Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình đô thị hóa ở huyện từ sơn, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.62 KB, 128 trang )

Đề tài
“Phát triển làng nghề truyền
thống trong quá trình đô thị hóa ở
huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh”
1
MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cám ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các chữ viết tắt và ký hiệu iv
Danh mục các biểu v
2
1. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Đô thị hóa là một trong những biểu hiện của sự phát triển kinh tế, xã
hội của một địa phương, một vùng hoặc một quốc gia. Kể từ khi nước ta thực
hiện chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, tốc độ đô thị
hóa ở các thành phố, thị trấn, thị tứ diễn ra rất nhanh. Ở các khu vực này, các
trung tâm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, trung tâm thương mại, dịch vụ,
văn hóa, y tế, tài chính đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều dẫn đến việc
tập trung dân cư, hình thành các thị trấn, thị tứ và đô thị.
Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn có tầm quan
trọng hàng đầu đối với sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Đặc biệt trong
nền kinh tế thị trường, vấn đề phát triển kinh tế nông thôn là cần thiết và có
vai trò quan trọng nhằm đưa nông nghiệp thoát khỏi tình trạng thuần nông, tự
cấp, tự túc, phát triển thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa và chuyển đổi
cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ. Và một trong những nội dung trọng tâm phát
triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay là khôi phục và phát triển các ngành
nghề thủ công nghiệp, các làng nghề truyền thống trong khu vực nông thôn,
góp phần thu hút lao động dôi dư, giải quyết việc làm, đồng thời nâng cao thu


nhập và từng bước cải thiện đời sống nhân dân. Từ đó giảm được làn sóng di
dân từ nông thôn ra thành thị, khơi dậy tiềm năng vốn có của địa phương, góp
phần gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc, tạo ra sự chuyển biến tích cực trong
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Cùng với công cuộc “đổi mới” của tỉnh, những năm qua Từ Sơn luôn là
huyện có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Đóng góp không nhỏ trong tổng giá
trị sản xuất của huyện là các ngành nghề thủ công nghiệp (TCN), ở đó làng
3
nghề truyền thống đóng vai trò nòng cốt. Các làng nghề truyền thống chủ yếu
ở Từ Sơn là sản xuất sắt thép, sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ, dệt Sự phát triển của
các làng nghề truyền thống đã thu hút hàng vạn lao động tại địa phương, góp
phần đáng kể vào giải quyết lao động dư thừa và thiếu việc làm trong nông
thôn, nâng cao mức sống cho người dân, góp phần tích cực trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Nằm cận kề giữa hai thành phố là Hà Nội và Bắc Ninh, huyện Từ Sơn
có tốc độ đô thị hóa khá nhanh và có tác động tích cực đến phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, đời sống nhân dân càng sung túc, ổn định. Đây cũng là điều
kiện tốt cho các làng nghề truyền thống có thể tiếp cận, tăng khả năng thích
ứng với các hoạt động của nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa nhanh cũng làm khó khăn trong việc
đáp ứng cơ sở hạ tầng, ô nhiễm môi trường ngày một gia tăng, nảy sinh các
vấn đề xã hội Vì vậy cùng với quá trình đô thị hóa, đòi hỏi phát triển làng
nghề truyền thống trên địa bàn huyện Từ Sơn phải có những giải pháp, định
hướng phù hợp, vừa đẩy nhanh quá trình đô thị hóa nhưng vẫn đảm bảo cho
các làng nghề truyền thống được bảo tồn, phát triển.
Xuất phát từ tình hình trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Phát
triển làng nghề truyền thống trong quá trình đô thị hóa ở huyện Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung

Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng đô thị hóa và các yếu tố ảnh
hưởng đến phát triển làng nghề truyền thống, trên cơ sở đó đưa ra định hướng
và các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát triển làng nghề truyền thống
trong quá trình đô thị hóa trên địa bàn Huyện.
4
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về phát triển làng nghề truyền thống và
quá trình đô thị hóa.
- Đánh giá thực trạng phát triển và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển
làng nghề truyền thống trong quá trình đô thị hóa ở huyện Từ Sơn
- Đề xuất định hướng và các giải pháp phát triển làng nghề truyền
thống trong quá trình đô thị hóa trong những năm tới.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu phát triển của các làng nghề truyền thống trong quá trình
đô thị hóa trên địa huyện Từ Sơn.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu thực trạng đô thị hóa và phát triển làng nghề
truyền thống về tổ chức, quản lý, sản xuất, tình hình sử dụng lao động, đất
đai, tác động môi trường của các làng nghề truyền thống trong quá trình đô
thị hóa ở huyện Từ Sơn. Trên cơ sở phân tích những thuận lợi và khó khăn
đang gặp phải từ các làng nghề truyền thống để đưa ra các định hướng và giải
pháp phát triển phù hợp trong quá trình đô thị hóa.
- Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu 3 làng nghề truyền thống
trên địa bàn huyện: Làng nghề mộc mỹ nghệ Đồng Kỵ, làng nghề dệt Hồi
Quan và làng nghề sắt thép Đa Hội.
- Về thời gian: Đề tài thu thập số liệu thứ cấp trong thời gian từ năm
1999-2006 và số liệu điều tra năm 2006.
5
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

