Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đặc điểm cư trú và xã hội của người Bahnar ở An Khê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (621.58 KB, 6 trang )

Đặc điểm cư trú và xã hội của
người Bahnar ở An Khê
ThS. NGUYỄN THỊ BÌNH
Trường Chính trị tỉnh Gia Lai
Bahnar là tộc người lớn nhất trong số những tộc người thuộc dòng ngơn
ngữ Nam Á ở nước ta. Dân tộc Bahnar có một nền văn hố độc đáo với nhiều
loại hình văn hóa nghệ thuật phong phú.
Những thay đổi nhiều mặt về kinh tế - xã hội và sự tác động của làn sóng
văn hố đương đại trong mấy thập niên gần đây đã dẫn đến việc giải thể cấu
trúc văn hóa cổ truyền Bahnar ở các địa bàn dân cư với những mức độ khác
nhau. Trước thực trạng này, nghiên cứu về đời sống văn hóa của cộng đồng
người Bahnar ở An Khê là một việc làm cần thiết; góp phần bảo tồn, lưu giữ và
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của người Bahnar trong bối cảnh
kinh tế hội nhập hiện nay.


Từ khóa: Người Bahnar, An Khê, cư trú, xã hợi...

1. Khái qt về người Bahnar ở An Khê
Dân tộc Bahnar là một trong những dân
tộc thuộc ngữ hệ Mơn - Khmer ở Việt Nam. Đây
là dân tộc có số dân đơng nhất trong những
DTTS nói tiếng Mơn - Khmer ở khu vực Nam
Trung Bộ. Địa bàn cư trú chủ yếu của người
Bahnar là nam tỉnh Kon Tum, bắc và đơng tỉnh
Gia Lai. Ngồi ra, còn có một bộ phận người
Bahnar sống rải rác ở các huyện phía tây của
tỉnh Bình Định và tỉnh Phú n.
Theo Biểu tổng hợp hộ, khẩu nghèo và cận
nghèo theo dân tộc năm 2017 của Ban dân tộc
tỉnh Gia Lai năm 2017, dân số người Bahnar ở


Gia Lai khoảng 171.289 người. Khu vực cư trú
tập trung của người Bahnar là phía đơng cao
ngun Pleiku (thuộc địa bàn các huyện: Mang
Yang, Đăk Đoa và xã Hà Tây, Ia Khươl (phía bắc

huyện Chư Pah - trên phần đất tiếp giáp với tỉnh
Kon Tum); trên cao ngun Kon Hà Nừng thuộc
địa bàn huyện KBang; vùng trũng An Khê thuộc
các huyện Đak Pơ, Kơng Chro và 2 xã Song An
và Tú An, thuộc thị xã An Khê. Theo thống kê
điều tra dân số năm 2015, ở thị xã An Khê, tổng

9
SỐ 06 NĂM 2019

KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN


KHOA HOẽC XAế HOI - NHAN VAấN
cỏc huyn KBang, ak P (thuc vựng Kon Kah
Kinh v cao nguyờn Kon H Nng); huyn Kụng
Chro (thuc vựng trng An Khờ - dc theo sụng
Ba) v 2 xó Tỳ An, Song An thuc th xó An Khờ.

TP CH KHOA HC CễNG NGH V MễI TRNG

10

Nh vy, ngi Bahnar cú mt trờn tt c
cỏc dng a hỡnh ch yu ca vựng t An Khờ.

