TẠP CHÍ KHOA HỌC CƠNG NGHỆ VÀ MƠI TRƯỜNG
12
KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN
Gia Lai trong chiến dịch Tây Ngun góp phần
giải phóng miền Nam thống nhất đất nước
ThS. VŨ THỊ THẢO
Trường Chính trị tỉnh Gia Lai
Qn đội ngụy quyền Sài Gòn rút chạy khỏi Pleiku
T
ây Ngun là một
vùng đất rộng (khoảng
53.000 km2), nằm ở phía
Tây miền Trung Trung Bộ, gồm
các cao ngun và rừng núi
nối tiếp nhau theo hướng Bắc
- Nam. Trong thời kỳ chống
Mỹ, phạm vi chiến trường Tây
Ngun (B.3) gồm các tỉnh Gia
Lai, Kon Tum, Phú Bổn, Đắk
Lắk và một phần tỉnh Quảng
Đức. Đây là một địa bàn rất
quan trọng về chính trị, kinh
tế và qn sự. Thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ đều cho rằng
muốn chiến thắng ở Nam Việt
Nam phải kiểm sốt được Tây
Ngun. Do đó, trong q
trình tiến hành chiến tranh
xâm lược, chúng đã xây dựng
ở Tây Ngun một hệ thống
đường giao thơng hiện đại,
nhiều sân bay, kho tàng, trại
biệt kích nằm dọc biên giới,
biến Tây Ngun thành một
khu căn cứ qn sự lớn, một
điểm xuất phát các cuộc hành
qn đàn áp phong trào đấu
tranh cách mạng của nhân
dân ba nước Đơng Dương;
đồng thời xây dựng ở Tây
Ngun những phòng tuyến
ngăn chặn đường vận tải
chiến lược của ta từ Bắc vào
Nam, ngăn chặn sự giao lưu
giữa miền núi với đồng bằng
Trung Bộ.
Do ý nghĩa quan trọng
của chiến dịch Tây Ngun,
Bộ Chính trị quyết định cử Đại
tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên
Bộ Chính trị, Tổng tham mưu
trưởng Qn đội nhân dân
Việt Nam vào chiến trường Tây
Ngun thành lập cơ quan đại
diện của Qn ủy Trung ương
và Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp
chỉ đạo chiến dịch. Dưới sự
chỉ đạo tập trung, thống nhất
của Bộ Chính trị Trung ương
Đảng, với sự tham gia của tất
cả các ngành, các cấp trong và
ngồi qn đội, “mọi u cầu
của chiến dịch đều cố gắng
bảo đảm được. Qn no, lực
lượng lớn, vũ khí lương thực
đủ, tinh thần phấn chấn, khí
thế cao. Chưa bao giờ ta mạnh
và đánh tập trung lớn ở đây
như năm nay”1.
Ở Gia Lai và Kon Tum, tỉnh
ủy thành lập Ban chỉ đạo tác
chiến để phối hợp với bộ đội
chủ lực. Các đồn đội cơng tác2
1
Điện ngày 9-3-1975 của Tiền
phương Bộ ở mặt trận Tây Ngun gửi
Qn ủy Trung ương và Bộ Chính trị, lưu
trữ tại Bộ Quốc phòng.
2
Ở Gia Lai, Tỉnh ủy tổ chức được
48 đội cơng tác huyện (366 cán bộ), 27
đều được chấn chỉnh tổ chức,
tập huấn về chính trị, qn sự.
Thực hiện kế hoạch nghi binh
đã thống nhất với Bộ Tư lệnh
chiến dịch Tây Ngun, tỉnh
ủy, tỉnh đội Gia Lai và Kon Tum
huy động hàng nghìn dân
cơng các huyện 40, 67, 30, 80,
Diên Bình, Tân Cảnh (Kon Tum)
huyện 4, huyện 5 (Gia Lai) đi
làm đường hướng về thị xã3
và tung tin ta “chuẩn bị đánh
Kon Tum, Plâycu”. Bộ đội địa
phương tỉnh và dân qn du
kích diệt một số đồn địch, mở
rộng thêm vùng giải phóng,
thu hút sự chú ý của địch lên
hướng Bắc Tây Ngun.