2.1 Cơ sở lý luận về phát triển làng nghề truyền thống
2.1.1 Một số khái niệm
2.1.1.1 Nghề truyền thống
Nghề truyền thống ở nước ta rất phong phú, đa dạng, đã hình thành và
tồn tại hàng trăm năm, tạo ra nhiều sản phẩm nổi tiếng trong nước và thế giới
như gốm Bát Tràng, nghề chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình), nghề dệt tơ lụa
Hà Đông
Ngày nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật và
công nghệ đã khiến cho việc sản xuất các sản phẩm có tính truyền thống được
hỗ trợ bởi quy trình công nghệ mới với nhiều loại nguyên liệu mới. Do vậy
khái niệm nghề truyền thống đã được nghiên cứu và mở rộng hơn và có thể
hiểu như sau: “Nghề truyền thống bao gồm những nghề tiểu thủ công nghiệp
xuất hiện từ lâu đời trong lịch sử, được truyền từ đời này qua đời khác còn tồn
tại đến ngày nay, kể cả những nghề đã được cải tiến hoặc sử dụng những loại
máy móc hiện đại để hỗ trợ sản xuất nhưng vẫn tuân thủ công nghệ truyền
thống và đặc biệt sản phẩm của nó vẫn thể hiện những nét văn hóa đặc sắc của
dân tộc” [34].
* Phân loại nghề truyền thống
+ Phân biệt theo trình độ kỹ thuật
- Loại nghề có kỹ thuật giản đơn: đan lát, chế biến lương thực, thực
phẩm, làm gạch, nung vôi. Sản phẩm của những nghề này có tính chất thông
dụng, rất phù hợp với một nền kinh tế tự cấp, tự túc.
- Loại nghề có kỹ thuật phức tạp: kim hoàn, đúc đồng, làm gốm, khảm
gỗ, dệt lụa Các nghề này không chỉ có kỹ thuật, công nghệ phức tạp mà còn
đòi hỏi ở người thợ sự sáng tạo và khéo léo.
6
+ Phân loại theo tính chất kinh tế:
- Loại nghề phụ thuộc vào nền kinh tế nông nghiệp tự nhiên, sản phẩm
ít mang tính chất hàng hóa, chủ yếu phục vụ nhu cầu tại chỗ như sản xuất
nông cụ như cày, bừa, liềm, hái.

- Loại nghề mà hoạt động độc lập với quá trình sản xuất nông nghiệp,
sản phẩm của nó thể hiện một trình độ nhất định của sự tách biệt thủ công
nghiệp với nông nghiệp, của tài năng sáng tạo và khéo léo của người thợ, tiêu
biểu là các sản phẩm nghề dệt, gốm, kim hoàn
2.1.1.2 Làng nghề
Cho đến nay có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm làng nghề, theo
giáo sư Trần Quốc Vượng thì: Làng nghề (như làng gốm Bát Tràng, Thổ Hà,
Phù Lãng, Hương Canh làng giấy vùng Bưởi, Dương Ổ làng rèn sắt
Canh Diễn, Phù Dực, Đa Hội ) là làng tuy vẫn có trồng trọt theo lối tiểu
nông và chăn nuôi nhỏ song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một
tầng lớp thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường, có ông
trùm, ông phó cả cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình
công nghệ nhất định sống chủ yếu bằng nghề đó và sản xuất ra những mặt
hàng thủ công, những mặt hàng đã có tính mỹ nghệ, trở thành sản phẩm hàng
hóa và có quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng xung quanh và tiến tới
mở rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra nước ngoài. Những làng nghề ấy ít
nhiều đã nổi danh từ lâu “dân biết mặt, nước biết tên, tên làng đã đi vào lịch
sử, vào ca dao tục ngữ” trở thành văn hóa dân gian [4].
Theo tác giả Bùi Văn Vượng thì “Làng nghề truyền thống là làng cổ
truyền thủ công, ở đấy không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ
công. Người thợ thủ công nhiều trường hợp cũng đồng thời là người làm nghề
nông nhưng yêu cầu chuyên môn hóa cao đã tạo ra những người thợ chuyên
sản xuất hàng truyền thống ngay tại làng quê của mình ” [33].
7
Làng nghề là những làng sống bằng hoặc chủ yếu bằng nghề thủ công ở
nông thôn Việt Nam [29].
Vậy khái niệm làng nghề có thể bao gồm những nội dung sau: “Làng
nghề là một thiết chế kinh tế-xã hội ở nông thôn được cấu thành bởi hai yếu
tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất định, trong đó bao
gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chính, giữa họ có mối

liên kết về kinh tế, xã hội và văn hóa” [30].
* Phân loại làng nghề
+ Phân loại theo số lượng nghề
- Làng một nghề: Là những làng ngoài nghề nông ra chỉ có một nghề
thủ công duy nhất.
- Làng nhiều nghề: là những làng ngoài nghề nông ra còn có một số
hoặc nhiều nghề khác.
+ Phân theo tính chất nghề
- Làng nghề truyền thống: là những làng nghề xuất hiện từ lâu đời trong
lịch sử và còn tồn tại đến ngày nay.
- Làng nghề mới: Là những làng nghề xuất hiện do sự phát triển lan tỏa
của các làng nghề truyền thống hoặc được du nhập từ các địa phương khác.
2.1.1.3 Làng nghề truyền thống
Trong làng nghề truyền thống thường có đại bộ phận dân số làm nghề
cổ truyền hoặc một vài dòng họ chuyên làm nghề theo kiểu cha truyền con
nối, nghĩa là việc dạy nghề được thực hiện bằng phương pháp truyền nghề.
Song sự truyền nghề này luôn có sự tiếp thu những cải tiến, sáng tạo làm cho
sản phẩm của mình có những nét độc đáo riêng so với sản phẩm của người
khác, làng khác.
8
Qua khái niệm nghề truyền thống và làng nghề được trình bày ở trên thì
làng nghề truyền thống trước hết là làng nghề được tồn tại và phát triển lâu
đời trong lịch sử, trong đó gồm có một hoặc nhiều nghề thủ công truyền
thống, là nơi quy tụ các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề, là nơi có nhiều
hộ gia đình chuyên làm nghề truyền thống lâu đời, giữa họ có sự liên kết, hỗ
trợ nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Họ có cùng tổ nghề và đặc biệt
các thành viên luôn ý thức tuân thủ những ước chế xã hội và gia tộc [34].
* Phân loại làng nghề truyền thống
- Làng nghề truyền thống chuyên sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ như:
gốm, sứ, dệt tơ tằm, chạm khắc gỗ, đá, thêu ren