iu kin c trỳ cú ý ngha rt quan trng trong
vic hỡnh thnh, duy trỡ v phỏt trin tớn ngng
c truyn b phn dõn c cú tớn ngng vn
vt hu linh nh cỏc dõn tc Bahnar, Jrai.
Ngi Bahnar vựng An Khờ c trỳ thnh
tng lng v h gi lng ca mỡnh l plei. Hin
nay, th xó An Khờ cú 4 lng Bahnar:

s nhõn khu ca ngi Bahnar l 1.156 ngi.
Phõn b nhõn khu ca ngi Bahnar An Khờ
gm: Lng Pt, xó Song An cú 62 h, 304 khu;
lng Pnang, xó Tỳ An cú 53 h, 228 khu; lng
Hũa Bỡnh, xó Tỳ An cú 96 h, 435 khu; lng
Nhoi, xó Tỳ An cú 44 h, 189 khu.
Ngi Bahnar Gia Lai thuc 4 nhúm a
phng chớnh l: Bahnar Glar, Bahnar Bnõm,
Bahnar Kon Keh v Bahnar Tlụ. Cng ng
ngi Bahnar c trỳ ti a bn huyn An Khờ
c thuc 3 trong 4 nhúm a phng trờn l
Bahnar Bnõm, Bahnar Kon Keh v Bahnar
Tlụ; riờng 4 lng Bahnar 2 xó Song An v Tỳ
An, th xó An Khờ li cú quan h rt gn bú vi
nhúm Bahnar Krem huyn Vnh Thnh, tnh Bỡnh
nh [1, tr 37].
2. c im c trỳ ca ngi Bahnar
An Khờ
Gia Lai, a bn sinh sng ca ngi
Bahnar tri di t nam cao nguyờn Kon Plụng
n bc thung lng Cheo Reo (theo chiu bc
- nam); t ụng cao nguyờn Pleiku, n ht

vựng trng An Khờ (theo chiu ụng - tõy).
Ngi Bahnar vựng An Khờ c trỳ ch yu

Plei Pt l lng Bahnar duy nht thuc xó
Song An, hin cú 62 h dõn vi 304 nhõn khu
(S liu thu thp in dó kho sỏt ca ngi
vit). õy l mt lng thun nụng cú 100% h
ng bo dõn tc Bahnar sinh sng. lng Pt
hin nay cú gn 15 vũi nc vnh cu cung cp
nc sinh hot cho c lng . im c bit ca
nhng vũi nc ny l chy liờn tc c ngy ln
ờm. Ngi Bahnar cho nc trong vũi chy
t nhiờn, ch khụng khúa van li nh nhng vũi
nc thụng thng.
Plei e Pnang thuc xó Tỳ An hin cú 53
h dõn vi 228 nhõn khu (S liu in dó kho
sỏt ca ngi vit). Tờn ca lng trc õy l
plei e Hmõu. Lng i tờn thnh Pnang (cõy
cau) vỡ trc õy lng cú rt nhiu cau do dõn
lng trng, mt phn ly qu n tru, mt
phn thỡ em xung ch Tỳ Thy bỏn cho cỏc
thng lỏi ngi Kinh. Hin ti trong lng vn
cũn trng cau nhng s lng khụng nhiu, ch
khong vi chc cõy.
Plei e Hbinh (Hin nay c vit l Hũa
Bỡnh) thuc xó Tỳ An hin cú cú 96 h dõn vi
435 nhõn khu (S liu thu thp in dó kho
sỏt ca ngi vit). õy chớnh l lng Bahnar
c, c s liu Vit Nam nhc n bng tờn
lng C Yờm. Cú ngi gii thớch: Tờn ca lng

trc kia l Duch Jem (cụ gỏi p) nờn ngi
Vit c thnh Cụ Jem v bin õm dn thnh
C Yờm [1, tr 37].


11
SỐ 06 NĂM 2019

KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN

Pơlei đe Nhoi thuộc xã Tú An hiện có 44 hộ
dân với 189 nhân khẩu. Làng vốn được tách ra
từ Pơlei đe Hơbinh và mang tên Nhoi do uống
nước từ Đak Nhoi.
Theo kết quả điền dã của chúng tơi, 04 làng
của người Bahnar ở thị xã An Khê nằm cách biệt
nhau. Các làng này đều nằm ở gần nguồn nước,
thuận lợi cho sinh hoạt và sản xuất. Quy mơ của
mỗi làng phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và
mơi trường sống cụ thể của người dân trong
làng, trong đó Pơlei đe Hơbinh là làng có quy
mơ lớn nhất và có điều kiện kinh tế nhất trong
số các làng Bahnar ở thị xã An Khê.
Trong cách bố trí truyền thống của người
Bahnar, làng là cộng đồng sở hữu về khu vực
sinh sống. “Làng Bahnar khơng sắp xếp theo
một hình mẫu nhất định nào” [1, tr 37]. Đất
đai của làng được bố trí thành các khu vực sử
dụng riêng: Đất ở, nghĩa địa, đất canh tác, khu
vực săn bắn...