Ngày 17-2-1975, thực
hiện tinh thần chỉ đạo của Bộ
Chính trị và Qn ủy Trung
ương là “tranh thủ bất ngờ
cao độ, bảo đảm trận đầu
thắng giòn giã và có dự kiến
kế hoạch phát triển thắng lợi
kịp thời, diệt được nhiều sinh
lực địch, giải phóng các địa
bàn quan trọng4”.
Từ ngày 1 đến ngày 4-31975, các lực lượng vũ trang
và nhân dân các dân tộc Tây
Ngun tiếp tục đẩy mạnh các
hoạt động nghi binh, tạo thế,
triển khai lực lượng và thực
hành bao vây, chia cắt chiến
dịch. Ngày 4-3-1975, qn ta
đánh và cắt các con đường
đội cơng tác xã (187 cán bộ) hoạt động
ở 68 khu ấp và vùng ven thị xã, thị trấn.
Tỉnh còn điều động hàng trăm cán bộ
các ngành về vùng “trọng điểm” phối
hợp hoạt động với cán bộ địa phương.
3
Ở Tây Ngun, một số huyện
được đặt tên bằng số.
4
Điện ngày 21-2-1975 của Qn
ủy Trung ương gửi Bộ tư lệnh chiến dịch,
lưu trữ tại Bộ Quốc phòng.
chiến lược số 19, số 21, số 14.
Việc giao thơng của địch giữa
thị xã Quy Nhơn với Plâycu,
Kon Tum; giữa thị xã Nha Trang
với Bn Ma Thuột, Gia Nghĩa
và giữa thị xã Plâycu, Cheo
Reo với thị xã Bn Ma Thuột
bị ngừng trệ hồn tồn. Qn
địch ở Tây Ngun bị hãm vào
thế cơ lập, bị chia cắt với lực
lượng ở vùng dun hải Trung
Bộ. Tập đồn lực lượng địch ở
Tây Ngun cũng bị cắt thành
hai cụm Bắc và Nam, khơng chi
viện, ứng cứu được cho nhau
bằng đường bộ. Ngày 8-3, ta
đánh chiếm quận lỵ Thuần
Mẫn. Ngày 9-3, ta đánh chiếm
quận lý Đức Lập, Đắc Song,
Núi Lửa, mở thơng hồn tồn
đường vận tải chiến lược Bắc Nam ở phía Đơng Trường Sơn.
Phía Bắc Tây Ngun, ta đánh
chiếm quận lỵ Thanh An áp sát
phía Tây thị xã Plâycu.
Tro n g k h i đó, ở Tây
Ngun, CIA và Bộ Tổng tham
mưu Việt Nam Cộng hòa vẫn
khẳng định: hướng đối phó
chính là Plâycu và Kon Tum.
Chúng cho rằng hành động
cắt đường số 19, 14 và 21 chỉ
là hoạt động phối hợp của ta.
Có thể nói, cho đến khi qn
và dân ta đã dàn xong thế
trận tiến cơng địch ở Nam
Tây Ngun, nhằm vào mục
tiêu then chốt là thị xã Bn
Ma Thuột, Mỹ - Ngụy vẫn tiếp
tục phán đốn sai về ta. Ta đã
hồn thành bước chuẩn bị
theo kế hoạch, tạo ra những
nhân tố chắc thắng cho trận
đánh mở đầu.