- Làng nghề truyền thống chuyên sản xuất các mặt hàng phục vụ cho
sản xuất và đời sống như: rèn, mộc, nề, đúc đồng, nhôm, gang sản xuất vật
liệu xây dựng
- Làng nghề truyền thống chuyên sản xuất các mặt hàng cho nhu cầu
thông thường như: dệt vải, dệt chiếu cói, làm nón, may mặc
- Làng nghề truyền thống chuyên chế biến lương thực, thực phẩm như:
xay xát, làm bún, chế biến hải sản
2.1.2 Đặc điểm làng nghề truyền thống
2.1.2.1 Đặc điểm kỹ thuật, công nghệ và sản phẩm
+ Đặc điểm kỹ thuật, công nghệ
- Đặc điểm, đặc trưng đầu tiên của nghề thủ công truyền thống là kỹ
thuật thủ công mang tính truyền thống và bí quyết dòng họ. Công cụ sản xuất
chủ yếu là thô sơ do chính người thợ thủ công chế tạo ra.
- Công nghệ truyền thống không thể thay hoàn toàn bằng công nghệ
hiện đại mà chỉ có thể thay ở một số khâu, công đoạn nhất định. Đây là một
trong những yếu tố tạo nên tính truyền thống của sản phẩm.
9
- Kỹ thuật công nghệ trong các làng nghề truyền thống hầu hết là thô
sơ, lạc hậu.
- Thông qua sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, đã tạo ra sự kết hợp
giữa công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại trong quá trình sản xuất.
+ Đặc điểm về sản phẩm
- Sản phẩm làng nghề truyền thống rất đa dạng và phong phú, nó có thể
được sản xuất hàng loạt hoặc sản xuất đơn chiếc. Việc sản xuất hàng loạt sản
phẩm giống nhau chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ hoặc vừa. Bên cạnh đó, sản
phẩm mang tính đơn chiếc thường là sản phẩm mỹ nghệ cao cấp, bởi những
nét hoa văn, những phần tinh của chúng luôn được cải biến thêm thắt nhằm
thu hút sự thưởng thức của những người sành chơi. Nhìn chung, trong sản
phẩm của làng nghề truyền thống vẫn tồn đọng những hao phí lao động sống,
đó là lao động thủ công của con người.

- Sản phẩm của làng nghề truyền thống bao gồm nhiều chủng loại như
sản phẩm là tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt và các sản phẩm nghệ thuật. Sản
phẩm không chỉ đáp ứng các nhu cầu trong nước mà còn để xuất khẩu, đặc
biệt là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như gốm sứ, chạm trổ, thêu ren, dệt tơ
tằm đã được xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới và ngày càng được ưu
chuộng.
2.1.2.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội
+ Đặc điểm về lao động
- Đặc điểm nổi bật trong các làng nghề truyền thống là sử dụng lao
động thủ công là chính.
- Lao động trong làng nghề truyền thống có nhiều loại hình và nhiều
trình độ khác nhau. Trong đó nghệ nhân đóng vai trò quan trọng, được coi là
nòng cốt của quá trình sản xuất và sáng tạo sản phẩm.
10
- Việc dạy nghề theo phương thức truyền nghề từ đời này sang đời
khác, tuy nhiên việc đào tạo nghề hiện nay có sự kết hợp với phương thức
mới, mở ra các trường, lớp đào tạo nghề nhưng đồng thời vừa học, vừa làm,
có sự truyền nghề của các nghệ nhân, thợ cả đối với thợ phụ, thợ học việc.
+ Đặc điểm về thị trường tiêu thụ sản phẩm
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của làng nghề truyền thống được hình
thành từ nhu cầu tiêu dùng sản phẩm. Nhu cầu tiêu dùng thường được phân
chia thành các nhóm sau:
- Sản phẩm tiêu dùng dân dụng: Được tiêu dùng khá phổ biến ở các
tầng lớp dân cư. Đối với loại sản phẩm này, tiền công lao động thấp nên giá
thành sản phẩm thấp, sản phẩm phù hợp với khả năng kinh tế, tâm lý và thói
quen của đa số người tiêu dùng.
- Sản phẩm mỹ nghệ cao cấp: Khi cuộc sống nâng cao nên tiêu dùng sản
phẩm cao cấp nhiều hơn. Vì vậy nhu cầu về sản phẩm này ngày càng tăng,
không chỉ về số lượng và chủng loại sản phẩm mà còn về chất lượng sản phẩm.
- Sản phẩm xuất khẩu: Bao gồm cả sản phẩm dân dụng và sản phẩm

thủ công mỹ nghệ. Người nước ngoài rất ưa chuộng hàng thủ công mỹ nghệ
Việt Nam và trầm trồ về những nét đẹp hài hoà, chứa đựng nhiều điển tích,
hoa văn tinh tế và tính chất dân gian của sản phẩm làng nghề qua bàn tay
khéo léo của thợ thủ công. Sản phẩm gốm sứ, đồ mộc được tiêu thụ với khối
lượng ngày càng lớn ở Đài Loan, Úc, Nhật Bản Sản phẩm mỹ nghệ khảm
trai, ốc, mây tre đan được tiêu thụ rộng khắp ở châu Âu Khách du lịch nước
ngoài thường bỏ ra hàng giờ, nhiều lần để ngắm nhìn và lựa chọn những món
quà đặc sắc được làm từ hòn đất, cành tre, khúc gỗ, xương thú, sừng, thổ cẩm,
sợi đay, bẹ ngô, kim loại đơn sơ như cuộc sống đời thường của người Việt
Nam nhưng rất có hồn.
11
+ Đặc điểm về tổ chức sản xuất
Trong lịch sử phát triển làng nghề truyền thống, hình thức tổ chức sản
xuất phổ biến nhất là hộ gia đình. Ngày nay cùng với quá trình phát triển kinh
tế và công cuộc đổi mới của đất nước, đã xuất hiện nhiều hình thức tổ chức
sản xuất mới:
- Xét theo hình thức sở hữu có các loại: Công ty TNHH, doanh nghiệp
tư nhân, hợp tác xã, hộ sản xuất
- Xét theo phương hướng sản xuất có: Các cơ sở chuyên sản xuất hàng
TTCN, các cơ sở vừa làm hàng TTCN vừa làm dịch vụ tiêu thụ sản phẩm, các
cơ sở vừa sản xuất hàng TTCN vừa sản xuất sản phẩm nông nghiệp.
2.1.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển làng nghề truyền thống
Quá trình phát triển làng nghề truyền thống chịu sự tác động của nhiều
nhân tố khác nhau. Ở mỗi vùng, mỗi địa phương, mỗi làng nghề do có những
đặc điểm khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa nên sự tác
động của các nhân tố không giống nhau. Tuy nhiên hiểu một cách tổng quát
chúng gồm có các nhân tố cơ bản sau:
Thứ nhất là thị trường sản phẩm của làng nghề: Thị trường có sự tác
động mạnh mẽ đến phương hướng phát triển, cách thức tổ chức, cơ cấu sản
phẩm và là động lực thúc đẩy làng nghề truyền thống phát triển. Sự tồn tại và