Khi mới lập làng, người Bahnar đã chọn vị
trí và dành một khu đất riêng cho việc xây dựng
nhà rơng - ngơi nhà chung của cả cộng đồng.
Trong làng, nhà rơng là ngơi nhà lớn nhất - linh
hồn của cả làng và là nơi hội họp của các già
làng mỗi khi có việc cần bàn bạc [4, tr29]. Đó
cũng là nơi cho thanh niên đến ngủ đêm, nơi
tụ họp của dân làng khi có những việc trọng
đại hay thực hiện những nghi lễ quan trọng.
Trước đây, nhà rơng Bahnar còn đóng vai trò

đặc biệt quan trọng trong hoạt động qn sự.
Tùy từng làng Bahnar mà kích thước nhà rơng
có thể khác nhau, từ 10-15m chiều dài, 4-5m
chiều rộng, 1-1,5m chiều cao sàn nhà. Hai mái
là phần ấn tượng nhất của nhà rơng, cao gấp
nhiều lần vách, có hình lưỡi rìu, phần giữa hơi
lồi ra [5, 189]. Trên nóc (pơ pung) có trang trí
hình mặt trời (măt tơ ngai) ở giữa, hình trăng
khuyết hai bên mặt trời và hình rau rớn (ktoanh)
ở hai đầu hồi. Theo Bùi Minh Đạo thì “kết cấu bộ
khung nhà rơng cũng tương tự như khung nhà
sàn, nhưng cao hơn, với các vì cột (drăng) được
kết nối với q giang (tơ pơng pụ), xà ngang (tơ
pơng tol), xà dọc (tơ pơng vil) dầm ngang và dầm
dọc bằng tạo ngồm và buộc dây. Nằm chéo
theo mái phía trong nhà là 2 cây rừng loại nhỏ
nhưng chắc (loong tơ rạ) có nhiệm vụ giữ cho
ngơi nhà ln vững chãi” [2, tr 166]. Nhà rơng
Bahnar thường có 3 gian hay 5 gian, gồm hai

hàng cột, mỗi hàng 4-6 cột, mỗi gian rộng 2,5-3
sải tay, lòng gian dài 3-3,5 sải tay. Vách nhà (tơ
năr) được đan bằng lồ ơ dày, bên ngồi vách
có các đố dọc và nẹp ngang. Nhà rơng chỉ có
một cửa ra vào (măng tơm) ở chính giữa, các
cửa sổ (măng mók) thường mở phía trước nhà.
Giống như nhà ở, giữa cầu thang lên xuống
với cửa chính nhà rơng có một khoảng sàn
(pra pơng) lộ thiên, hai góc ngồi là 2 cột cao
(gu pra), đỉnh cột thường được đẽo khắc hình
người, hình quả bầu, hình nồi đồng hay hình
rau rớn. Khơng gian nhà rơng được chia làm 3


TẠP CHÍ KHOA HỌC CƠNG NGHỆ VÀ MƠI TRƯỜNG

12

KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN
phần theo bình diện ngang. Ngăn chính giữa
là nơi treo trống, nơi các già làng ngồi trong
các cuộc họp làng, cũng là nơi đặt cây cột cúng
(d’răng lơ yang). Cột cúng là nơi buộc ghè rượu
mỗi khi tổ chức các lễ hội tại nhà rơng. Mâm
cúng được đặt trên cột cúng, là một khung tre
nhỏ, xung quanh có tua ra tết bằng phoi tre.
Ngăn bên trái là nơi đặt bếp lửa, nơi để vũ khí,
nơi ngủ của thanh niên và đàn ơng chưa vợ.
Ngăn bên phải cũng có một bếp lửa, là nơi ngồi
hợp của dân làng. Vật liệu xây dựng nhà rơng

đều là vật liệu tự nhiên, được cả làng chuẩn bị
trước hàng tháng và được già làng lựa chọn kỹ
càng. Nhà rơng Bahnar chứa đựng nhiều chức
năng: Xã hội, tín ngưỡng và văn hóa. Nhà rơng
4 làng Bahnar ở thị xã An Khê hiện nay được làm
theo kiểu mới với mái lợp tơn thay vì lợp tranh
như truyền thống do khó khăn trong việc tìm
ngun vật liệu. So với các nhà rơng của người
Bahnar ở khu vực Mang Yang hay Kon Tum thì
những nhà rơng này nhỏ hơn về kích thước và
sàn nhà rơng cũng thấp hơn.
Mỗi làng Bahnar ở An Khê có từ 30 - 70 nóc
nhà. Nhà cửa trong làng dựng tùy theo thế đất
và dọc theo trục đường chính của làng. Ngơi
nhà truyền thống của người Bahnar thường
chia làm 3 phần: Gian phía đơng thường là
gian của vợ chồng chủ nhà; gian giữa là nơi
tiếp khách, ở đó có một bếp lửa to, là nơi ngủ

của các thiếu nữ chưa có chồng; gian phía tây là
gian của các con trai nhỏ, chưa đến tuổi ngủ nhà
rơng. Nhà truyền thống của người Bahnar ở thị
xã An Khê hiện nay thường là những nhà nhỏ,
vách lợp bằng tre nứa, mái thường lợp bằng
tơn và một số ít còn được lợp bằng tranh. Trong
các làng Bahnar, bên cạnh nhà truyền thống
là một ngơi nhà cấp 4 do Nhà nước hỗ trợ xây
dựng hoặc các gia đình tự xây. Theo tìm hiểu
của chúng tơi, lớp trẻ Bahnar thích sinh hoạt ở
nhà xây trong khi lớp người lớn tuổi vẫn sinh

hoạt ở những ngơi nhà truyền thống. Ở thị xã
An Khê hiện khơng có nhà Bahnar truyền thống
nào 5 gian. Tuy nhiên, trong q trình điền dã
chúng tơi nhận thấy, ở thị trấn Kơng Chro hiện
vẫn còn có những ngơi nhà sàn 5 gian. Trong
đó, gian chính giữa là nơi đặt cột cúng của gia
đình và nơi ngủ của con trai chưa đến tuổi ngủ
nhà rơng; gian ngồi cùng bên phải là gian của
vợ chồng chủ nhà (tơm hnam), gian ngồi cùng
bên trái dành cho các thiếu nữ Bahnar chưa
chồng (minh chơ găn drụ); các gian còn lại dành
cho các cặp vợ chồng cùng các thành viên của
họ. Tất cả các gian đều có đặt bếp lửa nhưng
bếp lửa đặt trong gian của chủ nhà (uynh tơm
hnam) được xem là bếp lửa chính của gia đình.
Theo nhà nghiên cứu Đặng Nghiêm Vạn
thì xưa kia, “Các làng đều có một hàng rào
phòng thủ kiên cố bao quanh, nay khơng còn


thấy hoặc nếu thấy có cũng chỉ là những hàng
rào dậu tượng trưng nhằm ngăn cản gia súc.
Các nhà trong làng bao quanh nhà rơng ở
phía trong hàng rào. Kho thóc của từng nhà
được xây cất tập trung hay rải rác xa các nhà
ở phòng tránh hỏa hoạn. Nhiều nơi, hiện nay
(thời điểm 1981) kho vẫn để trên rẫy như ở
vùng An Khê” [3, tr 128-129]. Nguồn nước (có
nơi gọi là giọt nước) của từng làng có thể ở
trong hay ngồi hàng rào làng. Nghĩa địa làng

thì cố định ở phía tây ngồi hàng rào. Các làng
Bahnar thường được bao quanh bởi nương rẫy
hoặc những cánh đồng rộng. Ranh giới giữa hai
làng Bahnar nếu liền kề nhau thường được quy
định đại khái.
3. Đặc điểm xã hội của người Bahnar ở
An Khê
Chung sống trong làng là những gia đình
mẫu hệ hoặc phụ hệ. Gia đình Bahnar nghiêng
theo dòng họ cha nhưng khơng hiếm trường
hợp người con rể có thể sang ở bên phía vợ.
Hầu hết người Bahnar ở thị xã An Khê hiện nay
đều mang họ Đinh hoặc họ Hồ.
Những người sống trong một làng khơng
nhất thiết phải có quan hệ huyết thống, tính
chất của một cơng xã láng giềng trong các làng
Bahnar đã rất rõ nét. “Đó là những cơng xã láng
giềng, tụ tập những gia đình tự nguyện cùng
chung sống với nhau” [3, tr 130].
Tuy nhiên, những người lạ mới đến sinh cơ
lập nghiệp (thường là người Kinh, trừ trường
hợp do kết hơn với người trong làng) dù đã
được sự đồng ý của làng cũng khơng được
phép ở giữa làng mà phải làm nhà ở bìa rừng
gần hàng rào của làng. Chỉ sau 2 hoặc 3 năm,
nếu sự có mặt của họ khơng ảnh hưởng gì
đến mọi hoạt động của làng thì họ mới hồn
tồn được thừa nhận là dân làng một cách
đúng nghĩa theo phong tục của người Bahnar.
Những hộ dân sống trong một làng có quan hệ

chặt chẽ với nhau cả trong đời sống vật chất
và tinh thần.
Đứng đầu làng là tổ chức tự quản: Những
người đàn ơng chủ các nóc nhà, có uy tín với

dân làng. Họ đảm nhiệm chức năng điều hòa,
tập hợp các gia đình thành khối cộng cư thống
nhất. Một trong số những người này sẽ được
chọn làm già làng (kră pơlei). Già làng đại diện
cho hội đồng già làng lãnh đạo những cơng
việc chung của cả cộng đồng: Dời làng, đặt tên
làng, dựng nhà rơng, dựng nhà cho dân làng,
tổ chức lễ hội, phân xử các vụ việc trong làng
theo luật tục... Hội đồng già làng của các làng
Bahnar có số lượng khơng giống nhau. Tùy
theo quan niệm về hệ thống thần linh của từng
làng mà dân làng cắt cử số người tương xứng
để đảm đương cơng việc: 8 người; được phân
cơng cụ thể như sau: 3 già làng phụ trách việc
cúng tại nhà rơng Yang gọi là kră Yang Rơng, 3
già làng phụ trách việc cúng bến nước được
gọi là Kră chruih Đak, 2 già làng phụ trách việc
cúng ngồi đường (ngã 3 đầu làng) gọi là kră Tơ
Tha Trong Sơlăh. Có thể nói, đối với cộng đồng
người Bahnar truyền thống, “Ý thức làm chủ tập
thể ở đây tuy còn dạng sơ khai nhưng đã được
qn triệt. Một khi cơng việc đã được bàn bạc
dẫn đến quyết định, cả làng tự giác hồn thành
dưới sự điều khiển của các già làng” [3, tr 131].
Từ sau năm 1975, kết cấu tổ chức làng

Bahnar ở An Khê có nhiều biến chuyển. Làng
khơng còn là cộng đồng sở hữu về lãnh thổ như
trước, mà sở hữu Nhà nước đã thay thế cho sở
hữu của các bn làng. Quan hệ làng xóm của
người Bahnar hiện nay là quan hệ bình đẳng.
Mặc dù tính tự quản với vai trò của già làng vẫn
còn nhưng đã có sự tác động mạnh mẽ của các
tổ chức chính quyền cấp xã, thơn trong việc
điều hành mọi hoạt động của làng. Nhà rơng
khơng còn là nơi tụ tập để phòng thủ hay bàn
việc tấn cơng các làng khác khi chiến tranh xảy
ra giữa các làng nữa mà là nơi hội họp dân làng
mỗi khi có dịp lễ, tết hay bàn việc sản xuất, vui
chơi, giải trí.
Có thể nói, ở 4 làng Bahnar ở An Khê, từ
15 năm trở lại đây, loại hình nhà ống xây bằng
vật liệu mới như xi măng, sắt, gạch, tơn, ngói
đã tăng lên với số lượng lớn bên cạnh các nhà
sàn truyền thống. Đó là thành quả của việc
người Bahnar đã xóa bỏ các tập qn sản xuất

13
SỐ 06 NĂM 2019

KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN


TẠP CHÍ KHOA HỌC CƠNG NGHỆ VÀ MƠI TRƯỜNG

14


KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN
lạc hậu, mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng
vật ni, đưa các giống, cây trồng cho năng suất
cao như mía, mì, bắp lai, lúa nước, keo, bạch đàn
vào canh tác. Nhờ đó, thu nhập các hộ dân tăng
lên nhiều so với trước kia, đời sống vật chất của
người dân trong các làng Bahnar được cải thiện
rõ rệt. Nhà ống của người Bahnar được ngăn ra
thành nhiều phòng để “đảm bảo sự riêng tư”.
Từ khi người Bahnar có nhiều nhà ống, nhà sàn
chỉ còn là nơi n tĩnh của người cao tuổi, nó
khơng còn phản ánh mối quan hệ và sự kiểm
sốt đa chiều, liên thế hệ nữa.
4. Kết ḷn
Có thể nói, cộng đồng người Bahnar ở
vùng An Khê có một nền văn hóa bản địa phong
phú và đa dạng, với văn hóa chữ viết, trang
phục, nhà sàn truyền thống, âm nhạc dân gian,
văn hóa ẩm thực độc đáo.
Hiện nay, người Bahnar ở An Khê là nơi
còn lưu giữ được nhiều di sản văn hóa vật thể
và phi vật thể, vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá
trị thẩm mỹ độc đáo như: Nhà rơng, nhà sàn,

cồng chiêng, tượng nhà mồ, các lễ hội và kho
tàng văn học dân gian với những bản trường ca,
truyện cổ, truyện ngụ ngơn, lời nói vần, những
làn điệu dân ca đậm đà bản sắc lưu truyền qua
nhiều thế hệ. Điều cấp thiết lúc này là nhà nước

và chính quyền địa phương phải xây dựng các
thiết chế văn hóa phù hợp để nhân dân sống
với văn hóa của minh và hưởng thụ các giá trị
văn hóa với sự giúp đỡ của nhà nước. Có như
vậy, chúng ta mới bảo tồn và phát huy được các
giá trị văn hóa truyền thống trong cộng đồng
người Bahnar nói riêng và các dân tộc tại chỗ
trên địa bàn tỉnh Gia Lai nói chung./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. UBND thị xã An Khê, Lịch sử và văn hóa vùng đất An
Khê - Gia Lai. Nhiệm vụ KHCN cấp tỉnh năm 2017.
2. Ban chấp hành Đảng bộ thị xã An Khê (2010), Lịch
sử Đảng bộ thị xã An Khê (1945-2005), NXB Chính trị quốc gia.
3. Bùi Minh Đạo (cb) (2006), Dân tộc Bahnar ở Việt Nam,
NXB Khoa học Xã hội.
4. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên) (1981), Các dân tộc tỉnh
Gia Lai - Cơng Tum, NXB Khoa học Xã hội.
5. Lưu Hùng (1996), Làng bn cổ truyền xứ Thượng, NXB
Văn hố Dân tộc Hà Nội.
6. Nguyễn Khắc Tụng (1991), Nhà rơng các dân tộc Bắc
Tây Ngun, NXB Khoa học xã hội.



×