao động tạo ra động lực cho sự phát triển kinh tế

xã hội ở vùng đó. Trường hợp như làng gốm Bát Tràng, hàng tháng, nhiều người
dân lao động đến Bát Tràng làm việc để tăng thu nhập khi người dân lao động
tại làng gốm Bát Tràng không đáp ứng được nhu cầu về nguồn lao động.
Quá trình hoạt động và mở rộng sản xuất các làng nghề còn thu hút được
nguồn vốn nhàn rỗi, tận dụng thời gian và lực lượng lao động, hạn chế di dân tự
do. Khác với sản xuất công nghiệp và các ngành nghề khác, phần lớn các làng
nghề truyền thống không đòi hỏi số vốn đầu tư quá lớn, xuất phát từ đặc điểm
của sản xuất trong các làng nghề truyền thống là quy mô nhỏ, cơ cấu vốn và cơ
cấu lao động ít nên rất phù hợp với khả năng huy động vốn và các nguồn lực vật
chất của các hộ gia đình thủ công. Đây là một lợi thế để các làng nghề có thể
23


huy động các loại vốn nhàn rỗi trong dân vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Do
đặc điểm sản xuất của nghề truyền thống là sử dụng chủ yếu nguồn lao động tại
chỗ, nơi sản xuất cũng chính là nơi ở của người thợ, vì vậy, nó có khả năng tận
dụng và thu hút nhiều loại lao động thời vụ nông nhàn đến các lao động ở mọi
lứa tuổi. Chính do đặc điểm của sản xuất và khả năng thu nhập đảm bảo cuộc
sống quy định, các nghề thủ công truyền thống đã góp phần tích cực trong việc
hạn chế di dân tự do ở nông thôn. Hiện tượng di dân từ nông thôn ra thành thị,
từ vùng này sang vùng khác là một hiện tượng phổ biến ở nước ta hiện nay; mặt
khác sức ép về việc làm và thu nhập đã thúc đẩy người nông dân đi tìm việc làm
ở thành phố, nơi thường xuyên có nhu cầu lao động, đặc biệt là lao động giản
đơn, hoặc chuyển cư đến vùng khác đến nơi có khả năng cho thu nhập cao hơn.
Làng nghề truyền thống phát triển tại các làng xã đã và đang và sẽ góp
phần làm đa dạng hóa kinh tế nông thôn, thúc đẩy quá trình đô thị hóa. Đa dạng
hóa kinh tế nông thôn là một biện pháp thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa ở nông
thôn phát triển, tạo ra một sự chuyển biến mới về chất, góp phần phát triển kinh
tế xã hội nông thôn. Vì vậy, trong kinh tế nông thôn, phát triển làng nghề truyền
thống được coi là cơ sở và là một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện

quá trình đa dạng hóa kinh tế nông thôn. Thực tế hoạt động cho thấy rõ thúc đẩy
sản xuất nông nghiệp phát triển sẽ kích thích sự ra đời và phát triển các nghề
khác như dịch vụ, thương mại. Như vậy, nghề thủ công truyền thống đã phá vỡ
thế độc canh trong các làng thuần nông, mở ra hướng phát triển mới với nhiều
nghề trong một làng nông nghiệp. Sự phát triển mạnh mẽ của làng nghề hiện nay
tự bản thân nó đòi hỏi phải có cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội đảm bảo. Vì vậy,
phát triển làng nghề truyền thống không chỉ tạo điều kiện cho người dân có thu
nhập cao hơn, cuộc sống ngày càng ổn định hơn mà còn là nhân tố kích thích sự
phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và nâng cao dân trí ở nông thôn, thúc đẩy xã
hội nông thôn tiến lên văn minh, hiện đại, thu hẹp dần khoảng cách giữa thành
thị và nông thôn.

24


Từ góc độ văn hóa, lịch sử phát triển của làng nghề truyền thống gắn liền
với lịch sử phát triển văn hóa dân tộc. Đó là nhân tố tạo nên nền văn hóa ấy,
đồng thời là sự biểu hiện tập trung nhất bản sắc văn hóa dân tộc. Sản phẩm của
nghề thủ công truyền thống là sự kết tinh của lao động vật chất và lao động tinh
thần, được tạo ra bởi bàn tay tài hoa và óc sáng tạo của người thợ thủ công.
Nhiều sản phẩm truyền thống có tính nghệ thuật cao, mỗi sản phẩm là một tác
phẩm nghệ thuật, trong đó chứa đựng những nét đặc sắc của văn hóa dân tộc,
đồng thời thể hiện những sắc thái riêng, đặc tính riêng của mỗi làng nghề. Nghề
truyền thống, đặc biệt là nghề thủ công kỹ nghệ, là những di sản quý giá mà các
thế hệ cha ông đã sáng tạo ra và truyền lại cho các thế hệ mai sau. Mặc dù nền
sản xuất công nghiệp hiện đại phát triển mạnh mẽ, các sản phẩm công nghiệp
được sử dụng và tiêu thụ ở khắp nơi, nhưng các sản phẩm thủ công truyền
thống, với tính độc đáo và độ tinh xảo của nó, vẫn rất cần thiết và có ý nghĩa đối
với nhu cầu đời sống của con người. Những sản phẩm này là sự kết tinh, bảo tồn
các giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc, là sự bảo lưu những tinh hoa nghệ thuật

và kỹ thuật truyền từ đời này qua đời khác, qua những thế hệ nghệ nhân tài ba
với những nét độc đáo mang bản sắc dân tộc. Những vấn đề nêu ra trên đây đã
minh chứng rằng, các chính sách phát triển kinh tế đúng đắn của Đảng và Nhà
nước ta về khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích
cực, tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến các nghề và làng
nghề truyền thống cũng là một vấn đề cần quan tâm của các nhà quản lý xã hội.
Thực tế hiện nay cho thấy, bên cạnh các số lượng làng nghề phát triển thích ứng
và tìm được đường đi hợp lý, mở rộng quy mô sản xuất, số lượng hàng hóa ngày
càng tăng, thị trường tiêu thụ sản phẩm ngày càng được mở rộng không chỉ
trong phạm vi quốc gia mà còn xuất khẩu ra các nước trên thế giới, vẫn còn một
số không nhỏ làng nghề gặp nhiều khó khăn về vốn, về đầu ra cho sản phẩm,
mẫu mã sản phẩm còn đơn điệu, không đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ của
người tiêu dùng và không thể cạnh tranh được với các hàng công nghiệp, đặc
25


×