phát triển của làng nghề truyền thống phụ thuộc rất lớn vào thị trường. Sản
xuất càng phát triển càng thể hiện rõ sự chi phối quan hệ cung cầu, cạnh tranh
trên thị trường. Những làng nghề có sản phẩm độc đáo, kỹ thuật tinh xảo và
luôn đổi mới để phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng sẽ có
khả năng thích ứng và đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Ngược lại có những
làng nghề không phát triển, mai một, thậm chí có nguy cơ mất đi là do sản
phẩm không đủ sức cạnh tranh hoặc nhu cầu của thị trường không cần đến sản
phẩm đó nữa (như nghề sản xuất giấy dó, tranh dân gian ).
12
Thứ hai là vốn cho phát triển kinh doanh: Đây là nguồn lực vật chất
quan trọng đối với bất kỳ hoạt động kinh doanh nào. Nhiệm vụ chủ yếu nhất
của nguồn vốn là đầu tư phát triển sản xuất, cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng,
công nghệ Do vậy sự phát triển thịnh vượng của làng nghề cũng thụ thuộc
rất lớn vào các nguồn vốn được huy động. Trước đây trong nền kinh tế tự cấp
tự túc, vốn phục vụ cho sản xuất thường nhỏ bé, vốn chủ yếu là tự có hoặc
huy động từ người thân trong gia đình. Ngày nay để đáp ứng với nền sản xuất
quy mô lớn, đáp ứng nhu cầu cao của nền kinh tế thị trường thì lượng vốn cần
lớn hơn để đầu tư đổi mới công nghệ, đưa thiết bị, máy móc vào sản xuất, góp
phần tăng năng suất, chất lượng sản phẩm.
Thứ ba là cơ sở hạ tầng: Bao gồm hệ thống đường giao thông, cấp
nước, thoát nước, thông tin liên lạc, các công trình dịch vụ thương mại, công
cộng Đây là yếu tố tạo điều kiện cho quá trình sản xuất, khai thác và phát
huy tiềm năng sẵn có của mỗi làng nghề. Đảm bảo cho quá trình cung cấp
nguyên liệu sản xuất, tiêu thụ sản phẩm cũng như mở rộng quy mô sản xuất,
áp dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất, đồng thời làm giảm
thiểu ô nhiễm môi trường. Do vậy ở những nơi có cơ sở hạ tầng đầy đủ và
đồng bộ thì các làng nghề truyền thống có điều kiện phát triển mạnh. Tuy
nhiên hiện nay phần lớn các làng nghề truyền thống còn đang gặp rất nhiều
khó khăn vì điều kiện cơ sở hạ tầng còn yếu kém và chưa đồng bộ.
Thứ tư là nguồn nhân lực: Trong các làng nghề truyền thống có các

nghệ nhân, thợ thủ công giỏi, trình độ rất tinh xảo. Họ là những người tâm
huyết và gắn bó với nghề, đặc biệt quan trọng trong việc truyền nghề, dạy
nghề, đồng thời là người sáng tạo những sản phẩm độc đáo. Hiện nay vẫn còn
nhiều nghệ nhân tâm huyết với nghề, muốn giữ gìn văn hóa dân tộc và truyền
thống của ông cha. Việc truyền nghề đã không còn tuân theo các quy định
khắt khe như trong phường hội thời phong kiến, nhưng những bí quyết kỹ
13
thuật, mẫu mã sáng chế có giá trị kinh tế cao vẫn được bảo vệ để tránh bị cạnh
tranh. Vấn đề đào tạo nâng cao trình độ kỹ thuật còn nhiều hạn chế, chất
lượng nguồn lao động chưa cao, trình độ chuyên môn và văn hóa thấp, nhất là
đối với các chủ doanh nghiệp trong việc đáp ứng nhu cầu ngày cao của thị
trường trong nước cũng như quốc tế.
Thứ năm là trình độ kỹ thuật và công nghệ: Trong cơ chế thị trường sự
phát triển của làng nghề truyền thống đã thể hiện cuộc cạnh tranh gay gắt về
năng suất, chất lượng, giá cả. Sản phẩm sản xuất ra chịu sự cạnh tranh gay gắt
từ các sản phẩm cùng loại trong nước cũng như nhập khẩu. Đặc biệt trong giai
đoạn hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, giao lưu thương mại mang tính
toàn cầu thì việc ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ càng có tác
động to lớn đến khả năng cạnh tranh, tăng năng suất lao động và chất lượng
của sản phẩm.
Thứ sáu là nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất: Trong thời kỳ phương
tiện giao thông và phương tiện kỹ thuật chưa phát triển, thì gần các vùng
nguyên liệu được coi là một trong những điều kiện tạo nên sự hình thành và
phát triển các làng nghề truyền thống. Hiện nay, các nguyên liệu khai thác
phục vụ cho các làng nghề chủ yếu từ môi trường tự nhiên nên vùng nguyên
liệu ngày càng suy giảm (như gỗ ), gây khó khăn cho sản xuất vì nguyên
liệu đang bị cạn kiệt. Do vậy khối lượng, chất lượng, chủng loại, khoảng cách
của các nguồn nguyên liệu có ảnh hưởng tới chất lượng và giá thành sản
phẩm.
Vậy qua sự hệ thống các khái niệm, đặc điểm, các nhân tố ảnh hưởng