13
SỐ 03 NĂM 2019
KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN
TẠP CHÍ KHOA HỌC CƠNG NGHỆ VÀ MƠI TRƯỜNG
14
KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN
11 giờ ngày 11-3, bộ đội
ta đánh chiếm sở chỉ huy Sư
đồn 23 Ngụy - mục tiêu cuối
cùng trong thị xã Bn Ma
Thuột. Ngày 12-3, hai ngày sau
trận Bn Ma Thuột, những
người Mỹ ở Plâycu và Kon
Tum bắt đầu di tản. Ngay
trong ngày 11-3, Bộ Chính trị
và Qn ủy Trung ương nghe
Bộ Tổng tham mưu báo cáo
diễn biến 10 ngày đầu tháng
3 ở chiến trường Tây Ngun,
các chiến trường phối hợp và
bàn định hướng phát triển của
chiến dịch. Bộ Chính trị nhận
thấy, đặc điểm nổi bật của tình
hình lúc này là tinh thần địch
sa sút nhanh chóng, khả năng
chiến đấu hạn chế. Nhưng vào
thời điểm ngày 11-3, với tinh
thần hết sức thận trọng, Bộ
Chính trị chỉ mới nhận định
cuộc tổng tiến cơng chiến
lược có thể đã bắt đầu. Nhân
tố mới đã và đang xuất hiện.
Cục diện chiến trường đang
chuyển biến mau lẹ. Bộ Chính
trị đề ra chủ trương nhanh
chóng nắm bắt thời cơ, giành
thắng lợi lớn hơn nữa. Trong sử
dụng lực lượng và phát triển
tiến cơng phải linh hoạt, tập
trung, khơng phân tán, khẩn
trương và mạnh bạo. Hướng
tiến cơng tiếp theo có thể là
Huế, Đà Nẵng và khi có thời cơ
đánh mạnh vào Sài Gòn. Trước
mắt, Bộ Chính trị chủ trương
củng cố vùng mới giải phóng,
sẵn sàng đánh địch phản kích;
đồng thời mở rộng tiến cơng
ra xung quanh thị xã Bn Ma
Thuột, giải phóng hồn tồn
tỉnh Đắk Lắk; bao vây, cơ lập
Plâycu, Kon Tum, nhanh chóng
phát triển về hướng Cheo Reo.
Ở Tây Ngun, chú trọng cơng
tác tiếp quản và chính sách
dân tộc.
Trong kế hoạch chiến
dịch giải phóng Tây Ngun,
Bộ tư lệnh chiến dịch đã dự
kiến tình huống, sau khi mất
Bn Ma Thuột, địch sẽ phản
kích để chiếm lại. Ngày 12-3,
Bộ Tổng tư lệnh thơng báo cho
Bộ tư lệnh chiến dịch tin địch
đang chuẩn bị lực lượng phản
kích. Bộ Tổng tư lệnh nhấn
mạnh nhiệm vụ cấp thiết nhất
của mặt trận là tập trung lực
lượng nhanh chóng tiêu diệt
tồn bộ qn địch ở Bn Ma
Thuột và viện binh của chúng.
Việc đó “sẽ có ý nghĩa quyết
định đối với sự phát triển của
chiến dịch”5.
Từ ngày 12 đến ngày 18-3,
bằng một loạt trận đánh xuất
sắc, qn ta đập tan hồn
tồn cuộc phản kích “tái chiếm
Bn Ma Thuột” của Qn
đồn 2 Sài Gòn, tiêu diệt hồn
tồn Sư đồn 23, một sư đồn
được qn Sài Gòn suy tơn
là “Nam bình, Bắc phạt, Cao
Ngun trấn”.
Ngày 13-3, Tổng thống
Thiệu triệu tập Hội đồng An
ninh quốc gia họp khẩn cấp
bàn biện pháp đối phó. Ngày
14-3, Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu, Thủ tướng Trần Thiện
Khiêm, Tổng tham mưu trưởng
qn đội Sài Gòn Cao Văn Viên
và Tư lệnh Qn đồn 2 Phạm
Văn Phú họp kín ở Cam Ranh
Điện ngày 12-3-1975, Lưu trữ
tại Bộ Quốc phòng.
5
bàn kế hoạch rút bỏ Plâycu và
Kon Tum theo đường số 7.