đến sự phát triển làng nghề truyền thống, cùng với công cuộc phát triển kinh
tế của đất nước, quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ trong các làng nghề
truyền thống, đặc biệt là những làng nghề phát triển gần các thành phố lớn.
Khi đó hoạt động sản xuất làng nghề gắn với nông nghiệp, nông thôn trước
14
kia sẽ được thay thế bằng hoạt động sản xuất quy mô lớn hơn, hình thành làng
công nghiệp, ở đó sẽ có sự đầu tư về công nghệ, máy móc hiện đại thay thế
cho thiết bị, công cụ lạc hậu, từ sản xuất quy mô nhỏ lẻ sang quy mô lớn với
năng suất và chất lượng cao hơn. Tổ chức sản xuất từ hộ gia đình sang các
loại hình tổ chức sản xuất lớn như Công ty, HTX Do sự phát triển của làng
nghề nói riêng và sự phát triển về kinh tế, xã hội nói chung trong quá trình đô
thị hóa sẽ dẫn đến sự chuyển đổi từ nông thôn sang thành thị, khi đó các làng
nghề, xã nghề trở thành phố nghề, phường. Và các làng nghề truyền thống
không chỉ là nơi sản xuất như trước kia mà còn có sự phát triển của các hoạt
động thương mại, dịch vụ khác.
2.1.4 Khái niệm về tăng trưởng, phát triển, phát triển làng nghề truyền
thống
2.1.4.1 Tăng trưởng và phát triển
Tăng trưởng được hiểu là sự gia tăng về mặt số lượng của một sự vật
nhất định. Trong kinh tế, tăng trưởng thể hiện sự gia tăng hơn trước về sản
phẩm hay lượng đầu ra của một quá trình sản xuất hay hoạt động. Tăng
trưởng kinh tế có thể hiểu là kết quả của mọi hoạt động kinh tế trong lĩnh vực
sản xuất cũng như trong lĩnh vực dịch vụ được tạo ra trong một thời kỳ nhất
định [7]. Khái niệm tăng trưởng này ở cấp độ vĩ mô, thì tăng trưởng kinh tế là
sự gia tăng về quy mô sản lượng quốc gia hoặc quy mô sản lượng quốc gia
tính bình quân trên đầu người qua một thời gian nhất định.
Phát triển bao hàm ý nghĩa rộng hơn, phát triển bên cạnh thu nhập bình
quân đầu người còn bao gồm nhiều khía cạnh khác. Sự tăng trưởng cộng thêm
các thay đổi cơ bản trong cơ cấu của nền kinh tế, sự tăng lên của sản phẩm
quốc dân do ngành công nghiệp tạo ra, sự đô thị hoá, sự tham gia của một

quốc gia trong quá trình tạo ra các thay đổi nói trên là những nội dung của sự
15
phát triển. Phát triển là việc nâng cao phúc lợi của nhân dân, nâng cao các tiêu
chuẩn sống, cải thiện giáo dục, sức khỏe và đảm bảo sự bình đẳng cũng như
quyền công dân. Phát triển còn được định nghĩa là sự tăng trưởng bền vững
về các tiêu chuẩn sống, bao gồm tiêu dùng, vật chất, giáo dục, sức khỏe và
bảo vệ môi trường [14].
2.1.4.2 Phát triển bền vững
Phát triển bền vững là một thuật ngữ được toàn thế giới sử dụng rộng
rãi, do tầm quan trọng mà khái niệm phát triển bền vững vẫn được tiếp tục
sửa đổi, mở rộng và sàng lọc.
Theo Ủy ban quốc tế về Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc
năm 1997 đã định nghĩa: Phát triển bền vững là một quá trình của sự thay đổi,
trong đó việc khai thác và sử dụng tài nguyên, hướng đầu tư, hướng phát triển
của công nghệ, kỹ thuật và sự thay đổi về tổ chức là thống nhất, làm tăng khả
năng đáp ứng về nhu cầu hiện tại và tương lai của con người.
Hội nghị thượng đỉnh về trái đất năm 1992 tại Rio de Janeiro đưa ra
định nghĩa vắn tắt về phát triển bền vững là: Phát triển nhằm thỏa mãn nhu
cầu của thế hệ ngày nay mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu
của các thế hệ trương lai.
Phát triển bền vững cũng có thể được gọi bằng cách khác là phát triển
“bình đẳng và cân đối”, có nghĩa là để duy trì sự phát triển cân bằng lợi ích
của các nhóm người trong cùng một thế hệ và giữa các thế hệ, thực hiện điều
này đồng thời trên cả ba lĩnh vực quan trọng có mối quan hệ qua lại với nhau,
đó là kinh tế, xã hội và môi trường [25].
2.1.4.3 Phát triển làng nghề truyền thống
16
Trên cơ sở lý luận về tăng trưởng và phát triển, chúng tôi cho rằng phát
triển làng nghề truyền thống là sự tăng lên về quy mô làng nghề truyền thống
và phải đảm bảo được hiệu quả sản xuất của làng nghề.

Sự tăng lên về quy mô làng nghề được hiểu là sự mở rộng về sản xuất
của từng làng nghề và số lượng làng nghề được tăng lên theo thời gian và
không gian (làng nghề mới), trong đó làng nghề cũ được củng cố, làng nghề
mới được hình thành. Từ đó giá trị sản lượng của làng nghề không ngừng
được tăng lên, nó thể hiện sự tăng trưởng của làng nghề. Sự phát triển làng
nghề truyền thống phải đảm bảo hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường.
Trên quan điểm phát triển bền vững, phát triển làng nghề truyền thống
còn yêu cầu: Sự phát triển phải có kế hoạch, quy hoạch, sử dụng các nguồn
lực như tài nguyên thiên nhiên, lao động, vốn, nguyên liệu cho sản xuất
đảm bảo hợp lý có hiệu quả, nâng cao mức sống cho người lao động, không
gây ô nhiễm môi trường, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc
2.2 Cơ sở lý luận về đô thị và đô thị hóa
2.2.1 Một số khái niệm về đô thị và liên quan đến quá trình đô thị hóa
Khái niệm về đô thị có tính tương đối do sự khác nhau về trình độ phát
triển kinh tế - xã hội, hệ thống dân cư. Mỗi quốc gia có quy định riêng, dưới
đây là một số khái niệm cơ bản:
- Đô thị là một không gian cư trú của cộng đồng người sinh sống tập
trung và hoạt động trong những khu vực kinh tế phi nông nghiệp.
- Đô thị là nơi tập trung dân cư, chủ yếu lao động phi nông nghiệp,
sống và làm việc theo kiểu thành thị.
- Đô thị là nơi tập trung đông dân cư với mật độ cao, chủ yếu là lao
động phi nông nghiệp, cơ sở hạ tầng thích hợp, là trung tâm tổng hợp hay
17
trung tâm chuyên ngành có vai trò thúc đẩy kinh tế-xã hội của cả nước, của
miền lãnh thổ, một tỉnh, một huyện hay một vùng trong tỉnh, trong huyện [12]
- Đô thị là một khu dân cư tập trung, về trình độ phát triển đô thị phải
đạt được những tiêu chuẩn sau:
+ Là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ như:
vùng liên tỉnh, vùng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc vùng trong

tỉnh, trong thành phố trực thuộc Trung ương, vùng huyện hoặc tiểu vùng
trong huyện.
+ Đối với khu vực nội thành, nội thị, thị trấn tỷ lệ lao động phi nông
nghiệp tối thiểu phải đạt 65% tổng số lao động, cơ sở hạ tầng phục vụ các
hoạt động của dân cư tối thiểu phải đạt 70% mức tiêu chuẩn, quy chuẩn thiết
kế quy hoạch xây dựng quy định cho từng loại đô thị, quy mô dân số ít nhất là
4.000 người và mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2.000 người/km
2
[9].
Các yếu tố cơ bản phân loại một đô thị
Yếu tố 1: Chức năng của đô thị
Các chỉ tiêu thể hiện chức năng của một đô thị gồm:
+ Vị trí của đô thị trong hệ thống đô thị cả nước
- Vị trí của một đô thị trong hệ thống đô thị cả nước phụ thuộc vào cấp
quản lý của đô thị và phạm vi ảnh hưởng của đô thị như: đô thị - trung tâm
cấp quốc gia, đô thị - trung tâm cấp vùng (liên tỉnh), đô thị - trung tâm cấp
tỉnh, đô thị - trung tâm cấp huyện và đô thị - trung tâm cấp tiểu vùng (trong
huyện) [5].
- Ngoài ra, theo tính chất, một đô thị có thể là trung tâm tổng hợp hoặc
trung tâm chuyên ngành của một hệ thống đô thị. Đô thị là trung tâm tổng hợp
khi có chức năng tổng hợp về nhiều mặt như: hành chính - chính trị, an ninh -
quốc phòng, kinh tế (công nghiệp, dịch vụ, du lịch, nghỉ mát), đào tạo, nghiên
18
cứu, khoa học kỹ thuật Đô thị là trung tâm chuyên ngành khi có một vài
chức năng nào đó nổi trội hơn so với các chức năng khác và giữ vai trò quyết
định tính chất của đô thị đó như: đô thị công nghiệp, đô thị nghỉ mát, du lịch,
đô thị nghiên cứu khoa học, đào tạo, đô thị cảng
+ Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của đô thị: Tổng thu ngân sách, thu nhập
bình quân đầu người, tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ tăng dân số
Yếu tố 2: Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động

Lao động phi nông nghiệp của một đô thị là lao động trong khu vực nội
thành phố, nội thị xã, thị trấn thuộc các ngành kinh tế quốc dân như: công
nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, bưu điện, thương nghiệp, cung ứng vật
tư, dịch vụ công cộng, du lịch, khoa học, giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, y tế,
bảo hiểm, thể thao, tài chính, tín dụng, ngân hàng, quản lý nhà nước và lao
động khác không thuộc ngành sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp.
Yếu tố 3: Cơ sở hạ tầng đô thị
- Cơ sở hạ tầng đô thị bao gồm:
+ Cơ sở hạ tầng xã hội: nhà ở, các công trình dịch vụ thương mại, công
cộng, ăn uống, nghỉ dưỡng, y tế, văn hoá, giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa
học, thể dục thể thao, công viên cây xanh và các công trình phục vụ lợi ích
công cộng khác.
+ Cơ sở hạ tầng kỹ thuật: giao thông, cấp nước, thoát nước, cấp điện,
chiếu sáng, thông tin liên lạc, vệ sinh và môi trường đô thị.
+ Yếu tố 4: Quy mô dân số đô thị bao gồm số dân thường trú và số dân
tạm trú tại khu vực nội thành phố, nội thị xã và thị trấn. Theo quy định hiện
nay quy mô dân số đô thị ít nhất là 4.000 người [9].
+ Yếu tố 5: Mật độ dân số là chỉ tiêu phản ánh mức độ tập trung dân cư
của đô thị được xác định trên cơ sở quy mô dân số đô thị và diện tích đất đô
19
thị. Mật độ dân số đô thị phải phù hợp với tính chất và đặc điểm của từng loại
đô thị.
Dựa vào các căn cứ trên, đô thị nước ta được phân thành 6 loại sau:
- Đô thị loại đặc biệt: Là thủ đô hoặc đô thị với chức năng là trung tâm
chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, đào tạo, du lịch, dịch vụ,
đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong
tổng số lao động từ 90% trở lên, có cơ sở hạ tầng được xây dựng về cơ bản
đồng bộ và hoàn chỉnh. Quy mô dân số từ 1,5 triệu người và có mật độ dân số
bình quân từ 15.000 người/km

2
trở lên.
- Đô thị loại I: Đô thị với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn
hoá, khoa học kỹ thuật, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu trong
nước và quốc tế có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng
lãnh thổ liên tỉnh hoặc của cả nước. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong
tổng số lao động từ 85% trở lên, có cơ sở hạ tầng được xây dựng nhiều mặt
đồng bộ và hoàn chỉnh, quy mô dân số từ 50 vạn người và mật độ dân số bình
quân từ 12.000 người/km
2
trở lên.
- Đô thị loại II: Đô thị với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn
hoá, khoa học kỹ thuật, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu trong
vùng tỉnh, vùng liên tỉnh hoặc cả nước, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội của một vùng lãnh thổ liên tỉnh hoặc một số lĩnh vực đối với cả
nước, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động từ 80% trở lên,
có cơ sở hạ tầng được xây dựng nhiều mặt tiến tới tương đối đồng bộ và hoàn
chỉnh, quy mô dân số từ 25 vạn người trở lên, mật độ dân số bình quân từ
10.000 người/km
2
trở lên.
- Đô thị loại III: Đô thị với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế,
văn hoá, khoa học kỹ thuật, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu trong tỉnh
20
hoặc vùng liên tỉnh, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một
tỉnh hoặc một số lĩnh vực đối với vùng liên tỉnh, tỷ lệ lao động phi nông
nghiệp trong tổng số lao động từ 75% trở lên, có cơ sở hạ tầng được xây dựng
từng mặt đồng bộ và hoàn chỉnh, quy mô dân số từ 10 vạn người trở lên, mật
độ dân số bình quân từ 8.000 người/km
2

trở lên.
- Đô thị loại IV: Đô thị với chức năng là trung tâm tổng hợp hoặc
chuyên ngành về chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật, dịch vụ, đầu
mối giao thông, giao lưu trong tỉnh, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế -
xã hội của một tỉnh hoặc một vùng trong tỉnh; tỷ lệ lao động phi nông nghiệp
trong tổng số lao động từ 70% trở lên, có cơ sở hạ tầng đã hoặc đang được
xây dựng từng mặt đồng bộ và hoàn chỉnh, quy mô dân số từ 5 vạn người và
mật độ dân số bình quân từ 6.000 người/km
2
trở lên.
- Đô thị loại V: Đô thị với chức năng là trung tâm tổng hợp hoặc
chuyên ngành về chính trị, kinh tế, văn hoá và dịch vụ, có vai trò thúc đẩy sự
phát triển kinh tế xã hội của một huyện hoặc một cụm xã, tỷ lệ lao động phi
nông nghiệp trong tổng số lao động từ 65% trở lên, có cơ sở hạ tầng đã hoặc
đang được xây dựng nhưng chưa đồng bộ và hoàn chỉnh, quy mô dân số từ
4.000 người và mật độ dân số bình quân từ 2.000 người/km
2
trở lên.
Khái niệm về đô thị hóa
Đô thị hoá là hiện tượng lịch sử xảy ra ở hầu khắp các quốc gia trên thế
giới. Nhưng ở từng quốc gia qúa trình đô thị hoá lại diễn ra hết sức khác nhau
do tác động của các nguyên nhân khách quan và chủ quan. Đô thị hoá là
thước đo trình độ và là tấm gương phản chiếu trình độ phát triển kinh tế của
một quốc gia, một khu vực.
Khái niệm về đô thị hóa rất đa dạng vì nó chứa đựng nhiều hiện tượng
và biểu hiện khác nhau trong quá trình phát triển.
21
- Đô thị hóa là quá trình biến đổi về sự phân bố các yếu tố lực lượng
sản xuất, bố trí dân cư những vùng không đô thị thành đô thị [15].
- Đô thị hóa là quá trình tập trung dân số vào các đô thị, là sự hình

thành nhanh chóng các điểm dân cư đô thị trên cơ sở phát triển sản xuất và
đời sống [3].
- Đô thị hóa nông thôn: Là xu hướng phát triển bền vững có tính quy
mô, một quá trình phát triển nông thôn và phổ biến lối sống thành phố cho
nông thôn. Thực chất đó là tăng trưởng đô thị theo xu hướng bền vững [15].
- Quá trình đô thị hóa diễn ra đồng thời với quá trình công nghiệp hóa,
là quá trình biến đổi sâu sắc cơ cấu sản xuất, cơ cấu tổ chức, sinh hoạt xã hội,
cơ cấu tổ chức không gian kiến trúc xây dựng từ nông thôn sang thành thị.
Vậy khái niệm đô thị hóa có thể được hiểu như sau: “Đô thị hóa là quá
trình biến đổi và phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân,
bố trí dân cư, hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu
đô thị, đồng thời phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại
hóa cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng quy mô dân số” [1].
2.2.2 Đặc điểm của đô thị hóa
- Đô thị hóa luôn là bước tiếp theo của việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng, cơ sở vật chất.
- Quá trình đô thị hóa là một quá trình lâu dài và liên tục về mặt thời
gian, thống nhất giữa các lĩnh vực khác nhau khi phát triển đô thị.
- Đô thị hóa gắn liền với biến đổi sâu sắc về kinh tế, xã hội của đô thị
và nông thôn trên cơ sở phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng,
dịch vụ do vậy đô thị hóa không thể tách rời một chế độ kinh tế, xã hội.
- Đô thị có cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng tương đối đầy đủ và hoàn
chỉnh, do tính năng động, lợi ích mà đô thị đem lại cho nền kinh tế nói chung,
kinh tế đô thị nói riêng. Tuy việc đầu tư lĩnh vực này không trực tiếp cho các
22
sản phẩm, của cải vật chất nhưng không thể thiếu cho chu trình sản xuất, nên
ở các đô thị dù lớn hay nhỏ, xây dựng cơ sở hạ tầng không bao giờ nằm ngoài
kế hoạch phát triển và luôn đi trước một bước.
- Tiền đề cơ bản của đô thị hóa là sự phát triển công nghiệp hay công
nghiệp hóa là cơ sở phát triển đô thị. Đô thị hóa trên thế giới bắt đầu từ cách