Theo dõi sự phát triển của
tình hình, ngày 13-3, Bộ Chính
trị và Qn ủy Trung ương
dự kiến: “Trường hợp địch bị
tiêu diệt một bộ phận sinh
lực lớn, mất thị xã Bn Ma
Thuột và nhiều quận lỵ, việc
chia cắt chiến lược đường 19
thực hiện tốt, thì có khả năng
chúng tập trung các lực lượng
còn lại ở Tây Ngun về Plâycu.
Cũng nên nghĩ đến khả năng
chúng buộc phải thực hiện rút
lui chiến lược. Vì vậy cần hình
thành bao vây Plâycu với các
thứ hỏa lực, kể cả các loại pháo
cao xạ, nhằm triệt đường tiếp
tế của chúng, chuẩn bị tốt để
tiêu diệt địch cả trong hai tình
huống”6.
Căn cứ vào dự kiến của
Bộ Chính trị và sự phân tích
mới nhất về âm mưu và hành
động của địch, chiều ngày 153, cơ quan đại diện Bộ Tổng
tư lệnh tại mặt trận thơng
báo cho Bộ tư lệnh chiến dịch
“khả năng địch rút chạy khỏi
Kon Tum và Plâycu”. Vào thời
điểm này, các trận đánh qn
địch phản kích đang tiếp diễn
ác liệt xung quanh Bn Ma
Thuột. Sự chỉ đạo của Bộ tư
lệnh chiến dịch chủ yếu tập
trung vào đánh phản kích. Khi
được thơng báo, Bộ tư lệnh
chiến dịch đã gấp rút triển
khai ngay kế hoạch ngăn chặn,
khơng cho địch rút chạy và tổ
chức lực lượng truy kích tiêu
6
Điện lúc 10 giờ ngày 13-3 của
Qn ủy Trung ương gửi Tiền phương Bộ
ở Tây Ngun, lưu tại Bộ Quốc phòng.
diệt chúng. Lần đầu tiên trong
cuộc chiến tranh Đơng Dương
và trong phạm vi một chiến
dịch, một lực lượng lớn qn
địch với trang bị hiện đại đã
phải rút bỏ một địa bàn chiến
lược quan trọng7.
19 giờ ngày 16-3, đồng
chí Văn Tiến Dũng chỉ thị cho
Bộ Tư lệnh chiến dịch: “Địch
đã rút chạy theo đướng số
7, tổ chức truy kích ngay”.
Bộ Tư lệnh chiến dịch triển
khai nhanh chóng, quyết tâm
cao. Bộ đội qn triệt sâu sắc
nhiệm vụ, nắm thời cơ tiêu
diệt hồn tồn qn địch.
Kiên quyết chấp hành
mệnh lệnh của trên, bộ đội ta
đã đốt nứa khơ, dép cao su làm
đuốc, chạy bộ, tranh thủ từng
giờ, từng phút để chặn địch lại
và tiêu diệt chúng. 16 giờ ngày
17-3, đơn vị đi đầu của ta đã
đến chặn địch cách Cheo Reo
4 km về phía Đơng.
Trong thế thất bại, khơng
được chuẩn bị và với tâm lý
lo sợ một đòn tiêu diệt mới,
cuộc rút lui có kế hoạch lúc
đầu của địch đã nhanh chóng
biến thành cuộc tháo chạy
hỗn loạn mà chúng gọi là
“tùy nghi di tản”. Lực lượng
địa phương và một số bộ phận
dân chúng ở hai thị xã Plâycu,
Kon Tum thấy các đơn vị qn
chính quy rút chạy cũng hốt
hoảng chạy theo. Lính Ngụy
7
Lực lượng còn lại của Qn đồn
2 ở Tây Ngun rút chạy gồm: 6 liên
đồn biệt động, ba thiết đồn, sáu tiểu
đồn pháo (có cả pháo 175mm), 1 tiểu
đồn bộ binh, 1 tiểu đồn biệt động
qn và các đơn vị cơng binh, thơng tin,
bảo an, khơng qn, cơ quan qn đồn.