mạng thủ công, sau đó được thay thế bằng cách mạng công nghiệp. Để thắng
thế trong cạnh tranh, thu được nhiều lợi nhuận là lợi ích sống còn của nhà đầu
tư. Dẫn đến tập trung cao cho sản xuất công nghiệp, thương mại, phát triển
khoa học, công nghệ do đó có nhu cầu tập trung dân cư và quá trình tập
trung ấy hình thành lên các đô thị. Đô thị trở thành cực tăng trưởng của nền
kinh tế, sức cạnh tranh của kinh tế đô thị là nhân tố chủ yếu của cạnh tranh
quốc gia. Có thể nói mức độ tăng trưởng của một quốc gia thường phụ thuộc
vào mức độ tăng trưởng của kinh tế đô thị.
2.2.3 Tác động của đô thị hóa
+ Tác động tích cực:
- Kết quả của quá trình mở rộng và phát triển đô thị hóa góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng kinh tế ngành nông
nghiệp, tăng tỷ trọng kinh tế ngành công nghiệp và dịch vụ.
- Quá trình đô thị hóa dẫn tới tập trung các nguồn lực sản xuất, khoa
học, công nghệ, văn hóa, kỹ thuật và sự tập trung các khu dân cư làm cho
kinh tế đô thị tăng trưởng mạnh mẽ, trong đó GDP đầu người ở các đô thị
thường cao hơn từ 3 đến 5 lần GĐP bình quân đầu người của cả nước và cao
hơn nhiều lần so với khu vực nông thôn.
- Đô thị hóa diễn ra kéo theo việc xây dựng các cơ sở hạ tầng tương
ứng để đáp ứng nhu cầu phát triển của đô thị. Đó là hệ thống đường giao
thông, thông tin liên lạc, đầu tư cấp điện, chiếu sáng, cấp nước, thu gom xử lý
23
chất thải Xây dựng hạ tầng các khu đô thị, khu dân cư, khu trung tâm
thương mại, dịch vụ
- Đô thị hóa góp phần nâng cao trình độ nhận thức, đời sống vật chất,
tinh thần của người dân. Do được tập trung xây dựng các trung tâm y tế, bệnh
viện, giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học nên người dân đô thị có điều
kiện tiếp cận các thành tựu mới về khoa học, kỹ thuật cũng như tham gia các
hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao hơn so với nông thôn. Hình thành lối
sống công nghiệp, xây dựng xã hội mới, hạn chế các phong tục lạc hậu của

khu vực nông thôn. Ngoài ra đô thị hóa còn góp phần hình thành các khu du
lịch, vui chơi, giải trí cho người dân, bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa truyền
thống của dân tộc.
+ Những hạn chế, thách thức của đô thị hóa:
Đi cùng với sự tăng trưởng và phát triển trong quá trình đô thị hoá là
những hạn chế, thách thức tới sự phát triển ổn định của các đô thị. Đó là:
- Phát triển mất cân đối: Do sự phát triển quá tập trung vào các đô thị
làm cho trình độ phát triển giữa đô thị và nông thôn, giữa các vùng chậm phát
triển và các vùng phát triển ngày càng lớn. Việc mở rộng không gian đô thị
làm giảm diện tích đất nông nghiệp và tăng dòng người di dân từ nông thôn ra
thành thị.
- Phát triển không bền vững: Dân số đô thị tăng nhanh đã gây ra quá tải
đối với hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị. Các hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật
và cơ sở hạ tầng xã hội đô thị ở hầu hết các đô thị đều phát triển chậm hơn so
với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội đô thị. Phát triển đô thị chưa đáp ứng yêu
cầu bảo vệ môi trường, đặc biệt là tình trạng yếu kém và lạc hậu của hệ thống
cấp nước, thoát nước, thu gom và xử lý chất thải rắn, hệ thống giao thông và
nhà ở.
24
- Năng lực quản lý hành chính của các chính quyền đô thị: Tốc độ phát
triển quá nhanh của đô thị đã vượt khả năng điều hành của chính quyền địa
phương, việc quản lý đất đai, nhà ở, quản lý trật tự xây dựng đô thị là vấn đề
nóng bỏng và thường xuyên, song hầu hết ở nhiều đô thị chưa tìm ra biện
pháp quản lý hữu hiệu. Các phương tiện dịch vụ đô thị hiện đại (hệ thống giao
thông, cấp thoát nước, xử lý vệ sinh môi trường ) là đối tượng quản lý phức
tạp hơn, đòi hỏi trình độ, năng lực quản lý hành chính phải được nâng cao.
Trong khi số đông cán bộ, viên chức trong bộ máy chính quyền quản lý đô thị
chưa được đào tạo và bồi dưỡng những kiến thức cơ bản về quản lý đô thị,
kiến thức về kinh tế thị trường, trình độ còn bất cập so với yêu cầu, chưa đáp
ứng được với yêu cầu đổi mới, lúng túng trước những vấn đề mới nẩy

sinh [11]. Việc phát triển của đô thị cũng đòi hỏi tất yếu phải phân cấp, xác
lập lại thẩm quyền, nhiệm vụ và các mối quan hệ giữa các ngành từ trung
ương đến địa phương và việc nâng cao trình độ nghiệp vụ đối với các tổ chức
và bản thân cán bộ quản lý để có thể thích nghi với những vấn đề mới.
- Về an toàn xã hội, điều phối thu nhập và đói nghèo đô thị: Vấn đề đói
nghèo và thất nghiệp thường diễn ra ở những đô thị phát triển nhanh nhưng
thiếu cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật vững chắc, sự thiếu hiểu biết về pháp luật
của người dân kéo theo sự mất an toàn xã hội, an ninh trật tự đô thị cũng là
nguyên nhân dẫn đến sự hấp dẫn đầu tư bị giảm sút. Việc giảm thiểu các tệ
nạn xã hội đối với các đô thị cũng là vấn đề cần được quan tâm. Chênh lệch
thu nhập đô thị tăng nhanh dẫn đến nhu cầu về vật chất, dịch vụ đô thị khác
có nhiều mức độ khác nhau, đòi hỏi các giải pháp tổ chức cung cấp dịch vụ đa
dạng, đặc biệt là y tế, nhà ở cho người nghèo và người có thu nhập thấp.
Các thách thức đối với vấn đề tăng trưởng đô thị hiện nay cần được
quan tâm, nếu không có các giải pháp “đáp ứng” kịp thời và tương xứng thì
có thể dẫn đến sự phát triển không bền vững ở tất cả các đô thị.
25

×