đập phá nhà dân cướp của,
bắn giết nhau tranh chỗ trên
xe. Đường 7 nhỏ hẹp, nhiều
chỗ bị hư hỏng, xe địch chen
lấn, húc đổ nhau để chạy lên
trước. Khi nghe tiếng súng của
ta chặn đầu, qn địch càng
trở nên hoảng loạn. Có binh
sĩ ngụy quay súng bắn lại chỉ
huy. Máy bay ném bom ngăn
chặn ta lại rơi xuống đầu qn
đội Sài Gòn đang tháo chạy.
13 giờ ngày 18-3, tướng
Tư lệnh qn đồn 2 Sài Gòn
Phạm Văn Phú ra lệnh: “Mở
đường máu mà tháo thân,
mạnh đơn vị nào đơn vị ấy
chạy, xe khơng đi nổi thì phá
xe, tìm đường, bỏ qua mọi tình
huống mà chạy cho thốt, lấy
Củng Sơn làm tụ điểm”. Ngày
18-3, bộ đội ta chiếm Cheo
Reo. Ngày 21-3, ta bao vây,
tiêu diệt cụm qn địch ở Phú
Túc. Phối hợp nhịp nhàng với
các cánh qn đang truy kích
từ phía Tây xuống, Bộ tư lệnh
Qn khu V lệnh cho bộ đội
địa phương tỉnh Phú n đánh
chiếm cầu Sơn Hòa ở phía
Đơng Củng Sơn, chặn đường
rút chạy của địch. Ngày 24-3,
qn ta tiêu diệt “tụ điểm” cuối
cùng của cánh qn địch rút
chạy ở Củng Sơn.
Trong khi đó, ở Bắc Tây
Ngun, ngày 17-3-1975, các
lực lượng vũ trang địa phương
và nhân dân các dân tộc phối
hợp với một bộ phận bộ đội
chủ lực giải phóng thị xã Kon
Tum và thị xã Plâycu. Đồng chí
Võ Chí Cơng, Ủy viên Trung
ương Đảng, Bí thư Khu ủy Khu
V, Chính ủy qn khu V đã vào
thị xã Plâycu và Kon tum kiểm
tra tình hình, trực tiếp chỉ đạo
cấp ủy đảng địa phương và
các lực lượng vũ trang truy
qt địch, ổn định đời sống
nhân dân, xây dựng và củng
cố chính quyền cách mạng.
Trước những diễn biến
mới của tình hình, ngày 18-31975 Bộ Chính trị quyết định
giải phóng miền Nam trong
năm 1975. Trước mắt, diệt
ngay Qn đồn 1 của địch,
khơng cho chúng rút chạy về
Sài Gòn. Ngày 25-3-1975, Tây
Ngun hồn tồn giải phóng.
Với chiến dịch Tây Ngun
đại thắng, cuộc tổng tiến cơng
chiến lược của ta đã bắt đầu.
Những thắng lợi dồn dập của
ta đánh dấu một bước ngoặt
trong cục diện qn sự và
chính trị ở miền Nam. Cuộc
chiến tranh cách mạng miền
Nam đã bước vào giai đoạn
phát triển nhảy vọt. Qn
đội Việt Nam Cộng hòa bị
tổn thất nặng, tinh thần suy
sụp. Mỹ cũng bất lực rõ rệt.
Ở Campuchia, Mỹ bắt đầu di
tản nhân viên sứ qn. Sau
chiến dịch Tây Ngun, thời
cơ chiến lược lớn đã đến. Chế
độ Việt Nam Cộng hòa đứng
trước nguy cơ sụp đổ. Qn
và dân ta có điều kiện và thời
cơ mới để nhanh chóng giải
phóng Huế, Đà Nẵng và các
tỉnh dun hải Trung Bộ; đồng
thời nhanh chóng tập trung
lực lượng vào phương hướng
chủ yếu (Sài Gòn), hành động
táo bạo và bất ngờ, làm cho
địch khơng dự kiến được và
khơng kịp trở tay./.
15
SỐ 03 NĂM 2019
KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN